MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải
SeABank Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á
Southeast Asia Commercial Joint Stock Bank
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
NH Ngân hàng
NHTM Ngân hàng Thương mại
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
NHNN Ngân hàng Nhà nước
TD Tín dụng
TCTD Tổ chức tín dụng
KH Khách hàng
VLĐ Vốn lưu động
VKD Vốn kinh doanh
SXKD Sản xuất kinh doanh
CIC Credit Information Center
Trung tâm thông tin tín dụng
RRTD Rủi ro tín dụng
QLRRTD Quản lý rủi ro tín dụng
TSĐB Tài sản đảm bảo
CBTD Cán bộ Tín dụng
NQH Nợ quá hạn
AO Account Officer
Cán bộ Tín dụng
KSNB Kiểm soát nội bộ
BTD Ban tín dụng
HĐTD Hội đồng tín dụng
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
SƠ ĐỒ
BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa 11
Bảng 3.1 Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh chính Error: Reference source
not found
Bảng 3.2 Cơ cấu tổng nguồn vốn huy động của SeABank giai đoạn 2006 - 2010Error:
Reference source not found
Bảng 3.3 Phân chia dư nợ cho vay tại SeABank qua các năm Error: Reference
source not found
Bảng 3.4 Phân chia nhóm nợ tại SeABank qua các nămError: Reference source
not found
Bảng 3.5 Tỷ lệ nợ nhóm 2 đến nhóm 5 tại SeABank qua các năm Error: Reference
source not found
Bảng 3.6 Phân chia nhóm nợ tại SeABank đối với DNNVV qua các năm.Error:
Reference source not found
Bảng 3.7 Tình hình nợ xấu tại SeABank đối với DNNVV qua các năm Error:
Reference source not found
Bảng 3.8 Tình hình nợ có khả năng mất vốn của các DNNVV tại SeABank 61
Bảng 4.1 Một số chỉ tiêu kinh doanh năm 2011 Error: Reference source not
found
Biểu 3.1 Cơ cấu nhân sự của SeABank tại thời điểm 31/12/2010 theo trình độ
Error: Reference source not found
Biểu 3.2 Một số chỉ tiêu hoạt động qua các năm Error: Reference source not
found
Biểu 3.3 Cơ cấu dư nợ cho vay DNNVV tại SeABank giai đoạn 2007 - 2010
Error: Reference source not found
Biểu 3.4 Diễn biến tỷ lệ nợ nhóm 2 đến nhóm 5 tại SeABank qua các năm Error:
Reference source not found
Biểu 3.5 Diễn biến tỷ lệ nợ xấu của tại SeABank đối với DNNVV Error:
Reference source not found
HÌNH VẼ
Hình 3.1 Quy trình cho vay tại SeABank đối với DNNVV Error: Reference
source not found
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hiện đang chiếm phần lớn trong nền kinh tế Việt
Nam, DNNVV đã đóng góp phần lớn vào GDP của nước ta. Đẩy mạnh hoạt động
tín dụng cho các DNNVV đã và đang là hướng phát triển mang tính chiến lược lâu
dài của các NHTM Việt Nam.
Theo thống kê năm 2010 có tới 95% DNNVV trong số các doanh nghiệp tại
Việt Nam. Hiểu được tầm quan trọng của các DNNVV đối với nền kinh tế nên ngay
từ những ngày đầu bước vào thời kỳ đổi mới và đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập
nền kinh tế quốc tế hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương
chính sách khuyến khích và hỗ trợ các DNNVV về mọi mặt như: hỗ trợ về vốn
trong sản xuất kinh doanh, công nghệ, thông tin, về đào tạo, Song để các DNNVV
phát triển và nâng cao vai trò của mình hơn nữa trong nền kinh tế thì ngoài sự trợ
giúp của Đảng và Nhà nước, các DNNVV cũng phải quan tâm đến các mối quan hệ
với khách hàng và quan hệ trên thị trường để các mối quan hệ này ngày càng phát
triển, trong đó mối quan hệ với các NHTM chiếm một vị trí rất quan trọng.
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á - SeABank là một trong những NHTM được
đánh giá khá cao trong hệ thống các NHTMCP ngoài quốc doanh hiện nay. Cũng như
hầu hết các NHTMCP khác, tín dụng là hoạt động truyền thống và đang mang lại lợi
nhuận chủ yếu cho SeABank. Ngay từ khi thành lập, định hướng chiến lược phát triển
cốt lõi của SeABank là trở thành ngân hàng bán lẻ tiêu biểu tại Việt Nam. Hội đồng
quản trị SeABank đã định hướng là phát triển đối tượng DNNVV và chủ động tạo điều
kiện cho các DNNVV tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của SeABank.
Thực tế hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Việt Nam nói chung và của
SeABank nói riêng trong thời gian qua cho thấy chất lượng tín dụng chưa tốt, hiệu
quả tín dụng chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao và chưa có xu hướng giảm vững
chắc, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín
1
dụng rất đa dạng. Đặc biệt trong thời kỳ hậu suy thoái nền kinh tế như hiện nay rủi
ro tín dụng nói chung và rủi ro tín dụng đối với DNNVV luôn tiềm ẩn và khả năng
xẩy ra rủi ro là rất cao. Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động, SeABank luôn đặt
sự quan tâm hàng đầu đến các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng và luôn
coi đây là vấn đề cấp thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh của SeABank.
Với tính cấp thiết và xác định tầm quan trọng của vấn đề, tác giả lựa chọn đề tài
nghiên cứu luận văn cao học là: “Hạn chế rủi ro Tín dụng tại Ngân hàng Thương mại
cổ phần Đông Nam Á - SeABank đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa”.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Tác giả nghiên cứu những vấn đề lý thuyết về tín dụng và rủi ro tín dụng, một
số chỉ tiêu phân tích rủi ro tín dụng, DNNVV, … từ đó làm cơ sở để đánh giá hoạt
động tín dụng tại SeABank đối với DNNVV. Từ những vấn đề về lý thuyết và thực
trạng tín dụng DNNVV trên, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín
dụng tại SeABank đối với các DNNVV.
Hiện nay, cho vay các DNNVV đang là hoạt động kinh doanh chính và đem lại lợi
nhuận cao nhất (năm 2010: 62%) cho SeABank. Xuất phát từ thực tiễn ngày một nâng cao
hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chất lượng tín dụng tại SeABank, việc
nghiên cứu về hạn chế rủi ro Tín dụng đối với các DNNVV nhằm một số mục tiêu sau:
− Thứ nhất: Phân tích cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng DNNVV tại
NHTM.
− Thứ hai: Phân tích thực trạng rủi ro tín dụng của SeABank đối với
DNNVV.
− Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị mang tính khả thi trong
việc hạn chế rủi ro tín dụng tại SeABank đối với DNNVV, nhằm nâng cao hiệu quả
và chất lượng tín dụng tại SeABank.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu rủi ro tín dụng trong hoạt động
tín dụng cho vay tại SeABank đối với các DNNVV.
* Phạm vi nghiên cứu:
2
+ Trong khuôn khổ luận văn này do thời gian và trình độ có hạn, tác giả xin
được chỉ đi vào phân tích rủi ro tín dụng tại SeABank đối với DNNVV.
+ Hạn chế rủi ro tín dụng bằng cách phòng ngừa hoặc các biện pháp xử lý khi xẩy
ra rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, luận văn cũng đi sâu vào phân tích các biện pháp phòng
ngừa rủi ro tín dụng là chính.
+ Rủi ro tín dụng tại SeABank đối với các DNNVV trong giai đoạn từ năm
2008 đến năm 2010.
4. Những đóng góp khoa học của luận văn
Những lợi ích mà tác giả hướng tới là hệ thống hóa cơ sở lý luận về rủi ro tín
dụng, nghiên cứu hoàn thiện, phát hiện những rủi ro tín dụng, từ đó đề xuất hệ
thống các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại SeABank.
+ Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại SeABank đối với
DNNVV nói riêng và đối với hoạt động tín dụng nói chung từ đó đưa ra những
đánh giá chung về hoạt động hạn chế rủi ro tín dụng tại SeABank.
+ Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra một số quan điểm và giải pháp có tính chất khả
thi nhằm hạn chế rủi to tín dụng tại SeABank đối với DNNVV.
- Kết quả đề tài mang lại là những giá trị mà các Ngân hàng thương mại có thể
nghiên cứu, tham khảo xem xét để rút ra kinh nghiệm và áp dụng trong công tác hạn
chế rủi ro tín dụng đối với DNNVV nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
Đồng thời, đề tài cũng giúp các Ngân hàng thương mại nhận thức rõ hơn về tác
động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng và từ đó đưa ra các
giải pháp và kiến nghị một cách nghiêm túc và khoa học.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, các bảng biểu, danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được trình bày gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn.
Chương 2: Một số vấn đề cơ bản của NHTM về rủi ro tín dụng DNNVV.
Chương 3: Thực trạng rủi ro tín dụng tại SeABank đối với DNNVV.
Chương 4: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại SeABank đối với DNNVV
3
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
Rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu, yếu tố quyết định sống còn
của các NHTM từ trước đến nay. Một thực tế cho thấy việc giảm thiểu rủ ro tín
dụng luôn là vấn đề nóng bỏng được các NHTM quan tâm. Lợi nhuận chính của
NHTM đạt được là từ hoạt động tín dụng. Chính vì vậy, nên vấn đề hạn chế rủi ro
tín dụng tại các NHTM đã được rất nhiều tác giả lựa chọn nghiên cứu, từ các khía
cạnh và các cách tiếp cận khác nhau, tại các NHTM khác nhau (NH TMCP Ngoại
Thương Việt Nam, NH TMCP Công thương Việt Nam, NH Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam, …) đến việc tiếp cận từng chi nhánh của các NHTM
nhằm đưa ra các giải pháp, các mô hình quản lý, giám sát để hạn chế rủi ro tín dụng
cho các NHTM. Tuy nhiên, việc đưa ra các giải pháp để xác định rõ mô hình quản
lý, các quy trình nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hang thương mại cổ phần
Đông Nam Á – SeAbank đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn nhiều điểm cần
phải bàn luận.
1.1. Một số nghiên cứu về rủi ro tin dụng, doanh nghiệp vừa và nhỏ trên
thế giới
1.1.1 Nghiên cứu về rủi ro tín dụng của nhà kinh tế học Peter S.Rose
Rủi ro tín dụng được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát
triển của Ngân hàng. Nhưng rủi ro tín dụng chưa được quan tâm sớm như vậy mà
đến mãi những năm cuối của thế kỷ 20 khi các Ngân hàng phát triển mạnh mới
được các nhà kinh tế học đặc biệt quan tâm. Theo thời gian, rủi ro tín dụng đã ngày
càng được các nhà kinh tế học quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là doanh nhân trong
lĩnh vực Ngân hàng. Một trong những nghiên cứu đó là lý thuyết về rủi ro tín dụng
của nhà kinh tế học: Peter S.Rose. Các nghiên cứu của ông đều liên quan đến việc
hình thành và nguyên nhân của rủi ro tín dụng nhằm mục tiêu thay đổi tư duy hoạt
5
động vốn có từ trước của Ngân hàng. Peter S.Rose đã chỉ ra rằng, hoạt động Ngân
hàng là hoạt động luôn luôn tiền ẩn rủi ro: Rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hối
đoái, rủi ro thanh khoản, rủi ro tồn đọng vốn và các rủi ro khác. Rủi ro tín dụng là
rủi ro mang tính sống còn của Ngân hàng, nó được phản ánh qua các chỉ tiêu như:
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ; Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên
tổng dư nợ; Nợ có vấn đề; Tính đa dạng hóa của tài sản; Tình hình tài chính và
phương án của người vay (các yếu tố của người vay) hoặc xếp hạng tín dụng người
vay; Đảm bảo tín dụng; Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng; Môi
trường hoạt động của người vay.
Các chỉ tiêu trên cung cấp cho Ngân hàng các thông tin, chỉ số để phản ánh
mức độ rủi ro tín dụng đối với từng khách hàng, từng ngành nghề, lĩnh vực kinh
doanh của khách hàng và trên toàn hệ thống. Các chỉ tiêu trên cung cấp cái khung
để phân tích các vấn đề trong rủi ro tín dụng và đánh giá được mức độ rủi ro và các
nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Từ đó, nhà quản lý có thể đưa ra mô hình quản lý phù
hợp với điều kiện cụ thể tại ngân hàng mình, để quản lý hoạt động tín dụng của
ngân hàng mình tốt hơn, hiệu quả hơn. Mục tiêu cuối cùng cần đạt được của các nhà
quản lý là giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhằm tăng lợi
nhuận của ngân hàng.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, để hạn chế rủi ro tín dụng cần
xác định những nguyên nhân cụ thể, cách thức gây rủi ro tín dụng đối với từng
nhóm sản phẩm, từng đối tượng khách hàng để có biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng
cụ thể và thiết thực nhất. Nhưng dù nhóm sảm phẩm hay đối lượng khách hàng nào
cũng chịu ảnh hưởng của hai nhóm nguyên nhân cơ bản sau:
+ Nguyên nhân chủ quan: do trình độ, đạo đức của cán bộ ngân hàng, thiếu giám
sát quản lý sau cho vay, không tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình, quy chế của ngân
hàng, lỏng lẻo trong khâu giám sát tài chính và kiểm tra, kiểm soát nội bộ,…
+ Nguyên nhân khách quan: Do khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích,
không có thiện trí và ý trí trong việc trả nợ vay, tình hình tài chính không minh
6
bạch, yếu kém, do tác động của nền kinh tế xã hội và môi trường hoạt động sản xuất
kinh doanh của khách hàng,…
Như vậy, Peter S.Rose đã đưa ra được các nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng
và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng phần nào thể hiện những nội dung chính của
rủi ro tín dụng cũng như cách thức áp dụng và cách thức giải quyết các vấn đề.
Nhưng đối với mỗi một Ngân hàng khác nhau thì đặc thù khác nhau và nó cũng
chịu ảnh hưởng của các nguyên nhân này khác nhau.
1.1.2. Nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng nhìn chung
hầu hết các ý kiến đều cho rằng DNNVV là những cơ sở sản xuất kinh doanh tương đối
nhỏ với quy mô không lớn lắm. Tuy nhiên để có thể hiểu chính xác thế nào là quy mô
tương đối nhỏ, không lớn lắm thì lại có rất nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà kinh tế
học. Hơn nữa việc phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa và nhỏ chỉ mang tính
tương đối do quá trình phân loại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ phát triển
kinh tế của một nước; tính chất ngành nghề sản xuất; tính chất lịch sử… Trên cơ sở đó
mỗi nước có một sự lựa chọn tiêu thức khác nhau để đưa ra khái niệm doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Song nhìn chung các nước thường sử dụng hai nhóm chỉ tiêu phổ biến dùng để
phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, đó là:
−Nhóm chỉ tiêu về định tính
−Nhóm chỉ tiêu về định lượng
Trong đó, các chỉ tiêu định lượng đóng vai trò quyết định phân biệt
nhóm doanh nghiệp này với các doanh nghiệp lớn.
Nhóm chỉ tiêu về định lượng: gồm có ba chỉ tiêu thường được dùng độc
lập, hoặc kết hợp với nhau, để xác định tính chất nhỏ và vừa của doanh nghiệp:
−Số vốn điều lệ của doanh nghiệp
−Lực lượng lao động
−Quy mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động kinh doanh
7
Nhóm chỉ tiêu về định tính: các chỉ tiêu về định tính thường được xem xét
là cơ cấu của công ty, số lượng người quản lý, người ra quyết định chính,
ngành nghề kinh doanh và các rủi ro có thể xảy ra.
Ở Nhật cũng có rất nhiều các DNNVV, chiếm tới hơn 75%. Nhưng quy định
để trở thanh một doanh nghiệp của Nhật phải đáp ứng được các yêu cầu cụ thể:
Người đứng đầu doanh nghiệp phải có chứng chỉ quản lý do Hội doanh nhân của
Nhật cấp, người đứng đầu doanh nghiệp phải am hiểu về lĩnh vực hoạt động sản
xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có tối thiểu là 35 công nhân. Ở Nhật, các doanh
nghiệp lớn là những doanh nghiệp có quy mô hoạt động xuyên quốc gia, còn lại là
DNNVV. Ở Nhật không có các doanh nghiệp siêu nhỏ như ở Việt Nam.
1.2. Một số nghiên cứu về hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng ở Việt Nam
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra từ những nguyên nhân chủ quan của ngân hàng
và nguyên nhân khách quan do khách hàng và môi trường kinh tế, xã hội,… mang
lại. Nhận biết được những nguyên nhân trên là điều kiện cơ bản để phòng ngừa và
hạn chế rủi ro tín dụng (đây cũng là yếu tố cơ bản quyết định tính sống còn của một
ngân hàng). Trong giai đoạn vừa qua, các tổ chức tín dụng nói chung và các Ngân
hàng thương mại nói riêng đã thực hiện khá nhiều giải pháp hiệu quả để giảm thiểu
rủi ro tín dụng như: Áp dụng các quy trình, quy chế mang tính khoa học hơn, xử lý
nợ quá hạn, nợ có vấn đề hiệu quả hơn, nâng cao công tác thẩm định, quản lý hiệu
quả các dòng tiền,…
Tuy nhiên, quản lý rủi ro là một quá trình liên tục trong một NHTM nên để
hiệu quả hoạt động bền vững thì nhất thiết không ngừng đề ra các giải pháp để nâng
cao hơn nữa hiệu quả quản lý rủi ro, đặc biệt trong hoạt động tín dụng. NHTM
muốn giảm thiểu rủi ro cho mình nhất thiết phải có một hệ thống giải pháp chủ
động ngăn ngừa và hạn chế rủi ro từ những nguyên nhân chủ quan nội bộ cũng như
hạn chế sự ảnh hưởng từ phía khách hàng. Sự chủ động này được thể hiện ngay từ
khi xây dựng chính sách cho vay, quy trình cho vay, thực hiện quy trình và kể cả
các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn gian lận từ phía khách hàng cũng như đảm bảo
8
an toàn vốn cho ngân hàng khi khách hàng gặp rủi ro.
Trên khía cạnh về vĩ mô của hạn chế rủi ro tín dụng PGS.TS Nguyền Hiền có
tác phẩm: Hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng tìm “điểm tựa” năm 2009, Tác giả
đưa ra nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng: cơ bản là hai nhóm nguyên nhân chủ
quan và khách quan. Hạn chế rủi ro tín dụng và cách xử lý rủi ro tín dụng như: Các
chính sách linh tế vĩ mô của Nhà nước, môi trường kinh tế - xã hội, nội bộ ngân
hàng và trình độ quản lý cũng như trình độ của cán bộ,…Tuy nhiên, Tác giả mới chỉ
đưa ra vấn đề và cách thức giải quyết vấn đề mang tính chung cho toàn nền kinh tế
trong giai doạn khủng hoảng và suy thoái của nền kinh tế, nghiên cứu của tác giả
cũng nghiên cứu và chủ yếu đi sâu về giải quyết nợ quá hạn, nợ sấu, nợ có vấn đề
chưa đi sâu vào một lĩnh vực cụ thể của một tổ chức tín dụng nào.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng (2008), Luận văn thạc sĩ kinh tế, “Hạn chế rủi
ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu”. Đề tài này đã đề cập đến
hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu, đề tài đã đưa ra
các đánh giá, nhận xét về hoạt động này. Tuy nhiên các giải pháp đề tài đưa ra mới
chỉ nêu chung chung và một vài giải pháp chỉ phù hợp với hệ thống của Ngân hàng
Thương mại cổ phần Á Châu, chưa nêu được những hạn chế từ phía Ngân hàng
mang lại như việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm tra dòng tiền của khách hàng, …
Nhưng cũng có một số vấn đề tác giả đi quá sâu và chi tiết như: kiểm tra tài sản bảo
đảm của khoản vay thường xuyên sau cấp vốn và rà soát khách hàng thường xuyên
(tần suất theo tháng) qua hệ thống chấm điểm tín dụng nội bộ điều này có lẽ là phù
hợp với đặc điểm riêng có của tổ chức tín dụng nơi tác giả nghiên cứu. Tác giả chưa
có kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và Trung tâm thông tin tín dụng CIC về các
thông tin do trung tâm này cung cấp.
Tác giả Nguyễn Chí Cao năm 2010 có Luận án tiến sĩ kinh tế “Giải pháp đẩy mạnh
công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank)”.
Tác giả đã nêu ra được các giải pháp để quản lý rủi ro tín dụng tại SeABank nhưng
lại đi sâu về các quy trình, quy chế thực hiện tín dụng để tìm ra quy trình, quy chế
9
quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả nhất cho SeABank. Tác giả đã đưa ra được rất
nhiều các mô hình quản lý cũng như các quy trình quản lý rủi ro tín dụng và cấp tín
duungj của các nước phát triển và có thị trường tài chính phát triển như: Mỹ, Đức,
các nước Bắc Âu,… tác giả ít đề cập đến vấn đề con người cả trong khâu thẩm định
và kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hệ thống ngân hàng. Tác giả hầu như không đề
cập đến chính sách kinh tế vĩ mô, môi trường kinh tế xã hội và đặc biệt tác giả chỉ
nêu các giả pháp này chung cho tất cả các đối tượng khách hàng chứ chưa đề cập
riêng đến đối tượng khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Như vậy, qua đánh giá tổng quan các tài liệu nghiên cứu liên quan đến việc
quản lý rủi ro tín dụng, cũng như các nghiên cứu về hạn chế rủi ro tín dụng có thể
thấy hệ thống các nghiên cứu về lĩnh vực này đã góp phần hình thành một cơ sở lý
thuyết khá dày dặn, nhất quán cho việc hạn chế rủi ro tín dụng tại các NHTM. Các
nghiên cứu đã mang lại hệ thống lý luận cũng như những bài học kinh nghiệm trong
hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Tuy vậy, những nghiên cứu trên mới chỉ nghiên
cứu trên toàn hệ thống của một NHTM, hoặc chỉ nghiên cứu chung cho toàn bộ lĩnh
vực tín dụng trên phương diện vĩ mô hoặc trên phương diện lý thuyết, việc hạn chế
rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa được chú trọng.
10
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
2.1. Đặc điểm tín dụng Ngân hàng đối với DNNVV
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều khái niệm khác nhau về doanh nghiệp nhỏ
và vừa, nhưng nhìn chung hầu hết các khái niệm đều cho rằng DNNVV là những
cơ sở sản xuất kinh doanh tương đối nhỏ với quy mô không lớn lắm. Tuy nhiên,
để có thể hiểu chính xác thế nào là quy mô tương đối nhỏ, không lớn lắm thì lại có
rất nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà kinh tế trong và ngoài nước. Hơn nữa việc
phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa hay nhỏ chỉ mang tính tương đối do
quá trình phân loại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ phát triển kinh tế
của một nước; loại hình ngành nghề sản xuất kinh doanh; tính chất lịch sử để lại,…
Theo các tiêu chí đó mỗi nước có một sự lựa chọn tiêu thức khác nhau để đưa
ra khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Song nhìn chung, các nước thường sử
dụng hai nhóm chỉ tiêu phổ biến dùng để phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa là:
Nhóm chỉ tiêu về định tính.
Nhóm chỉ tiêu về định lượng.
Các chỉ tiêu định lượng đóng vai trò quyết định phân biệt nhóm doanh
nghiệp này với các doanh nghiệp lớn.
Nhóm chỉ tiêu về định lượng là: gồm có ba chỉ tiêu thường được dùng độc lập,
hoặc kết hợp với nhau, để xác định tính chất nhỏ và vừa của doanh nghiệp:
11
−Vốn điều lệ của doanh nghiệp
−Số lượng lao động
−Quy mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động kinh doanh
Nhóm chỉ tiêu về định tính là: các chỉ tiêu về định tính thường được xem
xét là cơ cấu của công ty, số lượng người quản lý, người ra quyết định chính,
ngành nghề kinh doanh và các rủi ro có thể xảy ra.
Ở Việt Nam, việc phân loại DNNVV chủ yếu theo hai tiêu chí cơ bản là số lao
động và tổng nguồn vốn theo ba khu vực: Nông, lâm nghiệp và thủy sản, Công
nghiệp và xây dựng, Thương mại và dịch vụ.
Để cụ thể hóa các tiêu chí này và để thuận tiện cho việc phân loại DNNVV,
ngày 30/06/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Nghị định số 56/NĐ-CP về trợ giúp
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đã định nghĩa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ
sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba
cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương
tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số
lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Bảng 2.1. Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa
Quy mô
Khu vực
DN siêu nhỏ Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng
nguồn vốn
Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng trở
xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
II. Công
nghiệp và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng trở
xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng trở
xuống
Từ trên 10
người đến
50 người
Từ trên 10
tỷ đồng đến
50 tỷ đồng
Từ trên 50
người đến
100 người
(Nguồn: Nghị định số 56/NĐ-CP ngày 30/06/2009)
12
Với cách phân loại này thì năm 2010 ở Việt Nam số DNNVV chiếm tới 95%
tổng số doanh nghiệp hiện đang hoạt động. Tính riêng trên địa bàn Hà Nội thì các
DNNVV cũng chiếm tới 85%, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp được thành lập
và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
2.1.1.2. Đặc trưng của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tuy khái niệm DNNVV ở mỗi quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung các khái
niệm đều khẳng định rằng DNNVV là hàm ý nói tới một tập hợp các thực thể kinh
tế có quy mô nhỏ và vừa xét trên phương diện vốn, lao động so với mặt bằng phát
triển chung của nền kinh tế ở một quốc gia nhất định và có những lợi thế và cũng có
những hạn chế cơ bản sau:
* Lợi thế của DNVVN:
+ DNNVV dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ. Khác với các
doanh nghiệp lớn, DNNVV với yêu cầu vốn bổ sung không nhiều và giảm được sự
thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố định khi có sự cạnh tranh phải chuyển sang
kinh doanh ngành khác nên các DNNVV dễ dàng và nhanh chóng trong việc đổi
mới thiết bị công nghệ khi cần thiết.
+ Các DNNVV được thành lập với lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hoạt động có
hiệu quả với chi phí cố định thấp, thu hồi vốn nhanh. Hầu hết các DNNVV đều có
thể dễ dàng bắt đầu hoạt động ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh với một ít vốn
cũng như lao động.
+ DNNVV có hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý gọn nhŠ, linh hoạt. Công
tác điều hành tại các DNNVV mang tính trực tiếp, quan hệ giữa những người lao
động và người quản lý khá chặt chẽ, gắn bó, tạo ra môi trường làm việc tốt.
+ DNNVV năng động linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh và dễ thích
nghi với những thay đổi của nền kinh tế. DNNVV năng động hơn các doanh
nghiệp lớn trước những thay đổi liên tục của thị trường. Với ưu thế quy mô vốn
nhỏ, cơ sở vật chất không lớn, cơ cấu bộ máy quản lý gọn nhŠ, DNNVV có khả
năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển đổi mặt hàng nhanh hơn, tăng giảm lao
động dễ dàng, có thể chuyển đổi mở rộng hoặc thu hŠp quy mô sản xuất mà không
gây hậu quả gì lớn.
13
+ DNNVV là sự bổ sung thiết yếu cho chính sự sinh tồn và phát triển các
doanh nghiệp lớn. Về nghiên cứu triển khai, DNNVV là nơi thử nghiệm những đổi
mới phát minh sáng chế. Về sản xuất, DNNVV là người đảm nhiệm có hiệu quả
cao những công đoạn cả ở phần đầu, phần giữa và phần cuối của quá trình chế tác
mà doanh nghiệp lớn không cần làm. Về dịch vụ, DNNVV có khả năng cung ứng
tốt nhiều dịch vụ do có ưu thế trong việc tiếp xúc với khách hàng. Về thương mại,
DNNVV có tính cơ động nhanh nhạy thâm nhập vào những thị trường tốt và rút
khỏi những thị trường không có tiềm năng.
+ DNNVV tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh. Các DNNVV có số lượng
đông đảo hoạt động trong lĩnh vực cung cấp các mặt hàng thiết yếu nên thường
không có tình trạng độc quyền. Các DNNVV dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do
cạnh tranh, không trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước. DNNVV có lợi thế
trong việc theo sát nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng, từ đó sáng tạo ra nhiều hàng
hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng.
+ DNNVV nếu có thua lỗ, phá sản thì có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây
nên khủng hoảng kinh tế – xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng
hoảng kinh tế dây chuyền.
* Hạn chế của DNVVN
Bên cạnh những lợi thế có được như phân tích ở trên, DNNVV vẫn còn tồn tại
một số mặt hạn chế, cụ thể:
+ DNNVV thường có thị trường nhỏ bé, không ổn định, lại phải chia sẻ với
nhiều doanh nghiệp khác. Một trong những khó khăn không nhỏ của các DNNVV
hiện nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các DNNVV gặp khó khăn do
những thủ tục và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước mà
nguyên nhân chủ yếu là bản quyền trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp chưa được
thực hiện nghiêm túc. Cùng với sự độc quyền của một số doanh nghiệp lớn khiến
sức cạnh tranh của DNNVV lại càng giảm trên thị trường nội địa.
+ DNNVV có cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu
kém, lạc hậu. Do nguồn vốn nhỏ và sự hiểu biết còn hạn chế nên các DNNVV chỉ
14
sử dụng các công nghệ trung bình, đơn giản, kết quả là năng suất lao động thấp, làm
giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các DNNVV cũng rất khó tiếp cận
với thị trường công nghệ, máy móc và thiết bị hiện đại. Rất ít DNNVV được trang
bị công nghệ hiện đại, trừ khi liên doanh với nước ngoài.
+ DNNVV có năng lực tài chính bị bó hŠp và được thể hiện ngay từ tên gọi
của loại hình doanh nghiệp này. Các DNNVV luôn gặp khó khăn trong giai đoạn
mới hình thành, phần lớn các DNNVV đều gặp phải khó khăn về vốn. Các NHTM
cũng như các tổ chức tài chính khác thường e ngại không muốn cho DNNVV vay
vốn bởi vì họ chưa có quá trình kinh doanh uy tín và chưa tạo lập được khả năng trả
nợ với ngân hàng.
+ DNNVV có trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động chưa cao.
Các DNNVV thường thiếu đội ngũ lao động có trình độ tay nghề, có khả năng đáp
ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Hơn
nữa, nhiều cán bộ quản lý, chủ doanh nghiệp thiếu kiến thức quản lý, trình độ
chuyên môn, thậm chí trình độ văn hoá thấp, thiếu kinh nghiệm nhiều mặt từ kỹ
năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường.
+ DNNVV có phương pháp hạch toán kế toán thường không đầy đủ, không
chính xác và thiếu minh bạch. Khả năng lập các phương án sản xuất kinh doanh còn
yếu, tính thuyết phục chưa cao. Doanh nghiệp chưa chỉ cho ngân hàng thấy được lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp mình so với các doanh nghiệp khác, không dự trù
được đầy đủ các chi phí cũng như các khoản thu để từ đó ước tính lợi nhuận mà
phương án đem lại.
+ DNNVV thiếu sức phòng, tránh và chống các rủi ro. Càng có nhiều
DNNVV ra đời thì càng có nhiều DNVVN phá sản. Trong những năm qua, nhà
nước luôn khuyến khích phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vì thế các
thủ tục thành lập doanh nghiệp đơn giản hơn, chi phí thấp hơn. Mặc dù có ưu thế
linh hoạt song do khả năng tài chính bị hạn chế, khi có biến động lớn trên thị
trường, các DNNVV dễ rơi vào tình trạng phá sản do không có đủ nguồn lực để
khắc phục khó khăn.
15
Tóm lại, DNNVV có rất nhiều thuận lợi nhưng có không ít những hạn chế. Để
tạo điều kiện và khuyến khích các DNNVV khai thác, phát huy hết lợi thế cũng như
khắc phục những bất lợi hạn chế sự phát triển của DNNVV, Nhà nước cần đưa ra
những chính sách, biện pháp hỗ trợ phù hợp đối với DNNVV. Bởi các DNNVV
ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có vị trí quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của đất nước.
2.1.2. Khái niệm tín dụng ngân hàng đối với DNNVV
Tín dụng là loại sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM,
phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Hoạt động chủ yếu của NHTM là tài
trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm (Tín dụng). Hình thức tín dụng truyền
thống của NHTM là cho vay có đảm bảo bằng tài sản hoặc cho vay tín chấp. Tuy
nhiên, các Ngân hàng lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng từ cho
vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng, chi thuê tài chính, chiết khấu
giấy tờ có giá và một số hoạt động khác do NHNN qui định.
Theo khoản 01 Điều 03 của Quy chế cho vay của Tổ chức Tín dụng đối với
khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001 của Thống đốc NHNN) thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo
đó TCTD giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và
thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 1997 và Luật các tổ
chức tín dụng được bổ sung sửa đổi năm 2004 thì: “Hoạt động tín dụng là việc các
TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng” và “Cấp tín
dụng là việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên
tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Như vậy, tín dụng ngân hàng đối với DNNVV được hiểu là giao dịch tài sản giữa
Ngân hàng với DNNVV - bên đi vay, trong đó Ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi
vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận và bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện cả gốc và lãi cho Ngân hàng khi đến hạn thanh thanh toán.
16
Vậy với đặc trưng cơ bản trong hoạt động của ngân hàng là ngân hàng kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên hoạt động tín dụng của ngân hàng rộng hơn rất nhiều
so với hoạt động tín dụng thương mại thông thường. Tài sản giao dịch trong tín
dụng ngân hàng chủ yếu dưới hình thức tiền tệ song trong một số hình thức tín dụng
khác như cho thuê tài chính thì tài sản trong giao dịch tín dụng có thể là tài sản cố
định, hay có khi là uy tín như trong các hình thức bảo lãnh.
2.1.3. Bản chất tín dụng ngân hàng đối với DNNVV
Do quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNVV không lớn nên tín
dụng ngân hàng dành cho các loại hình doanh nghiệp này cũng không lớn; DNNVV
chủ yếu vay vốn để tài trợ cho sự thiếu hụt về vốn lưu động, nên các khoản vay
mang tính nhỏ, lẻ; Do nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan nên hầu hết các
DNNVV thường vay các khoản vốn ngắn hạn là chính. Các khoản vốn này chủ yếu phục
vụ cho quá trình sản xuất chứ chưa có tác dụng nâng cao, mở rộng năng lực sản xuất.
Nên cho vay trung dài hạn đối với các DNNVV chiếm một tỷ lệ nhỏ trong
tổng nguồn vốn cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này. Và tỷ lệ nhỏ đó lại
thuộc về đại đa số các DNNVV thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước; Cho vay
DNNVV chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, những rủi ro đó xuất phát chính từ những
đặc điểm của nó như vốn ít, trình độ công nghệ và quản lý hạn chế gây ra cho
doanh nghiệp những khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2.1.4. Các hình thức tín dụng của ngân hàng đối với DNNVV
Từ khi hình thành đến nay các ngân hàng đã không ngừng đổi mới hoạt động
của mình cho phù hợp với những điều kiện khác nhau của nền kinh tế. Cùng với sự
phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, các hình thức tín dụng
của ngân hàng cũng ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, đáp ứng các nhu cầu
khác nhau về vốn. Tín dụng ngân hàng đã trở thành người bạn đồng hành thân thiết,
là động lực thúc đẩy quan trọng của từng doanh nghiệp. Đối với DNNVV, ngân
hàng có các hình thức tín dụng cơ bản được chia theo các hình thức sau:
2.1.4.1. Phân loại theo hình thức tài trợ tín dụng
a. Cho vay:
17
Khi một tổ chức tín dụng cấp tín dụng (giao) cho doanh nghiệp sử dụng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi thì gọi là cho vay. Cho vay là phương thức
mang lại nhiều lợi nhuận nhất so với các nghiệp vụ khác, đồng thời cũng là hình
thức phổ biến và truyền thống trong nghiệp vụ tín dụng. Hiện nay, ở Việt nam các
NHTM đang áp dụng các phương thức cho vay đối với DNNVV gồm có:
•Cho vay từng lần
•Cho vay theo hạn mức tín dụng
•Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
•Cho vay theo dự án đầu tư
•Cho vay hợp vốn
•Cho vay trả góp
b. Chiết khấu thương phiếu:
Chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng sẽ ứng
trước tiền cho doanh nghiệp tương ứng với giá trị thương phiếu trừ đi phần thu nhập
của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Đến hạn ngân hàng có
quyền đòi tiền từ người mua hàng của doanh nghiệp (người phải trả), nếu người
phải trả không trả, ngân hàng có quyền truy đòi đối với các bên có ký tên trên
thương phiếu.
c. Bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng là việc ngân hàng sẽ cam kết bằng văn bản (dưới hình
thức thư bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho doanh nghiệp (bên được bảo lãnh). Khi
doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ đã cam kết
với bên nhận bảo lãnh, doanh nghiệp phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số
tiền đã được trả thay.
18
Bảo lãnh có các loại cơ bản sau:
•Bảo lãnh vay vốn
•Bảo lãnh thanh toán
•Bảo lãnh dự thầu.
•Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
•Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm (bảo lãnh bảo hành).
•Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước
d. Cho thuê tài chính:
Cho thuê tài chính là việc ngân hàng bỏ tiền mua các tài sản theo yêu cầu của
doanh nghiệp để cho doanh nghiệp thuê theo những thoả thuận nhất định, và sau
một thời gian nhất định doanh nghiệp phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Tài sản
cho thuê thường là tài sản cố định và có giá trị lớn.
2.1.4.2. Phân loại theo sự đảm bảo tín dụng
a. Tín dụng không có TSĐB (hay còn gọi là tín chấp)
Về nguyên tắc mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên
trong một số trường hợp, ngân hàng vẫn có thể cấp tín dụng cho doanh nghiệp
không cần có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh mà chỉ dựa trên uy tín của doanh
nghiệp với ngân hàng, khi đó được gọi là tín dụng không có đảm bảo. Hình thức tín
dụng này thường được cấp cho các doanh nghiệp có uy tín, làm ăn thường xuyên có
lãi, tình hình tài chính lành mạnh, vững chắc.
b. Tín dụng có tài sản đảm bảo
Hình thức tín dụng này yêu cầu khi doanh nghiệp vay vốn phải có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Ngân hàng sẽ kiểm tra, đánh giá tài
sản đảm bảo về các nội dung như quyền sở hữu, giá trị thị trường, khả năng bán tài
sản, khả năng tài chính của bên bảo lãnh… để có thể giám sát, bảo quản tài sản đảm
bảo và thanh lý tài sản khi doanh nghiệp không trả được nợ vay.
19
2.1.4.3. Phân loại theo thời hạn tín dụng bao gồm các loại
a. Tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng. Hình thức tín
dụng này thường được ngân hàng sử dụng để tài trợ cho các nhu cầu vốn ngắn ngày
của doanh nghiệp như: bổ sung VLĐ, bổ sung VKD
b. Tín dụng trung hạn
Tín dụng trung hạn là loại hình tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Đối
với loại hình tín dụng này khách hàng là các doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng
trung hạn để phục vụ việc mua sắm trtang thiết bị tài sản cố định, cải tiến và đổi
mới kỹ thuật, công nghiệp, mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư cho các dự án,
công trình có qui mô vừa và nhỏ
c. Tín dụng dài hạn
Tín dụng dài hạn là loại hình tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Ngân hàng cung
cấp tín dụng dài hạn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc mua sắm các thiết bị máy
móc có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài và thường là đầu tư cho các chương
trình dự án mang tính chiến lược của doanh nghiệp.
2.2. Rủi ro tín dụng đối với DNNVV
2.2.1. Quan niệm về rủi ro tín dụng
Để hiểu rủi ro tín dụng là gì thì chúng ta phải đi tìm hiểu rủi ro là gì? Rủi ro là
những tổn thất xảy ra ngoài dự kiến. Như vậy, rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh
trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách
hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
Theo khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (Ban
hành theo Quyết định số 493 /2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước) thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
của mình theo cam kết”.
20
Tóm lại, có thể nói rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà
trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc không đủ
khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay,
chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh,
bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và
rủi ro sai hŠn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho Ngân
hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn
và lãi theo như cam kết trong hợp đồng tín dụng. Khi thực hiện cho vay một khách
hàng cụ thể Ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ gặp tổn thất. Tuy nhiên,
những khoản nợ cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro.
2.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng,
nên rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của
NHTM – hoạt động tín dụng.
Khi thực hiện một hoạt động tín dụng cụ thể, ngân hàng sẽ phân tích các yếu
tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết
định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh Ngân hàng tài
ba nào có thể dự đoán chính xác vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay và trả
lãi của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ
ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy trên
quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi và là
khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh
doanh Ngân hàng, có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro
dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của Ngân hàng.
2.2.3. Một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là yếu tố mang tính chất khách quan, song ngân hàng phải
quản lý rủi ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất hạn mức có thể xảy ra. Từ
21