Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.43 KB, 22 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Mọi sự vật, sự việc luôn luôn có hai mặt của nó: mặt tốt và mặt xấu.
Tài sản cũng vậy, ngoài ý nghĩa đáp ứng nhu cầu, lợi ích về mặt vật chất cho
con người thì tài sản còn tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro nhất định mà chính con
người cũng có thể bị thiệt hại do chính tài sản mang lại, dù có ý thức ngăn
chặn, phòng ngừa đến mấy con người cũng khó có thể kiểm soát được. Xuất
phát từ lý do này, dưới góc độ khoa học pháp lý, nguồn nguy hiểm cao độ đã
được biết đến với nhận định là sự tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hại. Trên cơ sở
đánh giá sự tiềm ẩn nguy cơ này với sự nhận định mối liên quan giữa hành vi
của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, luật dân sự quy định
về vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (một trong
các trường hợp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng)
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG.
I. Khái niệm.
Khi một chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ thì chủ thể gây thiệt hại
có thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi của mình gây ra. Bồi
thường trách nhiệm ngoài hợp đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây
thiệt hại.
Điều 604 BLDS 2005 quy định:
“ 1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi
thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Theo quy định tại Điều 604 BLDS thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt
hại cho các lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, có những


trường hợp đặc biệt người gây thiệt hại có trách nhiệm phải bồi thường thiệt
hại kể cả khi họ không có lỗi.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trách nhiệm
pháp lý đặc biệt, phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định.
Theo quy định tại Điều 604 BLDS năm 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện sau đây:
- Có thiệt hại xảy ra;
- Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật;
- Người gây thiệt hại có lỗi;
- Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này, trách nhiệm được
hiểu là nghĩa vụ của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt
hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự, trong đó
người xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác mà gây ra thiệt hại thì
phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Thiệt hại bao gồm
những thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Việc xác định thiệt hại về
vật chất tương đối cụ thể, rõ ràng nhưng việc xác định thiệt hại về tinh thần là
vấn đề hết sức khó khăn.
II. Đặc điểm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm mang
tính chất tài sản, dựa vào sự cưỡng chế của Nhà nước hoặc thỏa thuận của các
bên chủ thể. Đó là loại trách nhiệm tài sản nhằm khôi phục thiệt hại của người
bị thiệt hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Hậu quả pháp lý của
việc áp dụng này luôn mang đến những bất lợi về tài sản do người gây ra thiệt
hại để bù đắp những tổn thất mà họ gây ra cho chủ thể khác.
Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể là những công dân
hay các pháp nhân. Người bị thiệt hại và người ra gây thiệt hại là các bên
tham gia vào quan hệ bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường có thể là

liên đới, riêng rẽ hoặc theo phần tùy theo điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng bị
thiệt hại.
III. Ý nghĩa.
Việc pháp luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có ý nghĩa rất quan trọng. Khi một người gây thiệt hại thì họ phải có
trách nhiệm khắc phục những hậu quả mà mình đã gây ra cho người bị thiệt
hại. Những quy định của pháp luật sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích hợp
pháp của những chủ thể bị xâm hại.
Khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho chủ thể khác thì đồng
nghĩa các lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị gây thiệt hại sẽ bị xâm hại. Đó
có thể là những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần. Những thiệt hại dù ít hay
nhiều cũng đều ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của các chủ thể bị thiệt hại.
Do đó, pháp luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
nhằm khắc phục những hậu quả về tài sản, phục hồi lại tình trạng tài sản của
người bị thiệt hại trong phạm vi, khả năng nhất định, bảo đảm lợi ích của
người bị thiệt hại. Giải quyết việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là áp
dụng một biện pháp trách nhiệm dân sự, được thể hiện trong một bản án dân
sự hay một quyết định dân sự trong một bản án hình sự. Về nguyên tắc thì
thiệt hại được bồi thường một cách toàn bộ và kịp thời. Như vậy, quyền và
lợi ích của các chủ thể mới được bảo vệ.
Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không chỉ
nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục cho mọi người
về ý thức trách nhiệm tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
B. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO
ĐỘ GÂY RA.
I. Cơ sở lý luận.
1. Nguồn nguy hiểm cao độ.
BLDS 2005 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ tại Điều 623. Trên cơ sở quy định của BLDS 2005, tòa án nhân

dân Tối cao ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP, ngày 8/7/2006
hướng dẫn các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong BLDS 2005, trong đó có hướng dẫn về bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra.
“Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ
giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ,
chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ
khác do pháp luật quy định” (khoản 1 Điều 623 BLDS 2005).
Như vậy, Điều 623, BLDS 2005 cũng như hướng dẫn tại Nghị quyết số
03/2006/NQ – HĐTP không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiêm cao độ mà
chỉ liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Qua quy định
trên, ta có thể hiểu “Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất định do
pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con
người không thể kiểm soát một cách tuyệt đối” (trích Giáo trình luật dân sự
Việt Nam, Tập 2, Lê Đình Nghị (chủ biên), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009).
Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải được hiểu là chính sự hoạt
động tự thân (tự tại) của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, mà không có tác
động bởi hành vi có lỗi của con người. VD: tai nạn ô tô xảy ra do cấu tạo máy
móc của xe; bình hóa chất bị nổ khi đang vận chuyển…
Theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005 thì có các loại nguồn nguy
hiểm cao độ sau đây:
– Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: “Phương tiện giao thông vận
tải cơ giới đường bộ gồm: xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn
máy và các loại xe tương tự kể cả xe cơ giới dành cho người tàn tật…” (khoản
18, Điều 3, Luật Giao thông đường bộ 2008). Tuy nhiên, phương tiện giao
thông vận tải cơ giới không chỉ giới hạn ở đường bộ mà còn có phương tiện
giao thông vận tải cơ giới đường sắt, đường thủy và đường hành không.
Tùy từng trường hợp cụ thể để xác định phương tiện giao thông vận tải
cơ giới nào là nguồn nguy hiểm cao độ. Về vấn đề này pháp luật Việt Nam
chưa có quy định rõ. Trên thực tế, có những loại phương tiện nằm ngoài “sự

kiểm soát” của pháp luật khi quy định về “nguồn nguy hiểm cao độ”, chẳng
hạn như xe đạp điện, xe Babetta, Java hay máy thi công, máy xúc, máy ủi… -
có thể coi đây là những loại xe tương tự theo sự liệt kê tại khoản 18, Điều 3,
Luật Giao thông đường bộ 2008.
Theo Bộ luật Hàng hải: “Tàu biển là tàu hoặc cấu trúc nổi di động khác
chuyên dùng hoạt động trên biển” (Điều 11, Bộ luật Hàng hải Việt Nam
2005), tàu biển cũng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
Đối với phương tiện giao thông vận tải đường thủy nội thì tại khoản 7,
Điều 3, Luật Giao thông đường thủy nội địa 2004 quy định: “phương tiện
thủy nội địa (sau đây gọi là phương tiện) là tàu, thuyền và các cấu trúc nổi
khác, có động cơ hoặc không có động cơ, chuyên hoạt động trên đường thủy
nội địa”.
Đối với tàu bay là phương tiện trong hoạt động vận chuyển hàng không
thì: “Tàu bay là thiết bị được nâng giữ trong khí quyền nhờ tác động tương hỗ
với không khí, bao gồm máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiết bị
bay khác, trừ thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ
với không khí phản lại từ bề mặt trái đất”. (khoản 1, Điều 13, Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam 2006).
Đối với phương tiện giao thông vận tải đường sắt. Khoản 20, Điều 3,
Luật Đường sắt 2005 quy định: “Phương tiện giao thông đường sắt là đầu
máy, toa xe, toa xe động lực. phương tiện chuyên dùng di chuyển trên đường
sắt”. Tuy nhiên, nếu các phương tiện chuyên dùng thô sơ di chuyển trên
đường sắt thì không coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
– Hệ thống tải điện: dây truyền dẫn điện, mô tơ, máy phát điện, cầu
dao…; nhà máy công nghiệp như nhà máy công nghiệp nặng, công nghiệp
nhẹ; phương tiện giao thông vận tải cơ giới chỉ được coi là nguồn nguy hiểm
cao độ khi nó “đang hoạt động”, điều đó có nghĩa là nếu nó đang ở trạng thái
tĩnh thì không tạo nguy hiểm cho những người xung quanh. Hoạt động là
“Vận động vận hành để thực hiện chức năng nào hoặc gây tác động vào đó:
Máy móc hoạt động bình thường theo dõi hoạt động của cơn bão”. Như vậy,

phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp đang “hoạt động” có nghĩa là có sự vận hành của các loại tài sản này.
Đối với phương tiện giao thông vận tải cơ giới: Hoạt động của xe cơ
giới có thể là hoạt động di chuyển (cơ học hoặc điều khiển) hoặc không di
chuyển nhưng thiết bị đang được vận hành, VD: xe nổ máy nhưng chưa di
chuyển.
Đối với hệ thống tải điện: Phải có dòng điện chạy qua.
Đối với nhà máy công nghiệp: Phải đang trong quá trình vận hành, sản
xuất.
– Vũ khí: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, công cụ hỗ trợ…
– Chất cháy, chất nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn… dễ gây ra cháy
nổ. Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với oxi trong không khí,
nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác ở nhiệt độ cao hoặc không cao
(diêm, photpho, lưu huỳnh, xăng dầu…).
Chất nổ với khả năng gây nổ mạnh, nhanh tỏa nhiệt và ánh sáng (thuốc
nổ, thuốc pháo, thuốc súng…).
– Chất độc là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe,
tính mạng của con người, động vật, cũng như đối với môi trường xung quanh;
các chất có thể gây hư hại, bệnh, hoặc tử vong cho các cơ thể, thường bằng
các phản ứng hóa học hoặc các hoạt tính khác trên phạm vi phân tử, khi một
số lượng vừa đủ được cơ thể sinh vật hấp thụ vào (VD: các chất độc bảng A
như Aconitin và các loại muối của nó, kẽm photpho, nicotin…).
– Chất phóng xạ là “chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng
xạ riêng lớn hơn 70KBO/KG. Chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí
hạt nhân gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hóa học (urani,
radi…), có khả năng phát ra những chùm tia phóng xạ không nhìn thấy gây
bệnh hoặc gây nhiễm xạ đối với người, động vật và môi trường sống.
– Thú dữ là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng
sữa, lớn, rất dữ, có thể làm hại người. VD: hổ, báo, sư tử, gấu… Cẩn phân
biệt giữa vật nuôi gây thiệt hại trong trường hợp nó hung dữ (VD: chó, mèo,

vật nuôi khác bị bệnh dại cắn người…) với thiệt hại do thú dữ được coi là
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nếu vật nuôi trong gia đình bị dại gây thiệt
hại thì thuộc trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, còn thiệt hại
do thú dữ gây ra sẽ thuộc trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra.
Thú dữ gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải đang chịu sự quản lý của một chủ thể
nhất định, nếu không có sự quản lý (ở môi trường tự nhiên, thiên nhiên hoang
dã) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng không phát sinh, mặc dù tài sản
này thuộc sở hữu của Nhà nước. VD: đàn voi dữ ở trong rừng bỗng nhiên vào
làng có người dân sinh sống, gây thiệt hại về người và phá hại hoa màu, tài
sản…
Với ý nghĩa luôn tiềm ẩn nguy cơ, khả năng gây thiệt hại cho con người
và thế giới xung quanh của nguồn nguy hiểm cao độ nên BLDS quy định:
“Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản,
trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy
định của pháp luật”. Quy định này đòi hỏi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ, người được giao trông coi, chiếm hữu, sử dụng, vận chuyển nguồn nguy
hiểm cao độ phải tuyệt đối tuần thủ các quy định của pháp luật trong từng
trường hợp, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Việc xác định người xung quanh và người không được coi là người
xung quanh của nguồn nguy hiểm cao độ có ý nghĩa về mặt pháp lý trong việc
xác định người bị nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại do sự hoạt động được
hưởng bồi thường theo trách nhiệm dân sự hay theo chế độ bảo hiểm xã hội
đối với công chức, viên chức bị nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại trong
khi thực hiện nhiệm vụ hoặc điều khiển, vận hành, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ. Nguyên tắc bồi thường khi bị thiệt hại là bị thiệt hại bao nhiêu thì
được hưởng bồi thường bấy nhiêu và được hưởng toàn bộ khoản tiền bồi
thường thiệt hại một lần và kịp thời.
Nếu người bị thiệt hại được xác định không phải người xung quanh

nhưng lại bị chính nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì không được
hưởng bồi thường theo trách nhiệm dân sự, mà được hưởng chế độ đối với
công chức, viên chức bị nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại trong khi đang
thực hiện nhiệm vụ liên quan đến việc sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Nhà
nước có rất nhiều ưu đãi đối với trường hợp này, như xem xét về hưu sớm,
hưởng trợ cấp suốt đời, hưởng chính sách của Nhà nước về thương binh, bệnh
binh và trong trường hợp người này chết thì người thân được hưởng tiền tử
tuất và các chế độ ưu đãi khác của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra.
Điều 623 BLDS năm 2005 quy định:
“2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm
hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.

×