Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tây sơn-Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.72 KB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA: NGÂN HÀNG- TÀI CHÍNH
========

========
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TÂY SƠN-HÀ TĨNH
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THỊ THU HIỀN
Lớp : NGÂN HÀNG K11
Mã sinh viên : LT110537
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
HÀ NỘI, NĂM 2012
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
3
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
NHNo&PTNT: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
UBND: Uỷ ban nhân dân
HĐND: Hội đồng nhân dân
TLSX: Tư liệu sản xuất
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


LỜI MỞ ĐẦU
Sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn
nhau tới hệ thống tài chính. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức tài chính quan
trọng trong nền kinh tế, hoạt động dựa trên mục tiêu an toàn và sinh lời. Ngân hàng
bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ
thống tài chính nói riêng, trong đó, ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng
lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ở Việt Nam, thời kỳ bao cấp được đánh dấu bằng các ngân hàng chuyên
doanh. Thời kỳ đổi mới cơ chế, dưới ảnh hưởng của công nghệ và toàn cầu hoá,
ngân hàng cần phải đa dạng các loại dịch vụ và mở rộng hoạt động bằng cách vươn
tới các thị trường mới trong và ngoài nước. Với hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng
lớn trong ngân hàng và tiềm ẩn những rủi ro cho nên vấn đề đặt ra làm thế nào để
hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các nhà quản lý ngân hàng quan tâm. Mỗi ngân
hàng tìm ra những giải pháp khác nhau để hoàn thiện tốt hoạt động tín dụng. Trong
quá trình thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Tây Sơn-Hà Tĩnh nhận thấy đây
cũng là vấn đề vướng mắc cần được chú trọng. Vì vậy, đề tài “Giải pháp hạn chế
rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Tây sơn-Hà Tĩnh ” được chọn làm chuyên đề thực tập.
Chuyên đề thực tập trình bày trên cơ sở đưa ra những lý luận cơ bản về tín dụng, rủi
ro tín dụng cùng với phân tích thực trạng tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Tây
Sơn-Hà Tĩnh, từ đó đánh giá những vấn đề vướng mắc còn tồn tại.
Trên cơ sở kiến thức và sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo hướng dẫn, và sự
nhiệt tình giúp đỡ của các anh chị, cán bộ công tác tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn chi nhánh Tây Sơn đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề một cách tốt
nhất.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sau đây em xin giới thiệu sơ qua về kết cấu nội dung của chuyên đề về “ Hạn
chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
6

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tây Sơn-Hà Tĩnh”.
Chương 1: Lý luận chung về tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn chi nhánh Tây Sơn-Hà Tĩnh.
Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Tây Sơn-Hà Tĩnh
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
NGÂN HÀNG
1.1 Tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là quan hệ vay mượn sử dụng vốn của lẫn nhau dựa trên nguyên tắc
hoàn trả và sự tin tưởng lẫn nhau. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa
ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về TLSX là
cơ sở ra đời tín dụng. Xét về mặt xã hội, sự xuất hiện của chế độ tư hữu về TLSX là
cơ sở hình thành sư phân hoá xã hội: của cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một
nhóm người, trong lúc đó một nhóm người khác có thu nhập thấp hoặc thu nhập
không đáp ứng đủ nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt là khi xảy ra những biến
cố rủi ro bất thường xảy ra. Trong điều kiện đó đòi hỏi sự ra đời của tín dụng để giải
quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện điều hoà nhu cầu vốn tạm thời của cuộc
sống. Sản xuất hàng hoá là nguyên nhân ra đời của tín dụng. Vì vậy bất cứ xã hội nào
có sản xuất hàng hoá là có sự hoạt động của tín dụng. Trong nền kinh tế sản xuất
hàng hoá, các doanh nghiệp có vốn kinh doanh phải có một số vốn nhất định. Do đặc

điểm của vốn tuần hoàn theo công thức T-H-T và do tính chất thời vụ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, mà mỗi doanh nghiệp có lúc thừa vốn có lúc thì thiếu vốn.
Nhu cầu về tín dụng là một nhu cầu không thể thiếu được.
Tín dụng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau, nhưng ở bất cứ
phương thức nào tín dụng cũng biểu hiện ra bên ngoài như là vay mượn tạm thời một
vật hoặc một số tiền tệ, nhờ vậy mà người ta có thể sử dụng được giá trị của hàng hoá
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao đổi.
Tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, giữa họ có
mối quan hệ với nhau thông qua vận động giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàng đóng vai
trò là một tổ chức trung gian, trong quan hệ tín dụng nó vừa là người cho vay đồng
thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các
doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ, trái phiếu để huy động vốn trong
xã hội. Với tư cách là người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và
cá nhân.
Khác với tín dụng thương mại, được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, tín
dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ - bao gồm tiền mặt và bút tệ.
Trong nền kinh tế thị trường đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân
hàng, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang
trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn xây
dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân.
1.1.2 Phân loại
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Loại tài sản này được
phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.

1.1.2.1_ Theo thời gian sử dụng vốn
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian
liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng
hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được phân thành:
 Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động;
 Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản
cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị
chống hao mòn;
 Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng như
nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời
gian sử dụng lâu dài.
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản
cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo thời
gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến
tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tín
dụng trung và dài hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách
hàng. Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn,
nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như kì
hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lí thanh khoản của ngân hàng,
khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn…
1.1.2.2_ Theo hình thức tài trợ
Theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, chiết khấu
thương phiếu, cho thuê, bảo lãnh.Cụ thể:
 Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là tài sản
lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ

tiêu: Doanh số cho vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số cho vay trong kì là tổng
số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kì. Dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng
hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính( thời
điểm), cho vay dưới hình thức dư nợ. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ
phần trích lập dự phòng tổn thất hoặc lãi được nhận trước.
 Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để
sở hữu một số thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ)
 Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả
gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn( Leasing) được ghi vào
khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng đã
thu được (dư nợ cho thuê)
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
 Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
1.1.2.3_ Theo tính chất bảo đảm của khoản vay
Không có đảm bảo, có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Về nguyên
tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ
ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu
khách hàng không trả nợ. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về
việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khả năng trả nợ của
người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
 Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng
có uy tín thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững
mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc các món vay tương đối nhỏ so với
vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ

yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài
chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân
hàng có khả năng giám sát việc bán hàng…, cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
 Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng
phải kí hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi
nhánh Tây Sơn-Hà Tĩnh phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo
như: quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của
người thứ ba…, có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài
sản đảm bảo.
1.1.2.4_ Theo mức độ rủi ro
Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để
phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia
loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro tín dụng, tức là xếp loại
tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao. Cách phân loại này giúp ngân hàng
thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trữ quỹ cho các khoản tín dụng rủi
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng.
 Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi
 Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp
nhiều thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
 Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
1.1.2.5_ Phân loại khác
 Theo ngành kinh tế: công, nông nghiệp…
 Theo đối tượng tín dụng: Tài sản lưu động, tài sản cố định

 Theo mục đích: Trong sản xuất,trong tiêu dùng…
Các cách cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của
ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song
vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Ví dụ ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, bên cạnh việc đa dạng hoá các ngành tài
trợ, vẫn tập trụng tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Cách phân loại
trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài
trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.1.3 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
- Các chủ thể tham gia gồm một bên ngân hàng và các chủ thể khác trong
nền kinh tế như: các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân…
- Vốn tín dụng chủ yếu là tiền tệ, cũng có thể là tài sản.
- Thời hạn tín dụng của ngân hàng cũng rất linh hoạt có thể là ngắn hạn,
trung hạn hoặc dài hạn.
- Công cụ của tín dụng ngân hàng cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ phiếu, trái
phiếu ngân hàng, các hợp đồng tín dụng v v
- Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng mang tính chất gián tiếp, trong
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đó ngân hàng là người trung gian tín dụng giữa người gửi tiền và người vay tiền.
- Mục đích của ngân hàng là nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
dùng qua đó thu được lợi nhuận.
1.1.4 Chức năng của tín dụng ngân hàng
1.1.4.1 Chức năng phân phối lại tài nguyên:
Tín dụng là sự vận động của vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác. Chính
nhờ sự vận động của tín dụng mà các chủ thể vay vốn nhận được một phần tài
nguyên của xã hội phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu dùng.
Phân phối tín dụng được thực hiện bằng hai cách:
 Phân phối trực tiếp: là việc phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời

chưa sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó là kinh doanh và tiêu dùng.
Phương pháp phân phối này được thực hiện trong quan hệ tín dụng thương mại và
việc phát hành trái phiếu của Nhà nước và các công ty.
 Phân phối gián tiếp: Là việc phân phối được thực hiện thông qua các tổ
chức trung gian, như ngân hàng, HTX tín dụng, công ty tài chính…
Trong nền kinh tế hiện đại, phân phối vốn tín dụng qua các tổ chức trung
gian chiếm vị trí quan trọng nhất. Một mặt các tổ chức trung gian tập trung vốn tiền
tệ của các doanh nghiệp và cá nhân để làm nguồn vốn cho vay, mặt khác chúng
phân phối nguồn vốn đó dưới hình thức cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, cá nhân
và một phần cho kho bạc Nhà nước.
Giữa phân phối qua tín dụng và phân phối qua Ngân sách có những điểm
khác nhau: Đối với tín dụng phân phối trên cơ sở hoàn trả, phân phối vốn liên quan
đến thu nhập quốc dân, và tổng sản phẩm xã hội, phân phối vốn mang tính chất cấp
phát, phân phối chủ yếu liên quan đến thu nhập quốc dân và phân phối chủ yếu cho
lĩnh vực phi sản xuất.
1.1.4.2 Tạo cơ sở để lưu thông dấu hiệu tiền không đủ giá
Trong thời kỳ đầu lưu thông là hoá tệ, nhưng khi các quan hệ tín dụng phát
triển, các giấy nợ đã thay thế cho một bộ phận tiền trong lưu thông. Lợi dụng đặc điểm
này, các ngân hàng đã bắt đầu phát hành tiền giấy vào lưu thông. Lúc đầu tiên giấy
phát hành trên cơ sở có dự trữ quí kim( vàng), nhưng dần dần tiền giấy phát hành vào
lưu thông tách rời với dự trữ vàng của ngân hàng.
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ngày nay ngân hàng cung cấp cho lưu thông chủ yếu được thực hiện thông
qua con đường tín dụng. Đây là cơ sở đảm bảo cho lưu thông tiền tệ ổn định, đồng
thời đảm bảo đủ phương tiện phục vụ cho lưu thông.
Như vậy, nhờ hoạt động của tín dụng mà ngân hàng thực hiện chức năng tạo
tiền phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tiền tệ do ngân hàng tạo ra gồm:
 Tiền mặt: Tiền giấy và tiền kim loại không đủ giá trị.

 Bút tệ.
Nhờ vào công cụ nói trên mà tốc độ lưu thông hàng hoá nhanh hơn và do
vậy, hàng hoá đi từ hình thái tiền tệ vào sản xuất và ngược lại được thúc đẩy mạnh
mẽ hơn. Nói cách khác, tín dụng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế.
1.1.5 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, tín dụng có các vai trò sau:
• Thứ nhất: Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên
tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền
kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Tín dụng còn là cầu nối
giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương
tiện đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn vốn
hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp, vì vậy tín dụng đã góp
phần động viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật
đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
 Thứ hai: Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiều tệ tạm thời chưa sử dụng, trên
cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế. Mặt khác quá trình đầu tư tín dụng được thực
hiện một cách tập trung, chủ yếu là cho các xí nghiệp kinh doanh hiệu quả.
 Thứ ba: Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển
và ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong thời gian tập trung phát triển nông nghiệp và ưu tiên cho xuất khẩu…
Nhà Nước đã tập trung tín dụng để tài trợ phát triển các ngành đó, từ đó tạo điều
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
kiện phát triển các ngành khác.
 Thứ tư: Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế
của các doanh nghiệp.

Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có
lợi tức, nhờ vậy mà hoạt động của tín dụng đã kích thích sử dụng vốn có hiệu quả.
Bằng cách tác động như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn tín dụng
phải quan tâm đên việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng
vòng quay của vốn, tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
 Thứ năm: Tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong điều kiện kinh tế “ mở”, tín dụng đã trở thành một trong những
phương tiện nối liền các nền kinh tế các nước với nhau.
1.2 Rủi ro tín dụng và các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
1.2.1.1 Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Có nhiều quan điểm khác nhau về rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng, và các lĩnh vực khác. Nhưng rủi ro là thường có hai đặc tính sau:
Thứ nhất là biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức độ nào.
Thứ hai là tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít.
Như mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, những
kinh doanh tiền tệ và ngân hàng thương mại cũng gánh chịu các rủi ro do tác động
của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên như các doanh nghiệp khác. Rủi ro trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng về cơ bản có thể chia thành hai loại là rủi ro đặc
thù và rủi ro môi trường.
• Rủi ro môi trường:
Rủi ro môi trường luôn tồn tại trong tổ chức và ngoài tổ chức, hay nói cách
khác rủi ro môi trường gồm hai loại: rủi ro môi trường vĩ mô và rủi ro môi trường
cạnh tranh.
o Rủi ro môi trường vĩ mô: Môi trường ngân hàng hoạt động chứa muôn
vàn rủi ro, chúng tác động đến ngân hàng bằng nhiều cách như: làm suy yếu khả
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng, hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài

chính. Những rủi ro này rất khó kiểm soát nên chúng ở mức độ hạn chế trên sổ dự
báo. Các loại rủi ro môi trường vĩ mô mà ngân hàng thường gặp là: rủi ro tự nhiên
và rủi ro bất khả kháng ( như: lũ lụt, hoả hoạn, động đất…); rủi ro về luật pháp liên
quan đến sự vận động của nền kinh tế và chu kỳ kinh doanh ( như: lạm phát, suy
thoái kinh tế…) ảnh hưởng của các yếu tố này đến ngân hàng rất lớn; rủi ro về điều
chỉnh: là nhằm thực hiện các chính sách vĩ mô, thì các nhà lãnh đạo đưa ra các
chính sách tiền tệ, lãi suất… Đôi khi gây thiệt hại cho ngân hàng.
o Rủi ro môi trường cạnh tranh: các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh
thường chịu tác động của khách hàng hoặc các đối thủ từ nhiều phía từ đó luôn rất
nhiều các tác động đầy rủi ro. Trong rủi ro môi trường cạnh tranh thì có các loại rủi
ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản.
• Rủi ro đặc thù: luôn tồn tại trong lĩnh vực hoặc ngành nghề kinh doanh.
Rủi ro đặc thù là rủi ro do bản thân của ngành hay lĩnh vực kinh doanh tạo
ra. Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro đặc thù thường bao gồm các yếu tố:
o Rủi ro về quản lý: rủi ro này có thể bắt nguồn từ ban quản lý ngân hàng
do thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu khả năng điều hành. Nó cũng có
thể xảy ra do sự yếu kém về năng lực hay đạo đức của nhân viên ngân hàng.
o Rủi ro cung cấp các dịch vụ tài chính hay rủi ro kinh doanh bao gồm: rủi
ro về hoạt động, rủi ro về sản phẩm, rủi ro về văn hoá, rủi ro về công nghệ, rủi ro
đòn cân nợ và rủi ro do thiếu nỗ lực nghiên cứu và phát triển.
o Rủi ro thích ứng vốn: nó thể hiện ngân hàng có qui mô vốn nhỏ thường ít
an toàn hơn ngân hàng có qui mô vốn lớn.
o Rủi ro tài sản thế chấp: tài sản thế chấp không đủ giá trị để bù đắp thiệt
hại cho ngân hàng…
1.2.1.2 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng
phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả , hoặc không trả đầy đủ
vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là
khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11

16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn
được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới
mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
Rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng bao gồm rủi
ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn
bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như: các hoạt
động bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên
ngân hàng, những chứng khoán có giá ( trái phiếu, cố phiếu… ), trái quyền, Swap,
tín dụng thuê mua, đồng tài trợ v v… Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh
doanh mới trong hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Hiện nay ở trên tất cả các nước,
rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm không chỉ ở phạm vi các ngân
hàng, mà cả trong toàn nền kinh tế. Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận
qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món vay và chứng khoán,
đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến các hoạt động cho vay, như: sàng
lọc và giám sát khách hàng vay, thiêt lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, qui định
các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dẫu sao, không một
ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi viết nó ra những qui định hạn chế
vào một hợp đồng cho vay, sẽ luôn luôn có những hoạt động rủi ro của người vay
tiền, chưa có một qui định hạn chế nào loại bỏ được chúng cả. Và đó được gọi đó là
rủi ro tín dụng
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Rủi ro tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá
trình kinh doanh của các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế. Tuy nhiên tín dụng ngắn
hạn chỉ cung cấp một phần chứ không phải toàn bộ số vốn lưu động trong một thời
gian ngắn.
Đối với loại tín dụng ngắn hạn, rủi ro thường xảy ra khi cán bộ tín dụng mắc
phải sai lầm trong quá trình tính toán hiệu quả đầu tư và bất cẩn trong công tác thẩm

định. Để khắc phục được loại rủi ro này, chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng để đưa ra
các kết luận đúng đắn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, nâng cao chất lượng
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của công tác thẩm định.
1.2.2.2 Rủi ro tín dụng trung, dài hạn
Tín dụng trung dài hạn là khoản cho vay với mục đích đầu tư xây dựng cơ
bản, mua sắm tài sản cố định. Tín dụng trung và dài hạn là khoản đầu tư có thời hạn
thu hồi vốn dài, đối với tín dụng trung hạn là từ 1 đến 3 năm, đối với tín dụng dài
hạn là trên 5 năm. Ngoài các đặc điểm trên, tín dụng trung và dài hạn còn có một
đặc điểm quan trọng là có số lượng lớn.
Rủi ro tín dụng trung và dài hạn thường xảy ra khi có những diễn biến bất lợi
trong quá trình xây dựng và tiến hành sản xuất kinh doanh do thời gian thu hồi vốn
quá dài. Ngoài các thông số kinh tế, kỹ thuật các nhà đầu tư cần phải tính đến các
biến động về chính trị, chính sách của nhà nước (các yếu tố phi kinh tế) nếu không
rất dễ dẫn tới rủi ro gây thiệt hại lớn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Để tránh được loại rủi ro này, các nhà quản lý cần phải tính, cân nhắc một
cách chính xác và tỉ mỉ hiệu quả của dự án đầu tư trong quá trình thực hiện dự án.
Trong đó có một số yếu tố cực kỳ quan trọng về kinh tế kỹ thuật như: nguyên nhiên
vật liệu đầu vào, khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra, các sản phẩm cùng loại và sản
phẩm thay thế hiện đang có bán trên thị trường, xu hướng và thái độ của thị trường
đối với loại sản phẩm này, lựa chọn công nghệ phù hợp, khả năng làm chủ công
nghệ của chủ đầu tư, v.v và các yếu tố phi kinh tế khác như: Chính sách của Nhà
nước đối với ngành nghề, sản phẩm sau đầu tư, năng lực và uy tín của bên cung cấp
thiết bị công nghệ…
1.2.2.3 Rủi ro tín dụng chiết khấu
Tín dụng chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, qua dó khách hàng
chuyển quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận
về một khoản tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và phí hoa

hồng. Hình thức chiết khấu các thương phiếu được lập trên cơ sở hợp đồng kinh tế
được pháp luật thừa nhận.
Thương phiếu giả là loại hình gây nhiều rủi ro nhất trong nghiệp vụ chiết khấu.
Thương phiếu này được thành lập khi không có một quan hệ thương mại tương ứng
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhằm mục đích đánh lừa ngân hàng. Thương phiếu giả tạo có các loại sau:
- Thương phiếu trống: người bị ký phát không có hoặc không biết.
- Thương phiếu được lập có sự đồng lõa giữa người ký phát và người bị ký phát.
- Thương phiếu trống hỗ tương: là thương phiếu được lập trên cơ sở thoả thuận
giữa hai bên mà thực chất là sự giúp đỡ ngân quỹ cho người phát lệnh.
Để hạn chế rủi ro trong hoạt động chiết khấu cần:
- Xem xét kỹ tính chất pháp lý của thương phiếu
- Xem xét tính thương mại của thương phiếu
- Đánh giá khả năng trả nợ của người bị ký phát
1.2.2.4 Rủi ro tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê tài sản chuyên dùng kèm theo lời
hứa sẽ bán lại về sau, chậm nhất là sau khi kết thúc hợp đồng cho người thuê với giá
thoả thuận. Các thành viên tham gia tín dụng thuê mua gồm:
- Người đi thuê - tức là các doanh nghiệp
- Người cho thuê - ở đây là các ngân hàng
Người đi thuê sẽ tìm và lựa chọn tài sản cần thuê ở người cho thuê, người
cho thuê sẽ gửi đơn đặt hàng tới nhà cung cấp thiết bị và chịu trách nhiệm thanh
toán sau đó giao tài sản cho người đi thuê. Thuê mua bất động sản và thuê mua
động sản. Khả năng rủi ro đối với hình thức tín dụng này là tương đối thấp.
Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì trong
suốt quá trình thực hiện hợp đồng thuê mua, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của
ngân hàng. Tài sản cho thuê tồn tại dưới hình thái vật chất tương đối ổn định về dễ
quản lý. Tuy nhiên, rủi ro vẫn có thể xảy ra khi người đi thuê bị thiên tai, hỏa hoạn

gây ra thiệt hại cho tài sản thuê mua hay sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật khiến nó
trở nên lỗi thời không phù hợp với thời đại dẫn tới khả năng sử dụng thiết bị giảm
đi và làm ảnh hưởng tới việc thu nợ.
Trên đây là các loại rủi ro tín dụng cơ bản nhất trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng, mức độ xảy ra rủi ro ở mỗi loại là khác nhau.
Tuỳ vào mức độ hoạt động của mỗi ngân hàng mà chúng ta phải đưa ra những biện
pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro hợp lý nhất.
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2.2.5 Rủi ro đạo đức
Là rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ
của mình gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác.Đạo đức hay còn gọi là uy tín
trong kinh doanh,là vấn đề quan trọng trong thanh toán và thương mại quốc tế.
Rủi ro đạo đức được phân thành bốn loại:
-Rủi ro đạo đức của nhà nhập khẩu
-Rủi ro đạo đức nhà xuất khẩu
-Rủi ro đạo đức của nhà chuyên chở
-Rủi ro đạo đức của Ngân hàng
Nguyên nhân gây ra rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đầy đủ,không
cân xứng.Thiếu những thông tin chính xác về khả năng tài chính,tình hình hoạt
động kinh doanh cũng như uy tín,tính trung thực của đối tác.Vì vậy đã đưa ra những
quyết định sai lầm gây nên rủi ro trong thanh toán.Đặc biệt phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ theo UCP 600 qui định việc thanh toán dựa hoan toàn vào chứng
từ hồ sơ thanh toán,mà không căn cứ vào thực trạng của hàng hóa.
Sự tách biệt giữa thanh toán theo hồ sơ và hàng hóa đã tạo ra khe hở cho một
số tổ chức,cá nhân,tiến hành lừa đảo,vì thế rủi ro đạo đức vẫn còn cơ sở tồn tại.
1.2.2.6 Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm khi lãi
suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến gắn với thay đổi nhiều nhân tố khác như cấu

trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn,quy mô và kỳ hạn của các hợp đồng kỳ hạn…
a) Ngân hàng ở vị thế tái tài trợ
Tình trạng tái tài trợ là tình trạng trong đó kỳ hạn của tài sản dài hơn kỳ hạn
của nguồn tài trợ hay thời hạn cho vay > thời hạn nguồn vốn tài trợ nó.
b) Ngân hàng ở vị thế tái đầu tư
Tình trạng tài đầu tư là tình trạng trong đó kỳ hạn của tài sản nhỏ hơn kỳ hạn
của nguồn tài trợ hay thời hạn cho vay < thời hạn nguồn vốn tài trợ nó.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất :
-Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
-Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngược chiều với dự kiến của ngân hàng:lãi
suất thị trường thường xuyên thay đổi.Ngân hàng luôn nghiên cứu và dự báo lãi
suất.tuy nhiên,trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính xác mức
độ thay đổi của lãi suất.Việc dự báo sự biến động của lãi suất có ảnh hưởng đến
chiến lược của ngân hàng.
-Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định
1.2.2.6 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là tình trạng ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu sử dụng
vốn khả dụng (nhu cầu thanh khoản). Tình trạng này nhẹ thì gây thua lỗ, hoạt động kinh
doanh bị đình trệ, nặng thì làm mất khả năng thanh toán dẫn đến ngân hàng phá sản.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro thanh khoản là do dòng vốn tiền gửi
của các thành phần kinh tế trong xã hội vào các NHTM bị hạn chế do tác động của lạm
phát và lòng tin. Về phía các NHTM, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong những năm gần
đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông
lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu tài
sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Trong bối cảnh đó, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt
một cách quyết liệt nhằm thu về một khối lượng tiền mặt đồng Việt Nam khá lớn từ lưu

thông thì một số NHTM không thể xoay chuyển kịp thời, bị mất thanh khoản do cơ cấu
đầu tư.
Các NHTM đã không thực hiện chính sách quản lý rủi ro thanh khoản một cách
khoa học và bài bản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn
giữa các ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng
dây chuyền, nhanh chóng lan toả trong toàn hệ thống ngân hàng.
Sự sụt giảm mạnh giá cổ phiếu của ngân hàng trong thời gian qua, có nguyên nhân
từ việc nhà đầu tư nhận thấy rằng khủng hoảng thanh khoản đang hoặc sắp xảy ra với ngân
hàng. Nguyên nhân gây nên sự sụt giảm mạnh cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ
phần, đặc biệt là hàng loạt ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ cũng xuất phát từ vấn đề
thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản cũng là rủi ro tài chính do tính lỏng của tài sản không ổn định.
Một tổ chức tài chính (ngân hàng) có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ chức này đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt
không dự kiến được trước hay một sự kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao
dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó. Tổ chức này cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu
thị trường hoạt động của tổ chức này có nguy cơ mất khả năng thanh khoản. Rủi ro thanh
khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có
nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những nguồn khác để thanh toán
khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng
huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân hàng này cũng
phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng.
Quản lý rủi ro thanh khoản không đơn thuần chỉ là vấn đề của các dòng tiền, vấn đề
cơ cấu của tài sản Nợ - Có trên bảng cân đối tài sản mà nó chính là hoạt động quản trị của
một ngân hàng thương mại. Vì thế, các NHTM cần hiểu rõ tầm quan trọng của quản lý rủi
ro thanh khoản, chủ động xây dựng chính sách khung về quản lý rủi ro thanh khoản, thiết
lập các quy trình cụ thể nhằm xác định, đo lường, kiểm soát các rủi ro về thanh khoản có

thể xảy ra. Các ngân hàng cần có được khả năng dự báo với độ chính xác cao các luồng
tiền vào, luồng tiền ra, đặc biệt là các luồng tiền liên quan tới các cam kết ngoại bảng và
các nghĩa vụ tài sản nợ để chủ động đưa ra kế hoạch hoạt động trong các tình huống bất
ngờ.
1.2.2.7 Rủi ro chính sách
Là rủi ro mà các nhà đầu tư phải đối diện do những biến động trong thành phần
chính phủ,những thay đổi trong luật lệ,chính sách của chính phủ,khả năng chuyển đổi của
các đồng nội tệ.
Trong một đất nước,chính sách của một tổng thống mới có thể có ảnh hưởng
nghiêm trọng lên các tổ chức,không phải tất cả các quốc gia đều dân chủ trong cách điều
hành,nhiều nơi có thái độ và chính sách rất khác nhau về kinh doanh.Tài sản nước ngoài có
thể bị nước chủ nhà tịch thu hoặc chính sách thuế thay đổi liên tục.Các chính sách của nhà
nước có thể tạo ra lợi nhuận hoặc thách thức với doanh nghiệp.
Nhà nước áp dụng một số quy định yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài dần từng bước
chuyển giao tài sản và quyền quản lý cho người trong nước.Đôi khi chính sách nội địa hóa
cũng gây một số rủi ro.
Khi thay đổi chính sách thuế làm thay đổi khoản thu nhập cũng như khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp dẫn đến rũi ro.
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Rủi ro do nhà nước can thiệp sâu vào quá trình hoạt động của tổ chức:để quản lý
một nhà nước ,mỗi quốc gia đều có những chính sách luật pháp cho riêng mình sao cho
phù hợp,đó là những điều cần thiết nhưng bởi lẽ nếu nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt
động của tổ chức thì sẽ dẫn tới những rủi ro…
Khi chính phủ đưa ra các chính sách lãi suất để kiểm soát lạm phát có thể làm cho
hoạt động đầu tư tăng lên hoặc giảm đi…
1.2.3 Các tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng ngân hàng
1.2.3.1 Phân loại nợ:
Quyết định 493 phân loại nợ thành năm nhóm,bao gồm:

 Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn.
Đây là các khoản nợ mà ngân hàng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy
đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
 Nhóm 2: Nợ cần chú ý.
Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã
được cơ cấu lại.
 Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn.
Các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn cơ cấu lại.
 Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
Các khoản nợ quá hạn từ 180 – 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày theo
thời hạn cơ cấu lại
 Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
Các khoản nợ khoanh chờ xử lý
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời
hạn đã được cơ cấu lại
1.2.3.2 Các chỉ tiêu đo lường mức độ rủi ro tín dụng
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chất lượng của hoạt động tín dụng trong kinh doanh ngân hàng là yếu tố
quan trọng hàng đầu và cũng là yếu tố phức tạp nhất khi phân tích hoạt động ngân
hàng. Ngoài ra khi đánh giá chất lượng của hoạt động tín dụng thường chứa đựng
yếu tố chủ quan. Trường hợp ngân hàng sụp đổ do chất lượng hoạt động tín dụng
thấp xảy ra rất nhiều. Nhưng thực tế các ngân hàng thường không thừa nhận, đôi
khi che giấu những vấn đề về hoạt động tín dụng của mình. Nếu chỉ căn cứ vào

bảng cân đối tài sản thì khó mà nhận định được về tình hình yếu kém của hoạt động
tín dụng, cứ thế tích tụ dần và hậu quả cuối cùng là sự sụp đổ của ngân hàng.
Tóm lại muốn đánh giá một các chính xác tình hình hoạt động tín dụng của
ngân hàng thì cẩn phải có sự phối kết hợp đồng bộ nhiều chỉ tiêu trên nhiều góc độ.
Có như vậy mới làm tính chủ quan trong đánh giá chất lượng tín dụng đối với một
ngân hàng.
• Chỉ tiêu xác suất rủi ro.
Dựa vào chỉ tiêu này các nhà quản lý xác định được mức độ rủi ro tổng
hợp trong suốt thời hạn đầu tư.
Cp= 1- [(p1).(p2)]
Với Cp: Xác suất rủi ro
p1: xác suất trả nợ của khoản tín dụng năm thứ nhất
p2: xác suất trả nợ của khoản tín dụng năm thứ hai
Ưu điểm của phương pháp này là cho phép nhà quản lý biết trước được mức
độ rủi ro dự tính một cách rõ ràng dựa trên các yếu tố thị trường. Hơn nữa, nếu thị
trường trái phiếu chiết khấu chính phủ và công ty là thanh khoản, thì có thể dễ dàng
dự tính được rủi ro vỡ nợ trong tương lai. Tuy nhiên, trong thực tế thì chỉ có thị
trường trái phiếu chính phủ là phát triển, còn thị trường trái phiếu chiết khấu công
ty rất nhỏ bé, cho nên phương pháp này tỏ ra chưa thật hiệu quả trong việc đánh giá
rủi ro tín dụng
• Tỷ lệ nợ quá hạn= Dư nợ quá hạn/ Tổng dư nợ.
• Tỷ lệ nợ xấu = Dự nợ xấu/ Tổng dư nợ
• Tỷ lệ mất vốn = Dư nợ mất vốn / Tổng dư nợ
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ba chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro
tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên
quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để
chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân

hàng. Hy vọng thu lại tiền cho vay trở nên mong manh, ngân hàng cần có biện pháp
hữu hiệu để giải quyết.
Các quan điểm khác nhau, các cách tính toán khác nhau về kì hạn nợ và nợ
quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.
Thứ nhất, do định kì hạn nợ không đúng.
Cán bộ ngân hàng khi cho vay nhiều khi không quan tâm thích đáng đến chu
kì kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kì hạn nợ
ngắn hạn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ không phù hợp với chu kì thu nhập của người
vay. Khi đến hạn, người vay sẽ không thể trả nợ được, gây nợ quá hạn. Khoản nợ
này trở thành mối đe dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải trả thêm khoản
“phụ phí” để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất phạt
Thứ hai, do đảo nợ, hoặc giãn nợ:
Những khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được đảo nợ
làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để chi dấu đối với ngân hàng cấp trên, hoặc để
khổng phải chịu lãi phạt, khách hàng và cán bộ ngân hàng thỏa thuận vay khoản
mới để trả nợ cũ. Cán bộ ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với khoản nợ
mà chắc chắn người vay không thể trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá
hạn và nợ khó đòi không phản ánh đúng tình hình rủi ro tín dụng.
Thứ ba, do chính sách cho vay:
Một số khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi bằng cách phát mại tài sản
(doanh nghiệp nhà nước, người nghèo, tài sản không rõ ràng…). Những khoản cho
vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của Chính phủ. Khi Chính phủ chưa có
biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của ngân hàng, trở thành
tài sản “ảo”. Xử lý khoản nợ này rất phức tạp. Các ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ
tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh ( khi được Chính phủ đồng ý).
Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp: Ngân hàng K11
25

×