ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Đỗ Thị Kim Quý
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ
CHUYỂN ĐỔI NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM KHI THU HỒI ĐẤT NÔNG
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã số: 60.85.01.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN VĂN TUẤN
Hà Nội - 2013
2
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG
NGHIỆP VÀ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CHUYỂN ĐỔI NGHÈ VÀ TẠO
VIỆC LÀM CHO NGƢỜI CÓ ĐẤT NÔNG NGHIỆP KHI THU HỒI
4
1.1. Vấn đề thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá,
đô thị hoá ở Việt Nam
4
1.1.1. Công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự cần thiết phải thu hồi đất
4
1.1.2. Sự cần thiết tạo việc làm cho lao động thuộc diện bị thu hồi đất
nông nghiệp do quá trình đô thị hóa
8
1.1.3. Khái quát chung về thực trạng thu hồi đất nông nghiệp phục vụ
CNH, HĐH và đô thị hóa ở Việt Nam
9
1.2. Khái quát sự thay đổi về chính sách thu hồi, bồi thường đất nông
nghiệp và hỗ trợ, tạo việc làm, cải thiện đời sống cho người có đất
nông nghiệp bị thu hồi từ khi có Luật đất đai 1993 đến nay
11
1.2.1. Chính sách thu hồi, bồi thường đất nông nghiệp và hỗ trợ
chuyển đổi nghề, tạo việc làm ở Việt Nam qua các thời kỳ
11
1.2.2. Chính sách dạy nghề, học nghề, giải quyết việc làm khi thu hồi
đất nông nghiệp
17
1.3. Nội dung chính sách hiện hành của Chính phủ về hỗ trợ chuyển
đổi nghề, tạo việc làm khi thu hồi đất nông nghiệp.
23
Chƣơng 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HỖ TRỢ CHUYỂN ĐỔI
NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI THU
HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở QUẬN LÊ CHÂN
26
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
26
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
26
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
27
2.1.3 Tình hình quản lý và sử dụng đất
30
2.2 Phương hướng phát triển kinh tế và nhu cầu chuyển đổi nghề, tạo
việc làm trên địa bàn quận Lê Chân giai đoạn 2011-2015
36
3
2.3. Tình hình thu hồi đất nông nghiệp tại quận Lê Chân giai đoạn
2007-2012
37
2.4. Thực trạng việc làm của người lao động thuộc diện khi thu hồi đất
nông nghiệp ở quận Lê Chân giai đoạn 2007-2012
42
2.5 Thực trạng công tác hỗ trợ chuyển đổi nghề tạo việc làm cho người
lao động bị thu hồi đất nông nghiệp
49
2.5.1. Thực trạng công tác hỗ trợ về kinh tế
49
2.5.2. Thực trạng hỗ trợ dạy nghề và học nghề
53
2.5.3 Thực trạng công tác hỗ trợ tạo việc làm mới
56
2.6. Đánh giá những ƣu điểm, tồn tại và những vấn đề đặt ra nhằm tạo
việc làm cho lao động thuộc diện thu hồi đất nông nghiệp ở quận Lê
Chân
58
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CHUYỂN ĐỔI NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO LAO
ĐỘNG THUỘC DIỆN THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở QUẬN LÊ
CHÂN
62
3.1. Các quan điểm về tạo việc làm cho người lao động khi thu hồi đất
nông nghiệp do quá trình đô thị hóa ở quận Lê Chân
62
3.2. Đề xuất một số giải pháp
64
3.2.1. Giải pháp về cơ chế chính sách
65
3.2.2.Giải pháp quy hoạch (đất dịch vụ tạo tiền điều kiện về việc làm)
67
3.2.3. Giải pháp tài chính tín dụng (huy động các nguồn vay vốn để
đầu tư sản xuất kinh doanh tạo việc làm)
68
3.2.4 Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước các cơ sở dạy
nghề
68
3.2.5 Giải pháp phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp và nghề truyền
71
4
thống trên địa bàn quận
3.2.6 Một số giải pháp khác
74
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
78-79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
80-81
5
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tình hình thu hồi đất ở một số địa phương trên cả nước…………… 10
Bảng 2.1: Giá trị SX các ngành của quận Lê Chân năm 2011 33
Bảng 2.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quận Lê Chân qua các năm 33
Bảng2.3: Diện tích và cơ cấu các loại đất của quận Lê Chân năm 2011 …… 36
Bảng2.4: Diện tích và cơ cấu đất nông nghiệp quận Lê Chân năm 2011 …… 37
Bảng2.5: Biến động các loại đất của quận Lê Chân giai đoạn 2006-2011… 38
Bảng2.6: Một số dự án đầu tư trọng điểm trên địa bàn quận …… 42
Bảng2.7:Tình hình thu hồi đất GPMB tại một số dự án trên địa bàn quận 45
Bảng2.8:Tình hình việc làm của lao động trong diện bị thu hồi đất 49
Bảng2.9:Việc làm trước và sau khi diễn ra việc thu hồi đất của lao động 53
Bảng2.10:Tổng hợp các hộ mất đất từ ngày 01/01/2010-30/9/2011 55
Bảng2.11:Hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo việc làm cho các hộ mất đất trên 30% 57
Bảng2.12:Tình hình hỗ trợ đền bù và thực trạng đời sống của các hộ 58
Bảng2.13:Tỷ lệ người lao động rợ giúp sau khi thu hồi đất 59
Bảng2.14:Kết quả đăng ký dạy nghề năm 2011 tai quận 61
Bảng2.15:Khu vực làm việc trước và sau khi diễn ra việc thu hồi đất 64
Bảng2.16:Tình hình tuyển dụng lao động nông nghiệp trên địa bàn quận 65
Bảng2.17:Mục đích sử dụng tiền đền bù khi thu hồi đất của các hộ gia đình 67
PHIẾU ĐIỀU TRA
Phát phiếu điều tra 100 phiếu tới các hộ dân nhưng thu về được 55 phiếu
Dự án PTGT phát 33 phiếu thu về 16 phiếu
Mương An Kim Hải phát 20 phiếu thu về 10 phiếu
Làng Việt Kiều phát 47 phiếu thu về 29 phiếu
6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
KCN
Khu công nghiệp
NĐ-CP
Nghị định - Chính phủ
QĐ-CP
Quyết định - Chính phủ
UBND
Ủy ban nhân dân
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
HTX
Hợp tác xã
TTGTVL
Trung tâm giới thiệu việc làm
GTVL
Giới thiệu việc làm
XKLĐ
Xuất khẩu lao động
GPMB
Giải phóng mặt bằng
7
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đô thị hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi cả nước nói
chung và Hải Phòng nói riêng. Ở tầm vĩ mô, một mặt đô thị hoá là một trong những
giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo hướng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế đáp ứng mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá: phát triển mạnh các
ngành công nghiệp và thương mai – dịch vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong giai
đoạn từ nay đến năm 2020. Mặt khác đô thị hoá cũng là một trong những chỉ tiêu quan
trọng phản ánh sự phát triển của một đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những tác động
tích cực, vẫn còn có không ít những bất cập, tồn tại đặt ra cần phải giải quyết, đặc biệt
là vấn đề lao động - việc làm đối với một bộ phận lớn dân cư nông thôn bị rơi vào tình
trạng thất nghiệp và thiếu việc làm khi bị thu hồi đất đai phục vụ mục tiêu đô thị hoá,
phát triển đô thị.
Hải Phòng là một trong những thành phố có tốc độ đô thị hoá thuộc loại nhanh.
Điều này được thể hiện qua sự mở rộng phạm vi địa giới và sự tăng trưởng về số lượng
các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, các khu đô thị mới.
Quận Lê Chân là một quận nội thành của thành phố Hải Phòng, có tốc độ đô thị
hoá nhanh với khoảng 37 dự án đầu tư trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay (tính đến
28/12/2012), trong đó phần lớn là cho mục đích phát triển xây dựng khu chung cư, nhà
trẻ, trường học, chợ dân sinh, khu công nghiệp và nhiều ngành nghề khác với tổng
diện tích đất thu hồi hàng trăm ha. Đi cùng những dự án, hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã
hội ở các khu vực dân cư xung quanh vùng quy hoạch cũng được cải tạo và nâng cấp
đồng bộ. Đời sống của người dân có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực, hạ tầng
cơ sở và hệ thống y tế, giáo dục, giao thông ngày càng được cải thiện hơn. Tuy
nhiên, bên cạnh những tác động của đô thị hoá đối với đời sống kinh tế - xã hội nói
chung, không thể không đề cập tới những tác động của nó đối với vấn đề lao động -
việc làm.
Cùng với quá trình đô thị hoá là xu hướng diện tích đất nông nghiệp của
quận bị thu hẹp lại và cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông
nghiệp đã tất yếu dẫn đến việc chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm của người
dân, ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của họ. Vấn đề đặt ra ở đây là cơ cấu lao
động và việc làm của người dân bị thu hồi đất nông nghiệp đã chuyển đổi như thế
nào? Nhà nước đã có những chính sách, giải pháp gì để hỗ trợ chuyển đổi nghề và
tạo việc làm cho người dân bị mất đất? Về những điểm này, đề tài luận văn sẽ tậ p
trung đi sâu nghiên cứu, phân tích và lý giải. Để từ đó đưa ra các giải pháp và đề
8
nghị phù hợp nhằm tạo việc làm, giúp cho việc chuyển đổi việc làm đạt hiệu quả
cao tại quận Lê Chân.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc
làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Lê Chân giai đoạn
2007-2012.
- Đề xuất các giải pháp nhằ m nâng cao hiệu quả chuyể n đổ i nghề và tạ o việ c
làm cho lao động thuộ c diệ n thu hồ i đấ t nông nghiệ p ở quận Lê Chân.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan một số vấn đề về thu hồi đất nông nghiệp và các chính sách giải
quyết việc làm cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi
- Điề u tra, khảo sát làm r thực trạ ng việc làm của lao động trong các gia đình
có đất nông nghiệp bị thu hồi và tình hình thực hiện chính sách chuyển đổi nghề, tạo
việc làm trên địa bàn quận Lê Chân.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần cải thiện đời sống, việc làm cho người có
đất nông nghiệp bị thu hồi
4. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng công tác chuyển đổi nghề, tạo việc làm
cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi trên địa bàn quận Lê Chân trong giai đoạn
2007 – 2012 và tập trung vào 03 dự án nghiên cứu điểm (Dự án phát triển giao thông
đô thị trên địa bàn phường Vĩnh Niệm, Dự án Cải tạo Kênh An Kim Hải trên địa bàn
phường Nghĩa Xá, Dự án Xây dựng Làng Việt Kiều trên địa bàn phường Niệm
Nghĩa).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Vấn đề nghiên cứu được đặt trong mối quan hệ
tổng quan, được tiếp cận từ nhiều phía; cụ thể là tiếp cận từ tổng thể tới chi tiết; từ lý
luận, phương pháp luận tới thực tiễn; từ chính sách, pháp luật tới thực tế triển khai thực
hiện chính sách và thi hành pháp luật.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Thực hiện điều tra thực tế bằng
phương pháp sử dụng phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp các đối tượng liên quan tới
vấn đề nghiên cứu: các hộ dân có đất nông nghiệp bị thu hồi tại một số dự án.
- Phương pháp so sánh: So sánh làm r thực trạng giải quyết việc làm trước và
9
sau khi thu hồi đất nông nghiệp của các hộ dân tại một số dự án trên địa bàn quận Lê
Chân.
- Phương pháp kế thừa: Thu thập tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước có liên
quan; khảo cứu tài liệu và kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các chương
trình, công trình, đề tài khoa học có liên quan tới vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích: Phân tích làm r thực trạng công tác hỗ trợ chuyển đổi
nghề, tạo việc làm cho ngườ i lao độ ng thuộc diện thu hồ i đấ t nông nghiệ p ở quận Lê
Chân, từ đó đưa ra các giải pháp.
- Phương pháp chuyên gia: Tham vấn, trưng cầu ý kiến các nhà khoa học, các
chuyên gia có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu thông qua đối thoại
trực tiếp, góp ý hoặc phản biện kết quả nghiên cứu.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan một các vấn đề về thu hồi đất nông nghiệp và các chính
sách hỗ trợ, giải quyết việc làm cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
Chƣơng 2: Phân tí ch thự c trạ ng hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạ o việ c là m ch o
ngườ i lao độ ng thuộc diện thu hồ i đấ t nông nghiệ p ở quận Lê Chân.
Chƣơng 3: Đề xuất một số giả i phá p nhằ m nâng cao hiệu quả chuyể n đổ i nghề
và tạo việc làm cho lao động thuộc diện thu hồi đất nông nghiệp ở quận Lê Chân
CHƢƠNG 1
10
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ CÁC
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CHUYỂN ĐỔI NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO
NGƢỜI CÓ ĐẤT NÔNG NGHIỆP KHI THU HỒI
1.1. Vấn đề thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, đô
thị hóa ở Việt Nam
1.1.1. Công nghiệp hoá, đô thị hoá và sự cần thiết phải thu hồi đất
a. Một số khái niệm có liên quan đến thu hồi đất, bồi thường khi thu hồi đất
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam 1996 thì “Bồi thường là đền bù
những tổn hại đã gây ra, trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao. Như vậy, bồi
thường là trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt
hại vì hành vi của chủ thể khác” [1].
Theo Luật Đất đai năm 2003, các khái niệm có liên quan đến thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ khi thu hồi đất được định nghĩa như sau:
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất
hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm
mới.
Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một
diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định [14].
Trong bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất của nông
hộ thì Nhà nước phải tính toán “bồi thường” tiền cho người dân một khoản tương ứng
và phù hợp với giá trị hiện tại của mảnh đất đó. Ngoài ra khi thu hồi đất thì người nông
dân không có việc làm do mất tư liệu sản xuất, Nhà nước tiếp tục tính toán “bù” thêm
một khoản cho người nông dân chuyển đổi nghề mới, tạo việc làm và ổn định cuộc
sống.
Nội dung của các khoản tiền bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp gồm:
- Tiền bồi thường đất: Là khoản tiền bồi thường cho hộ do bị mất tư liệu sản
xuất, cụ thể ở đây là đất nông nghiệp.
11
- Tiền bồi thường hoa mầu: Là khoản tiền bồi thường do việc thu hồi đất làm
thiệt hại đến hoa mầu chưa được thu hoạch trên diện tích thu hồi. Mức bồi thường đối
với cây hàng năm tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch một vụ tính theo mức thu
hoạch bình quân của ba vụ trước đó theo giá nông sản thực tế ở thị trường địa phương
tại thời điểm bồi thường.
- Tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp.
- Tiền hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất.
Các khoản hỗ trợ này nhằm mục đích giúp đỡ phần nào cho người dân sau khi
mất đất chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định cuộc sống và ổn định sản xuất, giảm bớt
những gắng nặng kinh tế. Không nhằm mục đích giải quyết toàn bộ kinh phí chuyển
đổi nghề nghiệp và ổn định sản xuất cho nông hộ, vì các khoản hỗ trợ này không nhiều
và chỉ mang tính chất hỗ trợ.
b. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá ở Việt Nam
CNH - HĐH và đô thị hoá là con đường phát triển của mọi quốc gia trên thế
giới. Trong thời đại khoa học - công nghệ phát triển nhanh, thì CNH - HĐH và đô thị
hoá là con đường giúp cho các nước chậm phát triển rút ngắn thời gian so với các nước
đi trước.
Thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia trong những năm gần đây cho thấy,
CNH - HĐH và đô thị hoá là nhân tố quyết định làm thay đổi căn bản phương thức sản
xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp truyền thống, tiểu nông sang phương
thức sản xuất mới, hiện đại, do đó cũng làm thay đổi nội dung kinh tế - xã hội nông
thôn. Trong nền kinh tế hiện đại, CNH - HĐH và đô thị hoá có sự gắn bó chặt chẽ với
nhau, tạo thành một tiến trình thống nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.
Trong quá trình CNH - HĐH, tiến trình phát triển xã hội đã có sự thay đổi cơ
bản đó là: Phát triển đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn, làm thay đổi căn bản
xã hội nông thôn theo hướng công nghiệp. Hiện tượng đô thị hoá được xem như là một
trong những nét đặc trưng nhất của sự biến đổi xã hội trong thời đại ngày nay. Cùng
với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá được xem như một khía cạnh quan trọng của
sự vận động đi lên của xã hội. Đô thị hoá là một quá trình lịch sử trong đó nổi lên một
vấn đề kinh tế - xã hội là nâng cao vai trò của đô thị trong sự phát triển mọi mặt của xã
hội. Quá trình này bao gồm sự thay đổi trong phân bố lực lượng sản xuất, trước hết là
12
trong sự phân bố dân cư, trong kết cấu nghề nghiệp - xã hội, kết cấu dân số, trong lối
sống, văn hoá [12].
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi đối với sản xuất và đời sống con
người, sự phát triển nhanh chóng của các đô thị cũng là nguyên nhân chính gây ảnh
hưởng đến cân bằng sinh thái do tài nguyên đất bị khai thác để xây dựng đô thị, giảm
diện tích cây xanh và mặt nước, bùng nổ giao thông cơ giới. Cùng với đó là sự gia tăng
khối lượng khai thác và sử dụng nguồn nước sạch, mức độ ô nhiễm các chất thải công
nghiệp và sinh hoạt ngày càng một lớn. Ngoài ra, sự gia tăng dòng người di dân từ
nông thôn ra đô thị cũng gây nên những áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi
trường,…
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống muốn trở thành
nước có nền công nghiệp hiện đại, cần phải đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH đất nước,
đó là con đường để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cũng như ở các quốc gia khác, CNH - HĐH ở
nước ta tất yếu kéo theo quá trình đô thị hoá. Tốc độ công nghiệp hoá càng nhanh sẽ
dẫn đến trình độ đô thị hoá càng cao. Đô thị hoá và sự hình thành các đô thị hiện đại là
một trong những chỉ tiêu cơ bản phản ánh trình độ hiện đại hoá. Về thực chất, CNH -
HĐH và đô thị hoá là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển mạnh khu
vực công nghiệp, dịch vụ, giảm mạnh lao động nông nghiệp. Như vậy, phần lớn lao
động nông thôn làm nông nghiệp sẽ phải chuyển sang làm phi nông nghiệp, dân sống ở
nông thôn trở thành dân thành thị.
Đến nay, tốc độ CNH - HĐH và đô thị hoá ở Việt Nam đã và đang được đẩy
mạnh, nhưng so với thế giới Việt Nam vẫn ở mức thấp. Theo báo cáo thống kê của
Liên Hợp Quốc, các nước công nghiệp phát triển cho thấy trình độ, đô thị hoá của
nước ta thấp hơn nhiều và năm 2009 mức thu nhập bình quân tính theo đầu người xếp
138/193 nước. Mức thu nhập bình quân đầu người năm 2010 của Việt Nam cũng mới
chỉ đạt khoảng 1.160 USD/người/năm. Trong khi đó ở các nước có nền kinh tế công
nghiệp mới đã có mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người cao hơn gấp 5 đến 24
lần, các nước tư bản cao hơn gấp 60 đến 80 lần [13].
Trước tình hình trên, Việt Nam cần phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH - HĐH
và đô thị hóa, đó là một yêu cầu khách quan và cấp bách của sự phát triển. Trên thực tế,
13
đối với nước ta quá trình CNH - HĐH và đô thị hoá đang diễn ra với quy mô lớn và tốc độ
nhanh, góp phần quan trọng phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhất là
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các trung tâm
thương mại và dịch vụ là yếu tố quan trọng duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao, tạo việc
làm ở các khu vực chính với chất lượng công việc và giá trị lao động ngày càng cao.
c. Sự cần thiết phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất để thực hiện công nghiệp
hoá và đô thị hóa ở nước ta
Việc thu hồi đất để xây dựng các KCN, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội ở nước ta được tiến hành mạnh mẽ từ khi thực hiện đường lối đổi mới, chuyển nền
kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Quá trình này được thúc đẩy nhanh hơn từ năm 1996, khi nền kinh tế
nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
đã xác định r: Đẩy mạnh CNH - HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,…tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại [19].
Cùng với CNH - HĐH nền kinh tế, nhiệm vụ xây dựng đồng bộ và từng bước
hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng được đặt ra một cách cấp thiết. Tiến trình CNH -
HĐH ở nước ta từ những năm 1990 được gắn liền với đô thị hoá cả về chiều rộng và
chiều sâu. Chiến lược phát triển đô thị Việt Nam thời kỳ 1996 - 2020 xác định mục
tiêu phát triển đô thị cả nước đến năm 2020 là: Xây dựng tương đối hoàn chỉnh đô thị
cả nước, có kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật hiện đại, có môi trường đô thị trong sạch,
được phân bổ phát triển hợp lý trên địa bàn cả nước,… phấn đấu đến năm 2020, dân số
đô thị chiếm khoảng 45% dân số cả nước [13].
Việc thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây gắn với sự
chuyển đổi mục đích sử dụng sang các loại đất phi nông nghiệp. Nhờ đó đã xây dựng
được nhiều KCN, các cụm công nghiệp, mở rộng và xây dựng mới các khu đô thị, hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội giao thông, cấp điện, cấp thoát nước, thông tin
liên lạc, trường học, bệnh viện,… hoàn thiện và phát triển các cơ sở dịch vụ như khách
sạn, nhà hàng, siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm dịch vụ, du lịch; mở rộng và
xây dựng mới các khu vui chơi giải trí, công viên, cây xanh,… chính điều đó làm cho
quá trình CNH - HĐH có bước tiến đáng kể, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ hơn.
14
Tóm lại, nếu CNH - HĐH và đô thị hoá là tất yếu khách quan đối với nước ta
thì việc thu hồi đất để phục vụ cho quá trình này là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Vì
vậy, trong quá trình CNH - HĐH, bất cứ nước nào cũng phải chuyển đổi một số lượng
đất đai từ mục đích nông nghiệp sang mục đích phi nông nghiệp để phục vụ cho việc
phát triển hạ tầng.
1.1.2. Sự cần thiết tạo việc làm cho lao động thuộc diện khi thu hồi đất nông
nghiệp do quá trình đô thị hóa
Tạo việc làm cho người lao động là vô cùng cần thiết, trước hết là nhằm giảm
lao động thất nghiệp cho nền kinh tế. Công nghiệp hóa là xu hướng tất yếu đối với các
quốc gia chậm phát triển muốn nhanh chóng thoát ra khỏi nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, chuyển sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại, năng suất cao. Trong quá trình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao động. Hơn nữa, cùng với quá
trình phát triển kinh tế, nhiều ngành nghề mới, hoạt động sản xuất mới ra đời thay thế
cho một số hoạt động sản xuất cũ dẫn đến thất nghiệp phát sinh. Như vậy, tạo việc làm
cho người lao động trước hết nhằm giảm lượng lao động thất nghiệp, đồng thời góp
phần làm tăng sản lượng quốc dân, tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm là một trong những vấn đề có tính chất
toàn cầu, là mối quan tâm rất lớn không những của nước ta mà là tất cả các nước trên
thế giới. Việc làm có ý nghĩa to lớn trong việc làm ra của cải vật chất để nuôi sống con
người. Tạo việc làm cho người lao động giúp họ có thu nhập, góp phần xóa đói giảm
nghèo, tạo điều kiện thỏa mãn các nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần của
người lao động, ngày một nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao vị thế của người
lao động trong gia đình và ngoài xã hội.
Tạo việc làm cho lao động không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý
nghĩa về mặt xã hội. Nếu không có việc làm, thất nghiệp sẽ tăng, đó là nguồn gốc của
các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, cờ bạc, ma túy…Như vậy, tạo việc làm không những
góp phần đẩy lùi được các tệ nạn xã hội mà còn có thể kích thích người lao động sáng
tạo, thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển, đảm bảo công bằng xã hội.
15
Vấn đề tạo việc làm cho lao động là vấn đề cần thiết trong mọi thời kỳ, đặc biệt
đối với đối tượng lao động trong diện giải tỏa đất nông nghiệp do quá trình đô thị hóa
thì vấn đề này càng trở nên bức thiết vì họ là những người có trình độ chuyên môn
thấp, khả năng tìm việc làm và chuyển đổi nghề nghiệp thường thấp hơn so với các đối
tượng khác.
Trong quá trình đô thị hóa, nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các
công trình đô thị phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH. Do đó, hàng nghìn hộ nông dân
kéo theo hàng vạn nhân khẩu nông nghiệp mất tư liệu sản xuất dẫn tới mất việc làm,
cuộc sống và thu nhập của họ gặp không ít khó khăn. Một bộ phận nông dân có kiến
thức, có trình độ đã chủ động mở mang các ngành nghề, dịch vụ, phát triển tiểu thủ
công nghiệp… tạo việc làm và có cuộc sống ổn định. Song bên cạnh đó còn rất nhiều
hộ còn lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế do họ không bắt kịp với cơ chế thị
trường, trình độ thấp, không có nghề, hay tuổi đời cao…họ gặp phải nhiều khó khăn
trong việc tìm và tạo việc làm mới. Do hạn chế về văn hóa và nhận thức, nếu như lực
lượng này không được tạo việc làm, không có thu nhập để trang trải cuộc sống, cộng
với việc có nhiều thời gian rảnh rỗi thì họ dễ bị lôi kéo, dụ dỗ vào các hoạt động phi
pháp như trộm cắp, cướp giật, ma túy, cờ bạc…Vì vậy, tạo việc làm cho những lao
động này cũng chính là biện pháp làm giảm tệ nạn xã hội, góp phần đảm bảo trật tự an
ninh xã hội, môi trường sống xã hội sẽ trở nên tốt hơn.
Như vậy, vấn đề tạo việc làm cho người lao động nói chung, cho người lao
động bị thu hồi đất nông nghiệp nói riêng là vô cùng cần thiết vì nó không chỉ làm cho
nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, mà còn góp phần làm ổn định xã hội, giảm thất
nghiệp và các tệ nạn xã hội, đồng thời cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động
theo đúng hướng đó là tăng tỉ trọng lao động trong ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỉ
trọng lao động trong ngành nông nghiệp.
1.1.3. Khái quát chung về thực trạng thu hồi đất nông nghiệp phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá ở Việt Nam
Thực tiễn ở nước ta trong những năm qua cho thấy, CNH - HĐH và đô thị hoá
tất yếu sẽ dẫn đến một bộ phận đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng. Trong quá
trình đó, Nhà nước sẽ thực hiện thu hồi đất để xây dựng các KCN, khu đô thị, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia.
16
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước cùng nhiệm vụ đặt ra trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm, quá trình thu hồi đất để phát triển và
xây dựng mới các đô thị, KCN và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nước ta diễn ra
mạnh mẽ, đặc biệt đối với đất nông nghiệp.
Theo số liệu của Viện Nghiên cứu định cư, hàng năm, diện tích đất nông nghiệp
bị thu hồi cho phát triển công nghiệp là khoảng trên 70.000 ha, chưa kể cho phát triển
đô thị là khoảng 10.000 ha. Chỉ tính riêng một số tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Sông
hồng như: Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng và Ninh Bình, số diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi cho phát triển công nghiệp trong những năm vừa qua đã lên hàng
chục nghìn hecta (Bắc Ninh: gần 2.000 ha, Hải Phòng: gần 4.000 ha, Bình Dương,
trong số 24 KCN đã đưa vào sử dụng với tổng diện tích trên 8.100 ha thì cũng chủ yếu
là đất nông nghiệp. Ninh Bình là một tỉnh nhỏ, nhưng cũng có tới 735 ha đất cho công
nghiệp được lấy từ nông nghiệp), ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của hàng chục
nghìn hộ gia đình. Trong quy hoạch từ nay đến năm 2020, một số tỉnh, diện tích đất
nông nghiệp bị thu hồi có thể tăng lên gấp đôi [20].
Thực tế cho thấy những diện tích đất bị thu hồi chủ yếu nằm ở những khu vực
đông dân, có tốc độ phát triển nhanh, một số địa phương có điều kiện thuận lợi, nhất là
gần các sân bay, bến cảng, các đầu mối giao thông đường sắt, đường bộ, gần các trung
tâm kinh tế lớn của đất nước. Hơn nữa, mức độ thu hồi đất còn phụ thuộc lớn vào những
tỉnh, thành phố có đội ngũ cán bộ có năng lực, năng động, sáng tạo và có chính sách cởi
mở, phù hợp với xu thế phát triển của địa phương.
Diện tích đất nông nghiệp của các tỉnh, thành phố bị thu hồi nhiều được trình
bày ở bảng sau:
Bảng 1. Tình hình thu hồi đất ở một số địa phƣơng trên cả nƣớc
(Tính đến tháng 3/2011)
17
TT
Tỉnh, thành phố
Tổng diện tích
đất nông nghiệp
Diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi
Tỷ lệ đất nông
nghiệp bị thu hồi
ha
%
1
Tuyên Quang
531.953,11
98.205,60
18,46
2
Hà Nội
40.805,00
26.470,11
57,8
3
Hải Phòng
84.963,00
17.455,47
20,53
4
Hưng Yên
52.217,00
33.296,65
55,4
5
Hải Dương
101.667,00
39.203,25
36,3
6
Vĩnh Phúc
89.711,34
43.490,44
46,04
7
Bắc Ninh
42.997,37
47.146,25
93,37
8
Kiên Giang
562.676,00
80.690,94
14
Nguồn: Tổng cục Quản lý đất đai [16].
Trong những năm gần đây diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ở nước ta rất lớn
và tập trung ở một số vùng có mật độ dân số cao, diện tích đất nông nghiệp bình quân
đầu người thấp, có nhiều xã có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm 70 - 80%
diện tích đất canh tác, có nhiều xã chiếm tới 100%, điển hình ở các huyện nằm trong
khu vực Hải Phòng mở rộng và các xã, huyện được quy hoạch xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị.
1.2. Khái quát sự thay đổi về chính sách thu hồi, bồi thƣờng đất nông
nghiệp và hỗ trợ, tạo việc làm, cải thiện đời sống cho ngƣời có đất nông nghiệp
khi thu hồi từ sau khi có luật đất đai 1993 đến nay
1.2.1. Chính sách thu hồi, bồi thường đất nông nghiệp và hỗ trợ chuyển đổi
nghề, tạo việc làm ở Việt Nam qua các thời kỳ
Qua nghiên cứu cách chính sách thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta cho thấy các
quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu
thực tế. Các chính sách được thể hiện qua các giai đoạn của quá trình áp dụng Luật đất
đai, cụ thể như sau:
a. Trước khi có Luật đất đai 1993
Ngày 14 tháng 4 năm 1959, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị định
151/TTg quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất có nội dung: “Những người
có ruộng đất bị trưng dụng được bồi thường và trong trường hợp cần thiết được giúp
18
giải quyết công việc làm ăn”.
Ngày 11 tháng 01 năm 1970 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Thông tư
1792/TTg quy định một số điểm tạm thời về bồi thường thiệt hại nhà cửa, đất đai, cây
cối hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng thành phố trên
nguyên tắc “Phải đảm bảo thoả đáng quyền lợi kinh tế của hợp tác xã và của nhân dân”
Thi hành Hiến pháp năm 1980, Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 2
năm 1987 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước giao đất cho các đối
tượng có nhu cầu để sử dụng ổn định lâu dài, có thời hạn hoặc tạm thời theo quy hoạch
và kế hoạch sử dụng đất được duyệt. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất nào
thì có quyền thu hồi đất đó.
Ngày 31 tháng 5 năm 1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số
186/HĐBT về việc đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi bị chuyển mục
đích sử dụng vào mục đích khác thì phải bồi thường. UBND các tỉnh, thành phố quy
định cụ thể mức bồi thường thiệt hại của địa phương mình sát với giá đất thực tế ở địa
phương nhưng không thấp hơn hoặc cao hơn khung giá định mức. Tổ chức, cá nhân
được Nhà nước giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào mục đích khác thì
phải bồi thường về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước .
Trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1993 nhà nước chỉ mới có một số quy
định riêng lẻ về đền bù thiệt hại, chưa hình thành chính sách thu hồi đất. Nguyên nhân
là khi đó đất đai chỉ được xem là tài nguyên có giá trị sử dụng, mặt khác do nền kinh tế
có nhiều khó khăn nên nhu cầu thu hồi đất cũng không lớn.
b. Sau khi có Luật đất đai 1993 đến nay
Luật năm 1992 vẫn quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước giao
đất, cho thuê đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định, nhưng tiếp theo đó tuyên
bố trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà
nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời
giá thị trường.
Giai đoạn này việc thu hồi và bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đã
có điều chỉnh so với giai đoạn trước trên cơ sở thực hiện Luật đất đai năm 1993 xác
lập quyền sử dụng đất của hộ dân. Chính phủ ban hành Nghị định 90/CP ngày 17
tháng 8 năm 1994 của Chính phủ quy định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
19
thu hồi đất sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng thay thế tất cả các văn bản, chính sách trước đây của Nhà nước về bồi thường
giải phóng mặt bằng.
Nhìn chung việc bồi thường đất nông nghiệp trong giai đoạn này có sự thay đổi
cơ bản về chủ thể đối với quyền sử dụng đất, nhưng vì giá bồi thường thiệt hại đất
nông nghiệp còn thấp (mới đảm bảo đủ chi phí cho việc khai hoang xây dựng đồng
ruộng) chưa phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Việc thu hồi đất để
thực thi các dự án đầu tư còn gặp nhiều khó khăn. Có thể thấy nội dung của Nghị định
90/CP còn rất sơ sài, chưa gắn với cơ chế thị trường.
Ngày 24 tháng 4 năm 1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 22/1998/NĐ-CP
để thay thế cho Nghị định số 90/CP. Nghị định gồm 6 chương 40 điều quy định r
phạm vi, đối tượng được bồi thường thiệt hại; Nguyên tắc, giá đất đền bù, chính sách
hỗ trợ, Đây là các văn bản quy định việc thu hồi và đền bù thiệt hại khi nhà nước thu
hồi đất rất r ràng, đầy đủ nhất từ trước đến năm 1998 ở nước ta.
Tuy vậy, việc quy định giá đất để đền bù còn hạn chế ở cách tính hệ số K cho từng
dự án để nhân với giá đất chung Chính phủ quy định. Việc tính hệ số K ở mỗi dự án, mỗi
địa phương rất phức tạp về cách tính toán và thủ tục hành chính, việc thực thi đền bù đất
bị kéo dài, trong khi giá cả thị trường về quyền sử dụng đất luôn biến động nên nảy sinh
nhiều mâu thuẫn trong nhân dân. Tại Điều 25 quy định về Hỗ trợ để ổn định sản xuất và
đời sống nêu: “1. Hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống cho những người phải di chuyển
chỗ ở được tính trong thời hạn là 6 tháng, với mức trợ cấp tính bằng tiền cho 1 nhân
khẩu/1 tháng tương đương 30 kg gạo theo thời giá trung bình ở thị trường địa phương tại
thời điểm đền bù. 4. Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất còn có trách nhiệm: Hỗ
trợ chi phí đào tạo cho những lao động nông nghiệp phải chuyển làm nghề khác do bị thu
hồi đất và nếu có nhu cầu tuyển dụng lao động mới thì phải ưu tiên tuyển dụng lao động
thuộc các đối tượng có đất bị thu hồi.”
Trên cơ sở Luật đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị
định 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về bồi thường, hỗ trợ tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất gồm 7 chương, 51 điều.
Nghị định 197/2004 và Nghị định 22/1998 có bố cục về cơ bản thống nhất với
nhau, nhưng Nghị định 197 đã khắc phục được những tồn tại trong Nghị định 22, trong
20
đó quy định “giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng” do
UBND tỉnh quy định. Tại Điều 29 quy định: “ 1- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản
xuất nông nghiệp khi bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp thì được
hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động, mức hỗ trợ và số
lượng lao động cụ thể được hỗ trợ do UBND cấp tỉnh quyết định phù hợp với thực tế
địa phương. 2 - Việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu
bằng hình thức cho đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề”.
Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ về
sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
Điểm mới là quy định trường hợp tại thời điểm có quyết định thu hồi đất mà giá đất
chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều
kiện bình thường thì UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp.
Sau một thời gian thực hiện Chính Phủ ban hành Nghị Định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/5/2007 đã thể hiện được tính khả thi và vai trò tích cực của các văn bản pháp
luật. Tại Điều 48 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu
hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp trong trường hợp không được Nhà nước bồi
thường bằng đất nông nghiệp tương ứng mà không có nguyện vọng nhận bồi thường
bằng đất làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp thì được bồi
thường bằng giao đất ở có thu tiền sử dụng đất tại khu tái định cư hoặc tại các vị trí
trong khu dân cư phù hợp với quy hoạch”.
Ngày 13/8/2009 Chính Phủ ban hành Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định
về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, bãi bỏ
Điều 48 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và một số Nghị định khác của
Chính Phủ.
Tại Điều 22 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định:
1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo một trong các
hình thức bằng tiền hoặc bằng đất ở hoặc nhà ở hoặc đất sản xuất, kinh doanh phi nông
nghiệp như sau:
21
a) Hỗ trợ bằng tiền từ 1,5 đến 5 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện
tích đất nông nghiệp bị thu hồi; diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất
nông nghiệp tại địa phương.
b) Hỗ trợ một lần bằng một suất đất ở hoặc một căn hộ chung cư hoặc một suất
đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. Việc áp dụng theo hình thức này được thực
hiện đối với các địa phương có điều kiện về quỹ đất ở, quỹ nhà ở và người được hỗ trợ
có nhu cầu về đất ở hoặc căn hộ chung cư hoặc đất sản xuất, kinh doanh phi nông
nghiệp mà giá trị được hỗ trợ theo quy định tại điểm a khoản này lớn hơn hoặc bằng
giá trị đất ở hoặc căn hộ chung cư hoặc đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp;
phần giá trị chênh lệch được hỗ trợ bằng tiền.
2. Trường hợp người được hỗ trợ theo quy định tại khoản 1 Điều này có nhu
cầu được đào tạo, học nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề và được miễn học
phí đào tạo cho một khóa học đối với các đối tượng trong độ tuổi lao động.
Tại Khoản 1 điều 23 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định:
1. Ngoài việc hỗ trợ theo quy định, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương,
Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để bảo đảm có chỗ ở, ổn
định đời sống và sản xuất cho người bị thu hồi đất; trường hợp đặc biệt trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định.
Như vậy, khi thu hồi đất Nhà nước có những phương thức xử lý khác nhau về
việc bồi thường, hỗ trợ cho người dân mất đất, có thể bồi thường hỗ trợ bằng tiền, và
cũng có thể bồi thường bằng đất. Tuy nhiên trên thực tế, bồi thường hỗ trợ bằng tiền
được áp dụng rộng rãi hơn cả.
Trên cơ sở các quy định của Nhà nước, để thực hiện và áp dụng cho phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, trong những năm qua UBND
thành phố Hải Phòng đã ban hành các cơ chế chính sách về công tác bồi thường, hỗ trợ
chuyển đổi nghề, tạo việc làm khi thu hồi đất nông nghiệp cho khu vực nông thôn nói
chung, lao động trong khu vực thu hồi đất nông nghiệp nói riêng như sau:
- Chính sách hiện hành được áp dụng theo Quyết định số 130/2010/QĐ-UBND
ngày 22/01/2012 của UBND thành phố Hải Phòng quy định:
Tại Điều 12: Mục 2.1 Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm đối với hộ
gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi thu hồi đất:
22
“ 1. Nhà nước thu hồi trên 30% diện tích được giao theo hạn mức tại địa
phương được hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm bằng tiền hoặc bằng đất ở hoặc
nhà ở hoặc đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Căn cứ tình hình thực tế của địa
phương để xem xét mức hỗ trợ cụ thể cho phù hợp.
2. Hỗ trợ một lần bằng một suất đất ở hoặc một căn hộ chung cư hoặc một suất
đất kinh doanh, dịch vụ như sau:
- Giao đất để các hộ sản xuất kinh doanh, giao đất ở cho hộ gia đình, chỉ tính
một lần (dự án thu hồi đất trước đó đã tính thì dự án thu hồi đất lần sau không được
tính). Diện tích đất được giao để kinh doanh, dịch vụ tối thiếu 40m2/hộ, tối đa không
quá 50m2/hộ gia đình đối với các quận; tối thiếu 50m2/hộ, tối đa không quá 60m2/hộ
gia đình đối với các huyện.
- Giá đất tính tiền sử dụng đất để giao đất làm nhà ở, giao đất làm cơ sở kinh
doanh dịch vụ theo giá đất nông nghiệp cộng với chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng (trường
hợp khi nhận tiền đền bù về đất, nộp tiền sử dụng đất để được giao đất làm đất ở hoặc
để làm cơ sở kinh doanh dịch vụ nhưng vẫn không đủ thì được ghi nợ tiền sử dụng
đất).
- Trường hợp không có đất ở, đất kinh doanh, dịch vụ để giao thì hỗ trợ bằng
tiền 2.5 lần giá đất nông nghiệp đối với các quận; 2 lần giá đất nông nghiệp đối với các
huyện cho toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi (trong trường hợp này không
tính theo tỷ lệ diện tích đất thu hồi); diện tích hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất
nông nghiệp tại địa phương.
Tại Điều 12: Mục 2.2 Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất đối với hộ
sản xuất nông nghiệp được giao theo mức giao đất nông nghiệp tại địa phương được
hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất theo các mức:
1) Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ
trợ ổn định đời sống trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong
thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các địa
bàn có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt
khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng;
23
2) Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ ổn
định đời sống trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời
gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có
điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn
thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng;
3) Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu quy định tại các điểm 1 và 2 khoản này được
tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo thời giá trung bình tại thời
điểm hỗ trợ của địa phương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định.
Hộ gia đình, cá nhân chỉ được hỗ trợ theo quy định này một lần, sau này khi
Nhà nước tiếp tục thu hồi đất không được hưởng khoản hỗ trợ này nữa”.
1.2.2. Chính sách dạy nghề, học nghề, giải quyết việc làm khi thu hồi đất
nông nghiệp
a. Nhu cầu đào tạo nghề và việc làm cho nông dân khi thu hồi đất nông nghiệp
Trong những năm gần đây, vấn đề việc làm, đào tạo và chuyển đổi nghề nghiệp
cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên cả nước đang ngày càng nóng bỏng. Đô
thị hoá kéo theo sự mở rộng nhanh chóng nhu cầu sử dụng đất phát triển cho các KCN
tập trung, xây dựng cơ sở hạ tầng và đất ở đô thị đã làm cho diện tích đất nông nghiệp
ngày càng một thu hẹp. Theo Cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn, ở những nơi bị
thu hồi đất, có đến 67% số hộ vẫn phải quay lại nghề nông, chỉ có 13% có nghề mới
ổn định [15]. Có nhiều hộ dân muốn quay lại nghề cũ nhưng không có đất để sản xuất,
cuối cùng họ rơi vào cảnh thất nghiệp.
Tốc độ đô thị hoá và luồng lao động dịch chuyển từ nông thôn ra thành thị lớn
làm gia tăng lao động thành thị lên 4,7% so với 2,0% giai đoạn 1996 - 2008. Lao động
nông thôn chiếm khoảng 80% tổng lực lượng lao động, mức tăng trưởng GDP nông
nghiệp đóng góp 20% tổng GDP quốc gia thì tỷ lệ lao động nông thôn như vậy là cao,
tốc độ thu hút lao động khỏi nông nghiệp vẫn chậm. Ở nước ta lao động nông thôn
chiếm 3/4 lao động cả nước và tập trung chủ yếu ở ngành nông nghiệp, nơi tạo ra năng
xuất lao động thấp và cũng là nơi quỹ đất canh tác đang ngày càng bị thu hẹp và giảm
dần. Kết quả là nhiều lao động mất đất sản xuất hoặc thiếu đất sản xuất dẫn đến dư
thừa lao động và thiếu việc làm. Thu nhập của lao động nông nghiệp vì thế mà thấp và
24
thất thường, đây cũng chính là lí do khiến tỷ lệ người nghèo tập trung nhiều ở các
vùng nông thôn.
Có một thực tế trong vài năm trở lại đây, khi các khu công nghiệp (KCN) mọc
lên ngày càng nhiều thì cùng với sự phát triển đã có hàng trăm ngàn hecta đất nông
nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Hệ lụy kéo theo chính là hàng nghìn người
dân lâm vào tình cảnh mất đất, mất nghề, phải xa xứ kiếm sống…
Theo khảo sát mới đây cho thấy cứ mỗi hecta đất bị lấy đi sẽ có 10 lao động bị
ảnh hưởng. Chỉ tính trong 3 năm 2009 đến 2011, tổng diện tích đất chuyên dùng đã
tăng lên 104.422 ha dẫn đến một lượng lớn diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi
mục đích theo hai hướng chính là phục vụ xây dựng các KCN, khu chế xuất, cụm công
nghiệp vừa và nhỏ hoặc phát triển các khu đô thị tập trung theo các dự án xây dựng cơ
sở hạ tầng. Các khu vực kinh tế trọng điểm là khu vực có diện tích đất nông nghiệp
chuyển đổi lớn nhất, chiếm trên 50% tổng diện tích thu hồi. Mặc dù, số diện tích đất
nông nghiệp được thu hồi chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất nông nghiệp,
nhưng do thu hồi mang tính tập trung nên một số xã bị "mất" từ 70 - 80% diện tích,
kéo theo nhiều hộ bị thu hồi 100% diện tích, không còn đất sản xuất. Còn lại, đa phần
các hộ ở các địa phương có diện tích đất thu hồi lớn như Hà Nội, Hưng Yên, Hải
Phòng, Bắc Ninh, Kiên Giang…thường bị thu hồi từ 50 - 70% diện tích. Dự kiến, việc
thu hồi đất nông nghiệp trong năm năm tới sẽ ảnh hưởng tới 2,5 triệu người [13].
Khi CNH - HĐH diễn ra nhanh thì quỹ đất canh tác bị thu hẹp lại, có thể là do
phục vụ cho việc xây dựng các đô thị, KCN hay các công trình cũng có thể là do việc
tích tụ ruộng đất của người nông thôn. Trước thực tế đó nhiều lao động bị mất đất hoặc
thiếu đất sẽ phải chuyển hướng tìm việc làm mới hoặc chuyển đổi nghề nghiệp. Cũng
từ lý do đó lao động nông thôn rất cần được đào tạo, dạy nghề, họ cần có trình độ
chuyên môn và cập nhật kiến thức đào tạo dạy nghề để đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế của đất nước. Những năm gần đây, công tác dạy nghề đã có nhiều tiến triển.
Nhiều lao động đã ý thức được việc học nghề và số người tham gia các khoá đào tạo
tăng lên r rệt. Mới đây, nước ta cũng đã ban hành các chính sách và nghề cho nông
dân vùng mất đất và dân tộc thiểu số và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.
b. Chính sách dạy nghề, học nghề, giải quyết việc làm cho người dân có đất
nông nghiệp khi thu hồi
25
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mỗi quốc
gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt
Nam. Vấn đề chuyển dịch mục đích sử dụng đất dẫn đến chuyển dịch lao động cũng
đang diễn ra mạnh mẽ cả tự phát và trong quy hoạch đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời
sống và việc làm của người dân bị thu hồi đất. Hiện tượng lao động nông nghiệp có đất
nông nghiệp thu hồi bị mất việc làm do quá trình đô thị hóa và hình thành các khu vực
công nghiệp tập trung diễn ra mạnh mẽ.
Những năm qua, bên cạnh các chính sách bồi thường hỗ trợ bằng tiền cho người
dân mất đất, Nhà nước còn ban hành những chính sách nhằm hỗ trợ dạy nghề, học nghề
và tạo việc làm cho lao động nông thôn. Có thể kể đến ở đây như là:
- Nghị quyết số 13/NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể và Nghị quyết số 15-NQ/TW về đẩy mạnh CNH - HĐH nông nghiệp,
nông thôn thời kỳ 2001 - 2010.
- Chính phủ ra Quyết định số 126/QĐ-Tg ngày 11 tháng 7 năm 1998 phê duyệt
chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2000.
- Tiếp đó là Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2001 phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001
- 2005.
- Quyết định số 032/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ
về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn.
- Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn. Theo đó, đối tượng ưu
tiên là đối tượng lao động bị thu hồi đất nông nghiệp. Bộ tài chính cùng với Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2006/TTLT-BTC-
BLĐTBXH ngày 19/01/2006 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 81/2005/ QĐ-TTg,
trong đó có nêu: mỗi lao động bị thu hồi đất nếu có nhu cầu học nghề sẽ được hỗ trợ
tối đa không quá 300.000 đồng/người/tháng và không quá 1.500.000 đồng/người/khóa
học nghề.
- Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 phê duyệt đề án “đào tạo nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Quyết định ưu tiên đối tượng là người bị thu
hồi đất nông nghiệp khi có nhu cầu học nghề thì được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn