Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính về đất đai ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 97 trang )


1

ĐA
̣
I HO
̣
C QUÔ
́
C GIA HA
̀

̣
I
TRƢƠ
̀
NG ĐA
̣
I HO
̣
C KHOA HO
̣
C TƢ
̣
NHIÊN



Nguyễn Thùy Chi




NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ
ĐẤT ĐAI Ở QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI


LUÂ
̣
N VĂN THẠC S KHOA HỌC







H Ni - 2012


2

ĐA
̣
I HO
̣
C QUÔ
́
C GIA HA
̀


̣
I
TRƢƠ
̀
NG ĐA
̣
I HO
̣
C KHOA HO
̣
C TƢ
̣
NHIÊN



Nguyễn Thùy Chi



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ
ĐẤT ĐAI Ở QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên nga
̀
nh: Địa chính
Mã số: 604480

LUÂ

̣
N VĂN THA
̣
C SI
̃
KHOA HO
̣
C



NGƢƠ
̀
I HƢƠ
́
NG DÂ
̃
N KHOA HO
̣
C
PGS. TS Phạm Trọng Mạnh

H Ni - 2012


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VI

PHẠM HÀNH CHÍNH, XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LNH
VỰC ĐẤT ĐAI 9
1.1. Khái niệm và đặc điểm vi phạm hành chính 9
1.1.1. Khái niệm, phân loại vi phạm pháp luật 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính 15
1.2. Khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành, các loại hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai . 20
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai 20
1.2.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai 21
1.2.3. Các loại hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai 24
1.3. Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai 25
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai. 25
1.3.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai 27
1.3.3. Hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. . 30
1.4. Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở một số quận, huyện
khác: 46
1.4.1. Quận Cầu Giấy: 46
1.4.2. Quận Ba Đình: 46
1.4.3. Huyện Đông Anh 47
1.4.4. Huyện Từ Liêm 48
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LNH VỰC ĐẤT ĐAI Ở QUẬN TÂY HỒ 50
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và đất đai quận Tây Hồ 50
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 50

4
2.1.2. Các nguồn tài nguyên 53
2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội 55
2.1.4. Hiện trạng sử dụng đất: 56

2.2. Thực trạng vi phạm hành chính về đất đai ở quận Tây Hồ. 60
2.2.1 Tình hình vi phạm 60
2.2.2. Đánh giá tình hình vi phạm hành chính về đất đai ở quận Tây Hồ: 64
2.3 Thực trạng xử lý vi phạm hành chính về đất đai ở quận Tây Hồ: 65
2.3.1. Quan điểm, chủ trƣơng và các văn bản của Quận uỷ, UBND quận Tây
Hồ trong xử lý vi phạm pháp luật về đất đai. 65
2.3.2. Kết quả xử lý vi phạm pháp luật đất đai và vi phạm hành chính về đất
đai ở quận Tây Hồ 67
2.3.3. Nhận xét đánh giá về tình hình xử lý vi phạm hành chính về đất đai ở
quận Tây Hồ. 72
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP, PHÒNG CHỐNG VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LNH VỰC ĐẤT ĐAI Ở QUẬN TÂY HỒ HIỆN NAY 73
3.1. Tăng cƣờng phòng, chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở quận
Tây Hồ là yêu cầu khách quan, cấp bách hiện nay. 73
3.2. Các giải pháp phòng, chống vi phạm hành chính về đất đai ở quận Tây Hồ
hiện nay. 75
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quản lý, sử dụng đất đai và xử lý vi phạm
hành chính về đất đai 75
3.2.2. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý đất đai và xử
lý vi phạm hành chính về đất đai. 80
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai với mọi
tầng lớp nhân dân 81
3.2.4. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai và xử lý
vi phạm hành chính về đất đai. 85
3.2.5. Tăng cƣờng kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động quản lý, sử dụng đất
đai; xử lý nghiêm minh, kịp thời các vi phạm hành chính về đất đai 88

5
KẾT LUẬN 92






























6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề ti
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tƣ liệu sản xuất chính
không thể thay thế đƣợc của một số ngành sản xuất nhƣ nông nghiệp, lâm nghiệp, là
một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia, gắn liền với chủ quyền quốc
gia, là nơi trên đó, con ngƣời xây dựng nhà cửa, các công trình kiến trúc; là nơi diễn
ra các hoạt động văn hóa; là nơi phân bổ các vùng kinh tế, các khu dân cƣ; là thành
quả cách mạng của cả dân tộc; là cơ sở để phát triển hệ sinh thái, tạo nên môi
trƣờng, duy trì sự sống của con ngƣời và sinh vật.
Một trong các biện pháp hữu hiệu đƣợc Nhà nƣớc ta chú trọng để nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc về đất đai đó là xử lý các vi phạm hành chính về đất
đai. Các văn bản quan trọng liên quan đến xử lý vi phạm hành chính về đất đai là:
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989 của Hội đồng Nhà nƣớc;
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 06/7/1995 của ủy ban Thƣờng vụ Quốc
hội; Nghị định 04/NĐ-CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002
của ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội; Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Nghị định số
105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai. Các văn bản trên đã góp phần lập lại trật tự trong quản lý, sử
dụng đất đai, hạn chế những tiêu cực nảy sinh.
Tuy nhiên, trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, mặc dù Nhà
nƣớc có nhiều văn bản quản lý và xử lý vi phạm về đất đai, nhƣng do đất đai trở
thành hàng hoá mà giá trị của nó ngày càng tăng vơí tốc độ rất cao, lợi nhuận thu
đƣợc từ việc chuyển nhƣợng đất đai không có mặt hàng và nghề kinh doanh nào
sánh nổi. Vì vậy những hành vi vi phạm pháp luật đất đai, trục lợi từ đất diễn ra
ngày càng phổ biến và nghiêm trọng. Những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai tuy chƣa đến mức nguy hiểm là tội phạm nhƣng diễn ra ở khắp mọi nơi,
hàng ngày, hàng giờ, không những gây khó khăn cho quản lý nhà nƣớc về đất đai,

7

mà còn là nguyên nhân của những tranh chấp, mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ nhân
dân và xã hội; nhiều khi chuyển hoá thành vụ việc hình sự, thành điểm nóng, thậm
chí trở thành vấn đề chính trị. Về mặt thực tiễn, do chủ quan, coi thƣờng những vi
phạm nhỏ nên xử lý không kiên quyết, thiếu nghiêm minh dẫn đến tình trạng coi
thƣờng pháp luật, vi phạm ngày càng tràn lan, khó kiểm soát. Trong bối cảnh đó
nghiên cứu về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai góp phần lập lại trật tự kỷ cƣơng, phòng, chống vi phạm, tăng cƣờng quản lý
nhà nƣớc về đất đai thực sự có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận cũng nhƣ thực tiễn đặt ra.
Tây Hồ là một trong những quận có diện tích đất đai lớn, đƣợc thành lập
trên cơ sở sát nhập 03 phƣờng của quận Ba Đình và 05 xã của huyện Từ Liêm
nên quản lý nhà nƣớc về đất đai vừa có nét của quận nội thành lại có những nét
của huyện ngoại thành trong quá trình phát triển đô thị. Ngoài ra với đặc thù có
5/8 phƣờng có đê sông Hồng, số hộ dân nằm trong vùng thóat lũ và hành lang
bảo vệ đê tƣơng đối nhiều, công tác quản lý nhà nƣớc về đất đai gặp rất nhiều
khó khăn. Sau 15 năm thành lập quận, quận Tây Hồ đã đạt đƣợc những kết quả
đáng kể trong công tác quản lý nhà nƣớc về đất đai. Tuy nhiên tình trạng vi
phạm pháp luật đất đai còn phổ biến, tình trạng lấn chiếm, tự chuyển đổi mục
đích sử dụng đất hiện còn phổ biến, việc sử dụng đất của một số tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân còn lãng phí, chƣa thực sự hiệu quả. Việc xử lý các vi phạm trên
chƣa kịp thời, gây bức xúc trong nhân dân. Chính vì vậy, làm thế nào để hạn chế
các vi phạm hành chính về đất đai, và việc xử lý vi phạm hành chính về đất đai
tuân thủ đúng pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng, chống vi phạm và xử lý các vi
phạm hành chính về đất đai ở quận Tây Hồ hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa và phân tích lý luận chung về vi phạm pháp luật và vi phạm
hành chính.

8

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về vi phạm hành chính
và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
- Phân tích thực trạng vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính về đất
đai ở Tây Hồ.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp phòng, chống vi phạm hành chính về
đất đai ở Tây Hồ trong thời gian tới
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Vấn đề nghiờn cứu đƣợc đặt trong mối quan
hệ tổng quan, đƣợc tiếp cận từ nhiều phớa; cụ thể là tiếp cận từ tổng thể tới chi tiết; từ
lý luận, phƣơng phỏp luận tới thực tiễn; từ chớnh sỏch, phỏp luật tới thực tế triển khai
thực hiện chớnh sỏch và thi hành phỏp luật.
- Phương pháp điều tra khảo sát: đây là phƣơng pháp điều tra nhằm thu thập
số liệu, tài liệu, thông tin cần thiết cho mục đích đánh giá thực trạng vi phạm hành
chính trên địa bàn quận Tây Hồ.
- Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp: sử dụng để phân tích làm rõ
thực trạng tình hình vi phạm hành chính trên địa bàn quận từ đó đƣa ra những nhận
xét, đánh giá.
5. Cơ sở ti liệu để thực hiện luận văn:
- Luật và các văn bản dƣới luật.
- Thu thập các số liệu, tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
- Các báo cáo của UBND quận Tây Hồ có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Các giáo trình quản lý nhà nƣớc về đất đai, cơ sở địa chính,
- Tài liệu chuyên ngành của các chuyên gia;
- Thu thập thông tin từ việc điều tra thực tế tại địa phƣơng.
- Đọc và rút ra những thông tin quan trọng, cần thiết trong các bài báo trên
mạng có đề cập tới vấn đề nghiên cứu.





9
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VI
PHẠM HÀNH CHÍNH, XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm v đặc điểm vi phạm hnh chính
1.1.1. Khái niệm, phân loại vi phạm pháp luật
a. Khái niệm, cấu thành vi phạm pháp luật
+ Khái niệm vi phạm pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, là các quy tắc hành vi, hay còn
gọi là tiêu chuẩn của hành vi con ngƣời. Hành vi là những phản ứng, cách ứng xử
đƣợc biểu hiện ra bên ngoài của con ngƣời trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất
định. Mỗi hành vi đều đƣợc hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của chủ
thể, mà chủ thể ý thức đƣợc và chủ động thực hiện nó. Những hoạt động của con
ngƣời không thể coi là hành vi, nếu con ngƣời hành động trong trạng thái vô thức [4].
Trong hoạt động của mỗi ngƣời thƣờng có rất nhiều hành vi khác nhau đƣợc
thể hiện bằng những phƣơng thức khác nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi, sinh
hoạt hàng ngày trong cuộc sống. Song tuỳ theo tính chất, đặc điểm và những lĩnh
vực thể hiện của hành vi con ngƣời mà xã hội đặt ra những tiêu chuẩn, những công
cụ điều chỉnh chúng khác nhau. Những hành vi nào của con ngƣời đƣợc pháp luật
quy định, điều chỉnh thì đƣợc gọi là hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật gắn liền
với các quy định của pháp luật, những hành vi không đƣợc pháp luật quy định, điều
chỉnh thì không phải là hành vi pháp luật.
Hành vi pháp luật rất đa dạng nên có thể phân chia chúng dựa theo nhiều tiêu
chí khác nhau.
- Căn cứ vào phƣơng thức biểu đạt ra bên ngoài hiện thực khách quan có thể
chia hành vi pháp luật thành hành vi hành động và hành vi không hành động.
Hành vi hành động là hành vi mà chủ thể phải thực hiện bằng những thao tác nhất
định. Chẳng hạn, hành vi ký hợp đồng, hành vi tham gia giao thông trên đƣờng phố
Hành vi không hành động là hành vi mà chủ thể thực hiện nó bằng cách không
tiến hành những thao tác nhất định. Chẳng hạn, hành vi không tố giác ngƣời phạm tội,

hành vi không cứu giúp ngƣời đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

10
- Căn cứ vào chủ thể thực hiện có thể chia hành vi pháp luật thành hành vi
của cá nhân và hành vi (hoạt động) của tổ chức
- Căn cứ vào sự phù hợp của hành vi với quy định của pháp luật có thể chia
hành vi pháp luật thành hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp.
Hành vi hợp pháp là những hành vi đƣợc thực hiện phù hợp với yêu cầu, đòi
hỏi của pháp luật.
Hành vi không hợp pháp là hành vi đƣợc thực hiện trái với những quy định
của pháp luật nhƣ không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà
pháp luật cấm, hành động vƣợt quá phạm vi cho phép của pháp luật
Hành vi không hợp pháp đƣợc phân chia thành hành vi vi phạm pháp luật và
những hành vi trái pháp luật nhƣng không bị coi là vi phạm pháp luật.
Hành vi vi phạm pháp luật là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp
luật, có lỗi và do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. Vậy muốn xác
định hành vi vi phạm pháp luật thì phải dựa vào các dấu hiệu cơ bản sau :
- Thứ nhất, là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nhƣ ta đã biết các quy định của
pháp luật đƣợc đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con ngƣời. C.Mác đã nhấn mạnh
"Ngoài hành vi của mình ra tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn
không phải là đối tƣợng của nó. Những hành vi của tôi - đó là lĩnh vực duy nhất
trong đó tôi đụng chạm với pháp luật, bởi vì hành vi là cái duy nhất vì nó mà tôi đòi
quyền tồn tại, quyền hiện thực, và nhƣ vậy là do nó mà tôi rơi vào quyền lực của
pháp luật hiện hành”. Cho nên vi phạm pháp luật trƣớc hết là hành vi của con ngƣời
hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức xã hội nguy hiểm hoặc
có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội. Khi xác định vi phạm pháp luật thì dấu hiệu
hành vi là không thể thiếu đƣợc, nói cách khác, không có hành vi nguy hiểm của
con ngƣời thì không có vi phạm pháp luật. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành
động hoặc không hành động của các chủ thể pháp luật. Pháp luật không điều chỉnh
những suy nghĩ hoặc những đặc tính cá nhân khác của con ngƣời nếu nhƣ những

đặc tính đó không biểu hiện thành các hành vi cụ thể của họ. Vì thế, suy nghĩ, tình
cảm, những đặc tính cá nhân khác của con ngƣời và cả sự biến cho dù có nguy hiểm
cho xã hội cũng không bị coi là vi phạm pháp luật.

11
- Thứ hai, trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác
lập và bảo vệ. Vi phạm pháp luật không những phải là hành vi nguy hiểm của các
chủ thể pháp luật, mà hành vi đó còn phải trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã
hội đƣợc pháp luật xác lập và bảo vệ. Vì vậy, những hành vi trái với quy định của
các tổ chức xã hội, trái với quy tắc tập quán hoặc đạo đức mà không trái pháp luật
thì không bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Nói một cách khái quát, những gì mà
pháp luật không cấm, không xác lập và bảo vệ thì dù có làm trái, có xâm hại cũng
không bị coi là vi phạm pháp luật. Nhƣ vậy, tính trái pháp luật là dấu hiệu không
thể thiếu của hành vi bị coi là vi phạm pháp luật.
- Thứ ba, có lỗi của chủ thể. Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên
ngoài của hành vi, để xác định vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của
hành vi, nghĩa là, xác định lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
đó. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật
của mình. Nếu một hành vi trái pháp luật đƣợc thực hiện do những điều kiện và
hoàn cảnh khách quan, chủ thể thực hiện hành vi đó không cố ý và cũng không vô ý
thực hiện hoặc không thể nhận thức đƣợc, từ đó không lựa chọn đƣợc cách xử sự
theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể thực hiện hành vi đó không bị coi là có lỗi và
hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà
chủ thể buộc phải thực hiện khi không có sự lựa chọn khác cũng có thể không bị coi
là vi phạm pháp luật. Nhƣ vậy, những hành vi trái pháp luật mang tính khách quan,
không có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Vì vậy có thể khẳng định là tất cả mọi vi phạm pháp luật trƣớc hết phải là hành vi
trái pháp luật, nhƣng ngƣợc lại, không phải tất cả mọi hành vi trái pháp luật đều bị
coi là vi phạm pháp luật. Chỉ những hành vi trái pháp luật nào có lỗi mới có thể bị
coi là vi phạm pháp luật.

- Thứ tư, chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực trách nhiệm
pháp lý là khả năng tự mình chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật trƣớc cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền của chủ thể. Vì vậy chủ thể của vi phạm pháp luật
phải là những ngƣời đã đạt tới một độ tuổi nhất định, không mắc bệnh tâm thần và

12
các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của
mình, có điều kiện lựa chọn và quyết định cách xử sự. Vì vậy, pháp luật chỉ quy
định năng lực trách nhiệm pháp lý cho những ngƣời đã đạt đƣợc một độ tuổi nhất
định, có khả năng lý trí và có tự do ý chí. Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau thì pháp
luật quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý khác nhau. Đối với những
ngƣời, do mất khả năng nhận thức hoặc khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi của
mình tại thời điểm thực hiện hành vi thì cũng không phải chịu trách nhiệm pháp lý
trong trƣờng hợp đó. Nhƣ vậy, những hành vi trái pháp luật nhƣng khi thực hiện
chúng các chủ thể không có hoặc chƣa có năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy
định của pháp luật thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Tóm lại, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
+ Cấu thành vi phạm pháp luật
Là một sự kiện pháp lý, vi phạm pháp luật đƣợc cấu thành bởi: Mặt khách
quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
- Mặt khách quan của vi phạm pháp luật. Là những biểu hiện ra bên ngoài
của vi phạm pháp luật, gồm những yếu tố sau:
Hành vi trái pháp luật. Bất kỳ một vi phạm pháp luật nào cũng đƣợc cấu
thành bởi hành vi trái pháp luật, nghĩa là, nếu trong thực tế không tồn tại hành vi
trái pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức thì không có vi
phạm pháp luật.
Hậu quả (sự thiệt hại của xã hội) do hành vi trái pháp luật gây ra. Hành vi
trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã hội.

Tính nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã gây ra hoặc có nguy
cơ gây ra những thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác cho xã
hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật đƣợc xác định thông qua mức độ
thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội mà hành vi đó gây ra.

13
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả mà nó gây ra
cho xã hội. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả mà nó gây
ra cho xã hội thể hiện ở chỗ sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật
đó trực tiếp gây ra, nói cách khác, sự thiệt hại của xã hội xảy ra là hậu quả tất yếu
của hành vi trái pháp luật. Nếu giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội
không có mối quan hệ nhân quả thì sự thiệt hại của xã hội không phải do hành vi
trái pháp luật đó trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác.
Ngoài ra trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật còn có các yếu tố khác
nhƣ thời gian, địa điểm, phƣơng tiện và công cụ vi phạm
- Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
là những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó gồm những
yếu tố sau:
Một là: Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật. Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ
thể đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện
thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội. Lỗi phụ thuộc vào mức độ tiêu cực trong
thái độ của chủ thể. Khoa học pháp lý chia lỗi ra thành hai loại lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự
tin hoặc vô ý vì cẩu thả.
Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trƣớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây
ra và mong muốn điều đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trƣớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây
ra, nhƣng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhận thấy trƣớc đƣợc hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhƣng hy vọng, tin tƣởng hậu quả đó sẽ
không xảy ra hoặc nếu sảy ra thì có thể ngăn chặn đƣợc.
Lỗi vô ý vì cẩu thả: Chủ thể vi phạm đã không nhận thấy trƣớc đƣợc hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể thấy trƣớc hoặc
cần phải nhận thấy trƣớc hậu quả đó.

14
Hai là: Động cơ vi phạm. Động cơ đƣợc hiểu là cái (động lực) thúc đẩy chủ
thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thƣờng khi thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật chủ thể thƣờng đƣợc thúc đẩy bởi một động cơ nhất định nào đó.
Động cơ đó có thể là vụ lợi, trả thù, hay đê hèn
Ba là: Mục đích vi phạm. Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ
của mình, chủ thể mong muốn đạt đƣợc khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Mục đích vi phạm của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi. Tuy
nhiên, cần chú ý là không phải khi nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt đƣợc trong
thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt đƣợc.
Chẳng hạn, H chỉ muốn làm K đau (mục đích gây thƣơng tích) nhƣng kết quả thực
tế K chết (cái chết của K nằm ngoài mong muốn của H).
- Chủ thể vi phạm pháp luật. Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân
hoặc tổ chức có năng lực chủ thể, nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ phải
chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi trái pháp luật của mình.
- Khách thể vi phạm pháp luật. Khách thể vi phạm pháp luật là những quan
hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ, nhƣng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại.
Những quan hệ xã hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do
vậy, tính chất và tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định
mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
Những vấn đề về mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của vi
phạm pháp luật sẽ đƣợc làm rõ khi xem xét từng loại vi phạm pháp luật cụ thể. Vì
vậy, ở đây chỉ nêu những vấn đề chung nhất của cấu thành vi phạm pháp luật.

b. Phân loại vi phạm pháp luật
Hiện tƣợng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng. Có thể phân chia vi
phạm pháp luật theo nhiều tiêu chí khác nhau :
- Theo loại quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ bị xâm hại, thì vi phạm pháp
luật phân thành vi phạm pháp luật về tài chính, vi phạm pháp luật về lao động, vi
phạm pháp luật về đất đai, vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật dân sự vv
- Theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì vi phạm pháp luật phân
thành vi phạm pháp luật là tội phạm và vi phạm hành chính.

15
- Theo tính chất vi phạm và trách nhiệm pháp lý, thì vi phạm pháp luật phân
thành vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm hành chính, vi
phạm kỷ luật nhà nƣớc.
+ Vi phạm pháp luật hình sự (Tội phạm): Là hành vi nguy hiểm cho xã hội
đƣợc quy định trong Bộ luật Hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa (Khoản 1 điều 8 Bộ luật Hình sự).
+ Vi phạm hành chính: Là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nƣớc mà không phải là tội phạm
hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
+ Vi phạm dân sự: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới những
quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân
+ Vi phạm kỷ luật Nhà nước: là những hành vi có lỗi, trái với những quy
chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trƣờng học , nói
cách khác, là không thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, phục vụ đƣợc đề ra
trong cơ quan, xí nghiệp, trƣờng học đó Cần chú ý là chủ thể vi phạm kỷ luật có

thể là cá nhân, tập thể (cán bộ, công nhân, công chức, học sinh, sinh viên ) có quan
hệ ràng buộc với cơ quan, xí nghiệp, trƣờng học nào đó.
Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với ngƣời thực hiện hành vi vi phạm pháp luật [6].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính
+ Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong
đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội phạm
hình sự nhƣng vi phạm hành chính là những hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây

16
thiệt hại cho lợi ích của Nhà nƣớc, của tập thể, của cá nhân cũng nhƣ lợi ích chung
của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu nhƣ không đƣợc ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Chính vì lẽ đó, công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm hành chính luôn là vấn
đề đƣợc xã hội ta quan tâm. Từ trƣớc đến nay Nhà nƣớc ta đã ban hành khá nhiều
văn bản pháp luật quy định về vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý đối với
loại vi phạm này, trong đó phải kể đến Nghị định 143/CP ngày 27/5/1977 của Chính
phủ ban hành Điều lệ Xử phạt vi cảnh và hàng loạt các nghị định khác quy định cụ
thể về việc xử lý các vi phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản lý
hành chính nhà nƣớc.
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm
này, đặc biệt là việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, tạo cơ
sở pháp lý cần thiết để xử lý cũng nhƣ đấu tranh phòng, chống một cách có hiệu quả
đối với các vi phạm hành chính, cần thiết phải đƣa ra một định nghĩa chính thức.
Về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn, định nghĩa vi phạm hành chính
phải phản ánh đầy đủ những dấu hiệu đặc trƣng của loại vi phạm này, trong đó thể
hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của chúng, đồng thời cũng phải thể hiện
đƣợc sự khác biệt giữa loại vi phạm này với tội phạm về mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi.

Khái niệm vi phạm hành chính lần đầu tiên đƣợc nêu ra trong Pháp lệnh Xử
phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989. Điều 1 của Pháp lệnh này đã ghi rõ: "Vi
phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nƣớc mà không phải là tội phạm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính".
Tại khoản 2, Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, vi phạm
hành chính cũng đƣợc định nghĩa một cách gián tiếp: "Xử phạt vi phạm hành chính
đƣợc áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức)
có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nƣớc mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính".

17
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, song quan niệm về vi phạm hành
chính trong các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất với nhau về những dấu
hiệu bản chất của loại vi phạm pháp luật này. Trên cơ sở những nội dung đã đƣợc
nêu ra trong hai văn bản pháp luật nêu trên, có thể đƣa ra định nghĩa về vi phạm
hành chính nhƣ sau:
Vi phạm hành chính là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức vi phạm
các quy định của pháp luật mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt hành chính.
b. Đặc điểm của vi phạm hành chính
Để xác định một hành vi xảy ra có phải là vi phạm hành chính hay không cần
xác định các dấu hiệu pháp lý của loại vi phạm pháp luật này. Những dấu hiệu này
đƣợc mô tả trong các văn bản pháp luật có quy định về vi phạm hành chính, hình
thức và biện pháp xử lý đối với loại vi phạm này. Cũng tƣơng tự nhƣ bất kỳ loại vi
phạm pháp luật nào, các dấu hiệu pháp lý của vi phạm hành chính thể hiện ở bốn
yếu tố mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
+ Dấu hiệu trong mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành vi
vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành

vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nƣớc và đã bị pháp luật ngăn cấm. Việc bị
ngăn cấm thể hiện rõ trong các văn bản pháp luật quy định về xử phạt hành chính.
Nhƣ vậy, khi xem xét để đi đến kết luận rằng hành vi của cá nhân hay tổ chức có
phải là vi phạm hành chính hay không thì ta phải có những căn cứ pháp lý rõ ràng
xác định hành vi đó phải đƣợc pháp luật quy định là sẽ bị xử phạt bằng các biện
pháp xử phạt hành chính. Cần tránh tình trạng áp dụng "nguyên tắc suy đoán" hoặc
"áp dụng tƣơng tự pháp luật" trong việc xác định vi phạm hành chính đối với các tổ
chức và cá nhân.
Đối với một số loại vi phạm hành chính thì dấu hiệu trong mặt khách quan
của nó không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu trái pháp luật trong hành vi mà còn có
thể có sự kết hợp với những yếu tố khác. Những yếu tố khác, thông thƣờng có thể là:

18
- Thời gian thực hiện hành vi vi phạm
- Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm
- Công cụ, phƣơng tiện vi phạm
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Trong nhiều trƣờng hợp, hành vi của tổ
chức, cá nhân bị coi là vi phạm hành chính chỉ khi hành vi đó đã gây ra những thiệt
hại cụ thể trên thực tế.
+ Dấu hiệu trong mặt chủ quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu lỗi
của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi, thể hiện dƣới dạng
lỗi cố ý hoặc vô ý. Nói cách khác, ngƣời thực hiện hành vi này phải trong trạng thái
có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhƣng đã vô tình,
thiếu thận trọng mà không nhận thức đƣợc điều đó hoặc nhận thức đƣợc nhƣng vẫn
cố tình thực hiện vi phạm. Nếu xác định rằng, chủ thể thực hiện hành vi khi không
có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì chúng ta kết luận rằng
không có vi phạm hành chính xảy ra.
Ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành
chính, ở một số trƣờng hợp cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu

hiệu bắt buộc của một số loại vi phạm hành chính. Vì thế, khi xử phạt cá nhân, tổ
chức về vi phạm hành chính này cần phải xác định rõ ràng hành vi của họ có thoả
mãn đầy đủ dấu hiệu mục đích hay không, ngoài việc xem xét các dấu hiệu khác.
Khi xác định dấu hiệu lỗi trong mặt khách quan của vi phạm hành chính, thì
dấu hiệu lỗi trong vi phạm hành chính của tổ chức là vấn đề còn có nhiều ý kiến
khác nhau. Có ý kiến cho rằng, lỗi là trạng thái tâm lý cá nhân trong khi thực hiện
hành vi vi phạm hành chính nên không đặt ra vấn đề lỗi đối với tổ chức vi phạm
hành chính. Khi xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, chỉ cần xác định tổ
chức đó có hành vi trái pháp luật và hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử
phạt bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính là đủ điều kiện để xử phạt
hành chính. Cũng có quan điểm cho rằng, cần phải xác định lỗi của tổ chức khi vi
phạm hành chính thì mới có đầy đủ cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm

19
hành chính đối với tổ chức vi phạm. Theo quan điểm này, lỗi của tổ chức đƣợc xác
định bằng lỗi của các thành viên trong tổ chức đó khi thực hiện nhiệm vụ, công cụ
đƣợc tổ chức đó giao cho. Tuy nhiên, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính hiện
hành chỉ quy định chung rằng: “Tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm
hành chính do mình gây ra” (Điểm b, khoản 1, Điều 6 Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính) và có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Đồng thời, tổ chức phải có trách nhiệm xác định lỗi của ngƣời thuộc tổ chức mình
trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong khi thi hành công vụ đƣợc giao để truy
cứu trách nhiệm kỷ luật và bồi thƣờng thiệt hại theo quy định của pháp luật.
+ Dấu hiệu về chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có
năng lực chủ thể.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm hành
chính là ngƣời không mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình và đủ độ tuổi do pháp luật
quy định, cụ thể là:

- Ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi có thể là chủ thể của vi phạm hành
chính với lỗi cố ý. Nhƣ vậy, khi xác định ngƣời ở độ tuổi này có vi phạm hành
chính hay không, cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ.
- Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính trong
mọi trƣờng hợp .
- Tổ chức có thể là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm các cơ quan nhà
nƣớc, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lƣợng vũ trang
nhân dân.
- Cá nhân, tổ chức nƣớc ngoài cũng có thể là chủ thể vi phạm hành chính
theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trƣờng hợp điều ƣớc quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác ( Khoản 1 điều 6 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính.
+ Dấu hiệu về khách thể

20
Vi phạm hành chính cũng nhƣ mọi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại đến
các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi
phạm hành chính là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính
nhà nƣớc. Nói cách khác, vi phạm hành chính là hành vi trái với các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nhƣ
quy tắc về an toàn giao thông, quy tắc về an ninh trật tự, an toàn xã hội Điều đó đã
đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thnh, các loại hnh vi vi phạm hnh
chính trong lĩnh vực đất đai .
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
a. Khái nệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Từ khái niệm vi phạm hành chính, ta có thể đƣa ra khái niệm vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai nhƣ sau:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi trái pháp luật đất đai,

đƣợc thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quyền sở hữu đất đai của
Nhà nƣớc, quyền và lợi ích của ngƣời sử dụng đất cũng nhƣ các quy định về chế độ
sử dụng các loại đất mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử phạt hành chính [2].
b. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Từ khái niệm trên, ta thấy hành vi vi phạm hành chính về đất đai cũng nhƣ
hành vi vi phạm pháp luật về đất đai nói chung, có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, có hành vi trái pháp luật đất đai.
Để xác định có hành vi trái pháp luật đất đai thì ta phải căn cứ vào những quy
định của pháp luật về đất đai, đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc liên quan
đến việc quản lý, sử dụng đất đai, những phong tục, tập quán của từng địa phƣơng
để xem xét về một hành vi cụ thể.
Nếu một chủ thể thực hiện những việc mà pháp luật đất đai nghiêm cấm hoặc
không làm những việc mà pháp luật đất đai yêu cầu thì ngƣời đó là ngƣời có hành vi

21
vi phạm pháp luật đất đai. Vì vậy hành vi trái pháp luật đất đai là hành vi không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng những quy định của pháp luật đất đai. Hành vi
không bị coi là trái pháp luật đất đai khi nó có liên quan đến việc thực hiện một
mệnh lệnh khẩn cấp của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền hoặc những sự kiện xảy
ra ngoài ý chí và khả năng của ngƣời sử dụng đất (tình thế cấp thiết hay sự kiện bất ngờ)
Hai là, có lỗi.
Lỗi là trạng thái tâm lý, là ý chí chủ quan của con ngƣời đối với hành vi và
hậu quả do hành vi của họ gây ra đƣợc thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Vì vậy
phải xét yếu tố lỗi chính xác để xác định đƣợc hình thức xử lý phù hợp với hành vi
vi phạm pháp luật đất đai.
Hành vi vi phạm hành chính về đất đai có thể thực hiện bằng hành động nhƣ
việc lấn, chiếm đất đai, phá vỡ mặt bằng đất canh tác, sử dụng đất không đúng mục
đích hoặc không hành động nhƣ không sử dụng đất, không cải tạo, bồi bổ đất,
không ngăn chặn sự xói mòn đất đai.

Hành vi trái pháp luật là sự thực hiện trên thực tế của ngƣời vi phạm còn lỗi
thể hiện mục đích cần đạt đƣợc của hành vi đó. Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý
đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai khác với việc truy cứu trách nhiệm pháp
lý đối với hành vi vi phạm pháp luật khác là trong đa số các trƣờng hợp chỉ cần hai
dấu hiệu là có hành vi trái pháp luật đất đai và có lỗi là đủ căn cứ để truy cứu trách
nhiệm pháp lý mà không cần phải có đầy đủ cả các yếu tố khác nhƣ có thiệt hại
thực tế sảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả bởi vì Luật Đất đai
điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp từ quá trình sở hữu, quản lý và
sử dụng đất đai. Mà đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc là đại diện
chủ sở hữu, do đó mọi hành vi xâm phạm tới quyền sở hữu đều là hành vi vi phạm
pháp luật.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá
nhân, tổ chức vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính . Vi phạm hành

22
chính về đất đai là một dạng của vi phạm pháp luật vì vậy mà vi phạm hành chính
về đất đai cũng đƣợc cấu thành bởi bốn yếu tố là mặt khách quan, mặt chủ quan,
chủ thể và khách thể.
+ Mặt khách quan của vi phạm hành chính về đất đai là những biểu hiện ra
bên ngoài của vi phạm hành chính về đất đai, nó gồm những yếu tố sau :
- Hành vi trái pháp luật đất đai. Khi nói đến vi phạm pháp luật đất đai thì
buộc phải có hành vi trái pháp luật đất đai của tổ chức hay của cá nhân. Nếu không
có hành vi trái pháp luật đất đai thì không có vi phạm pháp luật đất đai sảy ra. Vì
vậy hành vi trái pháp luật đất đai là một yếu tố bắt buộc phải có trong cấu thành của
vi phạm pháp luật đất đai, mà vi phạm hành chính về đất đai là một dạng của vi
phạm pháp luật về đất đai.
- Hậu quả (sự thiệt hại của xã hội) do hành vi trái pháp luật đất đai gây ra.
Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi trái pháp luật đất đai thể hiện ở chỗ nó xâm

hại quyền sở hữu của Nhà nƣớc đối với đất đai hoặc xâm hại đến quyền lợi của
ngƣời sử dụng đất. Cụ thể :
Sự xâm phạm quyền sở hữu của Nhà nƣớc đối với đất đai thƣờng thể hiện
trong việc định đoạt một cách bất hợp pháp số phận pháp lý của đất đai nhƣ không
tuân theo những thủ tục cấp đất do pháp luật quy định, giao đất không đúng thẩm
quyền, không đúng đối tƣợng, mua, bán, chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất trái
phép dƣới nhiều hình thức nhƣ núp dƣới danh nghĩa thanh lý tài sản, thanh lý nhà
cửa hoặc thu tiền bán đất trên danh nghĩa đền bù nhƣng sử dụng số tiền đó không
đúng với mục đích, hoặc tự tiện chuyển giao đất cho ngƣời thừa kế, hoặc sử dụng
đất không đúng mục đích đƣợc giao, tự ý thay đổi mục đích sử dụng đất khi chƣa có
sự đồng ý của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Xâm phạm đến quyền lợi của ngƣời sử dụng đất nhƣ mƣợn tạm đất sử dụng
trong một thời gian nhất định khi hết thời hạn không trả lại chủ cũ mà chiếm luôn
để sử dụng, hoặc tự tiện chuyển dịch ranh giới ra ngoài phần đất đƣợc giao, hoặc
lấy quá mức đất mà Nhà nƣớc giao cho mình.

23
Mức độ hậu quả của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đƣợc
xác định theo nguyên tắc quy đổi giá trị quyền sử dụng đối với diện tích đất bị vi
phạm thành tiền theo giá đất do UBND quận, thành phố trực thuộc trung ƣơng nơi
có đất đó quy định.
- Mối quan hệ giữa hành vi vi phạm hành chính về đất đai với hậu quả mà nó
gây ra cho xã hội phải có quan hệ hữu cơ với nhau, sự thiệt hại cho xã hội là do
chính hành vi vi phạm hành chính về đất đai gây ra. Song không phải mọi vi phạm
hành chính về đất đai trong cấu thành của nó đều bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả
và quan hệ nhân quả mà nhiều vi phạm hành chính về đất đai chỉ cần dấu hiệu “cấu
thành hình thức” là đủ căn cứ để xử phạt hành chính.
Ngoài ra khi nghiên cứu mặt khách quan của vi phạm hành chính về đất đai
trong một số trƣờng hợp cần xem xét thêm một số dấu hiệu khác nhƣ thời gian, địa
điểm, công cụ, phƣơng tiện thực hiện hành vi.

+ Mặt chủ quan của vi phạm hành chính về đất đai là những biểu hiện tâm lý
bên trong của chủ thể vi phạm, gồm lỗi, động cơ và mục đích.
- Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi vi phạm của mình và
hậu quả do hành vi đó gây ra, lỗi là dấu hiệu cơ bản trong cấu thành của mọi vi
phạm hành chính cũng nhƣ mọi vi phạm hành chính về đất đai. Lỗi đƣợc thể hiện
dƣới hai dạng lỗi cố ý và lỗi vô ý( các loại lỗi đã trình bày ở phần 1.1.1).
- Mục đích, động cơ trong vi phạm hành chính về đất đai cũng nhƣ trong vi
phạm hành chính nói chung không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan.
Mục đích của vi phạm hành chính là cái “đích” trong ý thức của ngƣời vi
phạm đƣợc đặt ra cho hành vi vi phạm đạt tới. Mục đích của vi phạm hành chính về
đất đai chỉ có ở trong một số hành vi vi phạm hành chính về đất đai nhất định và
đƣợc thực hiện với lỗi cố ý ví dụ “ hành vi tẩy xoá, sửa chữa giấy tờ, chứng từ trong
việc sử dụng đất”.
Động cơ vi phạm hành chính đƣợc hiểu là động lực bên trong thúc đẩy ngƣời
thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Trừ những hành vi vi phạm hành chính về
đất đai với lỗi cố ý thì động cơ, mục đích rõ rệt còn các vi phạm hành chính về đất

24
đai khác thì động cơ, mục đích không rõ nét. Trong các trƣờng hợp này vi phạm
hành chính về đất đai chủ yếu do thiếu thận trọng, vô tình hay coi nhẹ các nghĩa vụ
pháp lý mà vi phạm ở mức độ nhỏ và trên thực tế thiệt hại ở những trƣờng hợp này
là không đáng kể. Do đó động cơ, mục đích trong vi phạm hành chính về đất đai
cũng nhƣ vi phạm hành chính nói chung không coi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành của mọi vi phạm hành chính về đất đai cũng nhƣ trong cấu thành của mọi vi
phạm hành chính.
+ Khách thể của vi phạm hành chính về đất đai.
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội đƣợc pháp luật
bảo vệ nhƣng bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại. Vậy khách thể của vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai là những quan hệ trong sử dụng và hoạt động dịch
vụ về đất đai bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại.

+ Chủ thể của vi phạm hành chính về đất đai.
Vi phạm hành chính về đất đai là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện cố ý
hoặc vô ý xâm hại đến các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật đất đai bảo vệ. Do vậy
chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là những cá nhân, tổ chức có
năng lực chủ thể . Những hành vi này đều xâm hại đến các quan hệ pháp luật đất đai
đang đƣợc duy trì, làm ảnh hƣởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc. Song do
tính chất và mức độ xâm hại của hành vi chƣa đến mức nguy hiểm cho xã hội để trở
thành tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính [2].
1.2.3. Các loại hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
a. Các hành vi vi phạm trong sử dụng đất đai là :
- Sử dụng đất không đúng mục đích
- Lấn, chiếm đất
- Huỷ hoại đất
- Gây cản trở cho việc sử dụng đất của ngƣời khác
- Chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền
sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không
thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai.

25
- Tự chuyển đổi, chuyển nhƣợng, tặng cho đối với đất không đủ điều kiện
chuyển quyền sử dụng đất .
- Cố ý đăng ký không đúng loại đất, không đăng ký khi chuyển mục đích sử
dụng đất.
- Chậm thực hiện bồi thƣờng.
- Chậm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà không đƣợc cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho phép.
- Cố ý gây cản trở cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
- Không thực hiện đúng thời hạn trả lại đất theo quyết định thu hồi đất của cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
- Tự tiện di chuyển, làm sai lệch mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất, mốc

chỉ giới hành lang an toàn của công trình.
- Làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất [2].
b. Các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ về đất đai :
- Hành vi vi phạm trong hành nghề tƣ vấn về giá đất mà không đƣợc cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền cho phép.
- Hành vi vi phạm trong hành nghề tƣ vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất mà không đủ điều kiện đăng ký hoạt động hành nghề.
- Hành vi vi phạm trong hành nghề dịch vụ về thông tin đất đai, dịch vụ đo
đạc và bản đồ địa chính .
1.3. Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hnh chính trong lĩnh vực
đất đai .
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính khác.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hoạt động của các chủ
thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi

×