Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

ĐÔI NÉT VỀ HƯỚNG TIẾP CẬN CÁC VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DỰA TRÊN NỀN TẢNG QUYỀN CON NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.54 KB, 9 trang )

ĐÔI NÉT VỀ HƯỚNG TIẾP CẬN CÁC VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
DỰA TRÊN NỀN TẢNG QUYỀN CON NGƯỜI
(Luận đề liên ngành từ các tổ chức phi chính phủ - Tổng quan điểm luận)
Nguyễn Anh Tuấn
*
Nguyễn Thị Hà
**
1. Giới thiệu
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, mối quan hệ quốc tế đã thúc đẩy quá trình
hội nhập của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Nằm trong nhóm những nước
nghèo, nhiều thập kỷ qua, Việt Nam là điểm nhận được sự hỗ trợ của nhiều dự án
chương trình phát triển từ cộng đồng quốc tế. Khái niệm ‘phát triển’ và các hướng
tiếp cận nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam thời gian qua đã và đang được cập nhật
không ngừng. Thực tế, quyền con người và phát triển là hai ngành có nhiều sự khác
biệt và không có cùng những mục tiêu chung nếu không muốn nói giữa chúng vốn
thường thấy là những xung đột. Nhân quyền và phát triển đi theo những định hướng
khác nhau, sử dụng ngôn từ khác nhau và bản thân hai ngành này có một truyền
thống phát triển hoàn toàn khác biệt. Tuy nhiên, từ cuối những năm 1980, lịch sử đã
ghi nhận sự xuất hiện ‘hướng tiếp cận các vấn đề phát triển dựa trên nền tảng quyền
con người (hay nhân quyền)’ (human rights-based approach to development, viết tắt
là RBA) - Đây được xem là cầu nối gắn kết hai lĩnh vực có nhiều điểm khác biệt là
nhân quyền và phát triển nói trên. Bài viết này xin điểm lược lại một số điểm chính
về một trong những hướng tiếp cận liên quan đến phát triển dựa trên nền tảng quyền
con người nhìn từ góc độ liên ngành quan hệ và viện trợ quốc tế, quyền con người
và phát triển thông qua việc xem xét luận đề từ các tổ chức phi chính phủ. Bài viết
hy vọng thông qua phân tích mối liên hệ giữa hai lĩnh vực quyền con người và phát
triển góp thêm một góc nhìn về phương pháp tiếp cận liên ngành từ góc độ lý
thuyết, tổng quan điểm luận vấn đề nghiên cứu.
2. Bối cảnh
Bối cảnh nào đã là tiền đề hình thành nên cầu nối RBA cho hai ngành vốn có
vô số khác biệt là quyền con người và phát triển. Lịch sử nghiên cứu vấn đề cho biết


*
Thạc sỹ, Viện Dân tộc học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
**
K46E Kinh tế đối ngoại - Đại học Ngoại Thương, Hà Nội
vào cuối thập kỷ 1980 khi cả hai ngành nói trên đã và có những bước phát triển
nhanh chóng, cũng là hoàn cảnh để hình thành nên hướng tiếp cận các vấn đề phát
triển trên nền tảng quyền con người. Bối cảnh này được phác họa tập trung vào năm
yếu tố trình bày dưới đây:
Một là, bối cảnh chiến tranh lạnh đã dẫn đến việc hình thành nên hai khối đối
lập quan điểm về quyền con người: một bên là khối các nước tư bản chủ nghĩa ủng
hộ quyền công dân và các quyền chính trị và bên kia là khối các nước xã hội chủ
nghĩa xem trọng các quyền về kinh tế, chính trị văn hóa . Việc chấm dứt chiến
tranh lạnh mở ra một bối cảnh mà ở đó quyền con người được độc lập dần khỏi
những luận điểm chính trị khác biệt giữa các bên.
Hai là, từ sau thập kỷ 1980, với quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trên
thế giới diễn ra sôi nổi với sự tham gia của nhiều nước phát triển. Theo dòng tài trợ
hỗ trợ phát triển với quan điểm và mô hình của phương Tây đã không những không
xóa đói giảm nghèo mà còn làm vấn đề nghiêm trọng hơn. Điều đó vừa đặt ra vấn
đề chối bỏ sự phát triển, những yêu cầu về quyền và sự bình đẳng giữa các quốc gia
được đặt ra trước hiện thực đói nghèo gia tăng và chất lượng cuộc sống ngày càng
suy giảm .
Ba là, việc hình thành nên những chuẩn quốc tế sâu sát về sự phát triển và
chất lượng cuộc sống toàn cầu thông qua việc xem xét các tiêu chí cụ thể như y tế,
giáo dục thay cho các chỉ báo kinh tế truyền thống như GDP, thu nhập bình quân
đầu người đã cho thấy sự bất bình đẳng nghiêm trọng đang diễn ra giữa các quốc
gia, sự thất bại của các chính sách viện trợ xóa đói nghèo trong hỗ trợ phát triển.
Thực tế đòi hỏi phát triển gắn ngay với sự đáp ứng những nhu cầu cơ bản cấp thiết
của người dân các nước nghèo, một yêu cầu về hướng tiếp cận mới, dựa trên nền
tảng quyền con người được đặt ra .
Bốn là, trong bối cảnh các tập đoàn đa quốc gia ngày càng có tầm ảnh hưởng

mạnh hơn trên toàn cầu, cùng với yêu cầu về giải quyết các vấn đề toàn cầu mà
không một quốc gia đơn lẻ nào có thể độc lập xử lý đã tạo nên một môi trường
thuận lợi hình thành nên mạng lưới các tổ chức phi chính phủ mà hoạt động có liên
quan các vấn đề phát triển và quyền con người từ thập kỷ 1990. Chính họ đã đảm
nhận các công việc liên quan đến quyền con người từ các cấp cơ sở và kêu gọi sự
quan tâm chú ý tìm cách giải quyết các vấn đề phát triển có tính toàn cầu .
Cuối cùng đó là sự hiện diện của Liên hợp quốc và mạng lưới quan sát viên
của tổ chức này đã kêu gọi và hình thành nên phong trào thiết lập một mối quan hệ
cơ hữu hơn, mật thiết hơn nữa giữa các phạm trù: quyền con người, phát triển xã
hội và dân chủ. Có thể thấy, sự lớn mạnh của lời kêu gọi này qua các hội nghĩ sau:
Hội nghị quốc tế về nhân quyền tại Viene (1993); Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu
về các vấn đề xã hội của thế giới tại Copenhagen (1995) và Hội nghị Phụ nữ toàn
thế giới tại Bắc Kinh.
3. Không gian cho sự kết nối giữa quyền con người và phát triển
Mặc dù, có năm điều kiện nói trên mở ra bối cảnh thuận lợi để thiết lập cầu
nối giữa hai lĩnh vực quyền con người và phát triển nhưng việc hình thành nó cần
có những không gian phù hợp. Theo những nhà nghiên cứu đi theo khuynh hướng
tiếp cận các vấn đề phát triển trên nền tảng quyền con người, thì có sáu mô hình
không gian khuyến khích và thúc đẩy hình thành nên cầu nối RBA.
3.1. Không gian trong phạm vi Liên hợp quốc
Ngay trong ý niệm sơ khai, Liên hợp quốc đã là tổ chức làm việc dựa trên
các tiêu chí vị nhân quyền và phát triển. Từ thập kỷ 1980, Liên hợp quốc đóng vai
trò thúc đẩy kiến tạo mối quan hệ cầu nối giữa hai linh vực này bằng việc tổ chức
một loạt các hội thảo quốc tế toàn cầu về các chủ đề có liên quan. Bằng cách nhấn
mạnh RBA vào chương trình hành động mục tiêu của các tổ chức thành viên, Liên
hợp quốc đã tăng cường sự tương tác có tính liên ngành. Hơn thế nữa, từ năm 1992,
Liên hợp quốc công bố báo cáo thường niên ‘Phát triển con người’. Hệ thống báo
cáo thường niên này đã cung cấp một khung lý thuyết nhấn mạnh đến mối tác động
qua lại giữa quyền con người và phát triển con người (UNDP 2000). Bên cạnh đó là
việc thành lập một loạt các dự án, chương trình mang tính liên ngành như “The

Human Rights Strengthening Program” (HURIST); the United Nations
Development Assistance Framework (UNDAF); Country Cooperation Framework
(CCF) .
3.2. Khoảng giao thoa của hai lĩnh vực: Nhân quyền và phát triển
Bản thân sự phát triển và mở rộng của hai ngành vốn dĩ có nhiều điểm khác
biệt là nhân quyền và phát triển cũng đưa đến những vùng giao thoa đòi hỏi phải có
sự tham gia của hai bên trong việc nghiên cứu giải quyết vấn đề.
Nghiên cứu phát triển là ngành học thuật được hình thành sau chiến tranh thế
giới thứ hai. Ban đầu, nó là ngành chịu ảnh hưởng chủ yếu từ quan điểm học thuật
thuần phương Tây nói đến phát triển là phát triển kinh tế. Thập kỷ 1950 chứng kiến
phong trào giải phóng dân tộc của hàng loạt các quốc gia châu Phi và châu Á đưa
đến việc hình thành những mô hình phát triển mới khác Phương Tây. Những quan
điểm phổ biến theo học thuyết tự do tân cổ điển mà đại diện là World Bank và IMF
đã thúc đẩy nhiều tranh luận đến từ UNICEF và UNDP, những người đòi hỏi đặt
phát triển và viện trợ phát triển trong mối liện hệt mật thiết với xây dựng năng lực,
khả năng tự lựa chọn mô hình phát triển và tăng cường sự tham gia của bản chủ thể
trong quá trình phát triển . Phát triển, giờ đây không đơn thuần là bài toán kinh tế
mà gắn bó mật thiết đến phương thức quản trị, sự phát triển xã hội, sự lựa chọn,
chất lượng cuộc sống…và nhiều khía cạnh khác có liên quan đến quyền con người.
Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (Millennium Development Goals - MDG) giờ đây
không đơn thuận chỉ là vấn đề kinh tế mà có sự tham gia của nhiều thành tố có liên
quan đến quyền con người. Rõ ràng, phát triển và quyền con người tự nó đặt ra yêu
cầu về tính liên ngành trong việc xem xem giải quyết các vấn đề có liên quan.
3.3. Sự góp mặt của các NGO về các vấn đề nhân sinh cơ bản
Sự ra đời và tham gia mạnh mẽ trên các vấn đề nhân sinh cơ bản của các
NGOs vừa và nhỏ trên toàn cầu được xem là một nhân tố tạo ra cầu nối RBA. Một
nhóm các NGOs đã dành sự quan tâm đến việc xem xét hỗ trợ các vấn đề nhân sinh
cơ bản ở các nước nghèo, như nơi ăn, chốn ở, y tế sức khỏe hoặc giáo dục (thức ăn:
Foodfirst Information Action Network –FIAN; nhà ở: Centre on Housing Rights
and Evictions – COHRE và Center for Economic and Social Rights –CESR; sức

khỏe, y tế : Francois-Xavier Bagnoud Center for Health and Human Rights (FXB)
và The American Association for the Advancement of Science - AAAS). Sự thành
công của họ được đánh giá như là những ví dụ minh họa tiêu biểu cho một hướng đi
mới, một tư duy hành động mới về phát triển dựa trên quan điểm tiếp cận về quyền
con người .
3.4. Yêu cầu mở rộng phạm vi về quyền con người của các NGOs
Thực tế đặt ra những yêu cầu trùng lắp về quyền con người và phát triển khó
có thể tách bạch riêng rẽ đòi hỏi các NGOs thực thi về quyền con người phải có
những tích hợp mới về các vấn đề có liên quan có tính đến phát triển thay vì những
cách làm truyền thống chỉ chú ý đến quyền con người ở các khía cạnh như quyền
công dân, quyền chính trị bao hàm cả quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Theo dẫn
chứng của Nelson & Dorsey tổ chức nhân quyền lớn nhất toàn cầu, Amnesty
International cũng đã chấp nhận hướng thay đổi nói trên từ năm 2001.
3.5. Phối kết hợp hành động vì quyền con người và phát triển của các NGOs
Đây có thể thấy là một trong những điểm hội tụ rõ ràng nhất cho việc liên kết
hành động vì quyền con người và phát triển của các NGOs trên phạm vi toàn cầu.
Có thể đưa ra đây hai cuộc vận động như là hai ví dụ tiêu biểu cho sự phối kết hợp
tạo không gian RBA, như là cuộc vận động của tổ chức Bác sỹ không biên giới
(Doctors without Borders) về tiếp cận và hưởng dụng thuốc tân dược thiết yếu tại
Nam Phi và quyền về nước sạch tại các quốc gia Ghana, Zimbawe, và Bolivia.
Nelson and Dorsey lập luận rằng không gian được tạo ra từ hai quá trình: sự lớn
mạnh của các tổ chức và mạng lưới mới mà ở đó có liên kết rõ ràng về các vấn đề
phát triển, quyền kinh tế, xã hội và thêm vào đó là sự mở rộng và tăng cường hoạt
động của các NGOs trên các lĩnh vực này.
3.6. Tôn chỉ hành động chính thức dựa trên RBA của một số NGOs
Phát hiện và thấy lợi thế của RBA, một số NGOs không chần chừ đưa RBA
thành tôn chỉ hành động của mình. Người ta thấy rõ hướng đi này ở các NGOs các
nước Bắc Âu, có thể kể tên ra như Save the Children, Plan International, and World
Vision . Những tổ chức chuyên sâu về phát triển cũng đã lựa chọn RBA cho nhiều
chương trình hành động của mình như Oxfam GB, CARE, và ActionAid. Nhiều dự

án của họ tại Việt Nam đã phản ánh tôn chỉ nói trên. Các INGOs này không chỉ tăng
cường nhận thức RBA cho các thành viên trong hệ thống của họ trên toàn cầu mà
còn triển khai giúp các đối tác của họ về vấn đề này .
4. Tại sao NGOs lại lựa chọn tiếp cận vấn đề phát triển trên cơ sở
quyền con người ?
Việc hình thành và xác lập cầu nối RBA hay một hướng tiếp cận mang tính
liên ngành giữa quyền con người và phát triển phản ánh sự tham gia tích cực và vai
trò không nhỏ của các NGOs. Vậy, nguyên nhân nào thúc đẩy các NGOs lựa chọn
RBA như là một hướng tiếp cận nghiên cứu về phát triển. Có nhiều luồng ý kiến
tranh biện về vấn đề này, tổng hợp lại các ý kiến cho rằng sở dĩ có một số nguyên
nhân tiêu biểu sau:
4.1 Thêm giá trị
Theo hướng giải thích này thì RBA đã tạo dựng và tăng cường cho các NGOs một
giá trị mới trong việc thực thi các công việc liên quan đến phát triển. Thực tế cho
thấy là RBA là phương cách nhấn mạnh đến vùng trách nhiệm được đảm nhận
không chỉ riêng bởi các chính phủ. Ở đây, RBA cung cấp một mối liên hệ có tính
song phương hoặc đa phương giữa chính phủ và các nhà tài trợ, các cơ quan đại
diện, các quỹ hỗ trợ phát triển . Thứ hai RBA được chấp nhận rộng rãi với các
chuẩn mực về quyền con người cơ bản như là một khung lý thuyết phù hợp với việc
thúc đẩy sự phát triển có tính bền vững . Và thứ ba là, với việc áp dụng RBA, các
nhà tài trợ, các NGOs có thêm khung pháp lý lớn hơn cho việc tăng cường và thúc
đẩy quyền con người. Thứ tư là RBA nhấn mạnh đến sự tham gia như là một yếu tố

×