Bài tập môn Luật Hiến pháp Phạm Thị Vân Anh – MSS 007 – KT33H
MỤC LỤC
A- Đặt vấn đề .............................................................................................................. 2
B- Giải quyết vấn đề ................................................................................................... 2
I. Định nghĩa về Quốc tịch ...................................................................................... 2
1. Quốc tịch là gì? .............................................................................................. 2
2. Cơ sở ra đời và tồn tại của Quốc tịch ............................................................ 2
3. Quốc tịch với vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ...................... 2
II. Sự hình thành và phát triển của pháp luật Quốc tịch Việt Nam ........................ 3
1. Giai đoạn trước năm 1975 ............................................................................. 3
2. Giai đoạn sau năm 1975 ................................................................................ 3
a, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 .......................................................... 4
b, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 .......................................................... 4
c, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 .......................................................... 4
III. Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008- Sự kế thừa và phát triển .. 4
1. Nguyên tắc một Quốc tịch ............................................................................. 4
2. Nhập Quốc tịch Việt Nam ............................................................................. 6
3. Trở lại Quốc tịch Việt Nam ........................................................................... 6
4. Mất Quốc tịch Việt Nam ............................................................................... 7
5. Pháp luật Quốc tịch về trẻ em ........................................................................ 9
C- Kết thúc vấn đề ...................................................................................................... 9
Danh mục tài liệu tham khảo .................................................................................. 10
Đại học Luật Hà Nội
1
Bài tập môn Luật Hiến pháp Phạm Thị Vân Anh – MSS 007 – KT33H
BÀI LÀM
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với bất kỳ một quốc gia nào, chế độ chính trị, cũng có tấm quan trọng đặc biệt với sự
phát triển của xã hội. Hiến pháp Việt Nam cũng như hiến pháp một số nước, ghi nhận sự tác
động chi phối cơ bản của nó tới nội dung các chế định khác trong hiến pháp. Vấn đề quốc tịch
Việt Nam với tư cách một chế định quan trọng trong việc xác định tư cách công dân cũng không
thoát khỏi sự ảnh hưởng của chế độ chính trị nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những chính
sách về quốc tịch phần nào đó thể hiện đường lối chính trị, pháp lý của pháp luật nước ta trong
giai đoạn đi lên xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành, vấn đề quốc tịch Việt Nam luôn có
sự kế thừa và phát triển. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là một minh chứng cụ thể.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Định nghĩa về Quốc tịch
1. Khái niệm Quốc tịch là gì?
Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý – chính trị có tính chất lâu dài, bền vững, ổn định cao về
mặt thời gian, không bị giới hạn về mặt không gian giữa một cá nhân cụ thể với một chính quyền
nhà nước nhất định.
2. Cơ sở ra đời và tồn tại của Quốc tịch.
Quốc tịch có mối quan hệ khăng khít, không tách rời với nhà nước. Sự ra đời và tồn tại của
nhà nước quyết định sự ra đời và tồn tại của Quốc tịch và ngược lại sự ra đời và tồn tại của Quốc
tịch phản ánh sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Chỉ khi thiết lập được chính quyền nhà nước,
giai cấp thống trị mới ban hành pháp luật về Quốc tịch nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà
nước của mình với các cá nhân sống trên lãnh thổ của nhà nước. Đồng thời người ta cũng chỉ có
thể nói về một nhà nước khi quyền lực chính trị bao trùm lên một lãnh thổ nhất định và những cá
nhân trên lãnh thổ đó.
Như vậy, khi một chính quyền nhà nước thành lập sẽ hình thành mối quan hệ pháp lý – chính
trị một cách tự động và trực tiếp giữa chính quyền nhà nước và các cá nhân đang sống trên lãnh
thổ của chính quyền nhà nước đó. Chỉ có sự ra đời của nhà nước mới làm xuất hiện Quốc tịch,
không phải luật về Quốc tịch tạo ra Quốc tịch.
3. Quốc tịch với vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Điều đầu tiên trong chương “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, Hiến pháp 1992
(Điều 49) quy định vấn đề Quốc tịch: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
người có Quốc tịch Việt Nam”. Với quy định trên, những nguyên tắc cơ bản về địa vị pháp lý của
công dân trong chế độ nhà nước ta đã được ghi nhận. Nó thể hiện các quyền tự do, bình đẳng,
không bị áp bức của công dân. Trong lịch sử phát triển nhà nước ta, các quyền và nghĩa vụ của
công dân ngày càng được mở rộng và đảm bảo chắc chắn đi đôi với sự tăng cường và mở rộng
cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội của chế độ nhà nước ta. Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân
ngày được phát triển bằng sự nỗ lực hoạt động của cả Nhà nước lẫn công dân vì sự nghiệp Cách
mạng chung.
Mối quan hệ giữa Quốc tịch và các quyền, nghĩa vụ của công dân cho thấy rằng thông qua
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống áp bức, bóc lột nhằm xây dựng chế độ mới dân chủ,
công dân nhà nước ta đã trở thành chủ thể của các quan hệ xã hội. Trên cơ sở đó, công dân nước
ta có điều kiện để phát triển cá nhân mình một cách toàn diện, trở thành chủ thể thực sự của đất
nước.
Đại học Luật Hà Nội
2
Bài tập môn Luật Hiến pháp Phạm Thị Vân Anh – MSS 007 – KT33H
II. Sự hình thành và phát triển của pháp luật Quốc tịch Việt Nam.
Ngày 2/9/1945, chủ tịch nước Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công- nông đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á. Sự kiện
này khẳng định: Việt Nam là quốc gia độc lập, có chủ quyền và bình đẳng, đồng thời cũng đánh
dấu sự bắt đầu của chế định “Quốc tịch Việt Nam”. Pháp luật Quốc tịch được hình thành và phát
triển gắn liền với tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được khái quát hóa ở hai giai
đoạn trước và sau năm 1975:
1. Giai đoạn trước năm 1975.
Trước nhiệm vụ cấp thiết phải xóa bỏ hệ thống pháp luật thực dân phong kiến và nhanh chóng
xây dựng hệ thống pháp luật mới để quản lý đất nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã
khẩn trương ban hành các văn bản pháp luật mới, trong đó có những văn bản về luật Quốc tịch là
các sắc lệnh để dựa vào đó xây dựng và giải quyết các vấn đề liên quan tới Quốc tịch Việt Nam.
• Về Quốc tịch Việt Nam.
Quốc tịch thể hiện chủ quyền của quốc gia đối với dân cư đồng thời xác định ai, người nào là
công dân của quốc gia. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành sắc lệnh số 53/SL ngày
20/10/1945 quy định về Quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh đảm bảo cho trẻ sơ sinh trên lãnh thổ Việt
Nam không bị rơi vào tình trạng không Quốc tịch.
Bên cạnh đó, Điều 1 và Điều 4 Sắc lệnh số 73/SL quy định những điều kiện và thủ tục liên
quan tới vấn đề gia nhập Quốc tịch Việt Nam.
• Về việc mất Quốc tịch Việt Nam.
Về thôi Quốc tịch, Điều 2 Sắc lệnh số 51/SL ngày 14/12/1959 quyết định phụ nữ Việt Nam
lấy chồng có Quốc tịch nước ngoài muốn theo Quốc tịch của chồng thì trong thời hạn 6 tháng kể
từ ngày ban hành sắc lệnh này phải xin bỏ Quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ Việt
Nam cho phép.
Về việc tước Quốc tịch được xác định trong Điều 7 Sắc lệnh số 59/SL.
Các sắc lệnh về Quốc tịch đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển
chế định Quốc tịch Việt Nam.
Tuy nhiên, trước năm 1975, do đặc điểm nước ta bị chia cắt làm hai miền và chế độ chính trị
khác nhau nên các văn bản pháp luật về Quốc tịch Việt Nam chỉ có hiệu lực hay nói cách khác
chỉ được áp dụng ở miền Bắc. Pháp luật Quốc tịch Việt Nam trước năm 1975 đã thể hiện rõ chủ
quyền của quốc gia đối với dân cư, quyết định của nhà nước về các vấn đề cơ bản liên quan đến
Quốc tịch như: nguyên tắc một Quốc tịch, bảo đảm quyền có Quốc tịch của cá nhân trên lãnh thổ
Việt Nam, bình đẳng giữa các công dân Việt Nam về quyền và nghĩa vụ công dân… Từ đó tạo
cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề đặt ra trên thực tế.
2. Giai đoạn sau năm 1975.
Ta thấy được rằng vấn đề Quốc tịch được nhà nước ta đề cập dưới góc độ là Luật Quốc tịch.
Thể hiện như sau:
a) Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988.
Ngày 28/6/1988, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam quy
định một cách khá toàn diện các vấn đề Quốc tịch Việt Nam. Để cụ thể hóa, ngày 05/13/1990,
Hội đồng bộ trưởng đã ban hành nghị định số 37/HĐBT. Luật Quốc tịch năm 1988 gồm lời nói
đầu và 18 điều đề cập đến 4 nội dung cơ bản: nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc một Quốc tịch,
có Quốc tịch Việt Nam, mất Quốc tịch Việt Nam. Luật quốc tịch năm 1988 và Nghị định số
Đại học Luật Hà Nội
3
Bài tập môn Luật Hiến pháp Phạm Thị Vân Anh – MSS 007 – KT33H
37/HĐBT đã đáp ứng nhu cầu chính trị và pháp lý về Quốc tịch trong giai đoạn mới của đất
nước.
b) Luật Quốc tịch năm 1998.
Luật Quốc tịch năm 1998 ra đời để phù hợp với quy định của Hiến pháp 1992, tạo cơ chế
đồng bộ thực hiện một cách nhất quán, triệt để để nguyên tắc một Quốc tịch, quyết định tình
trạng không rõ về Quốc tịch Việt Nam do lịch sử để lại trong cộng đồng Việt Nam định cư ở
nước ngoài, khắc phục tính đơn giản chung chung của Luật Quốc tịch năm 1988. Luật Quốc tịch
năm 1998 gồm 7 chương với 42 điều.
Bên cạnh việc ban hành Luật Quốc tịch 1998, các cơ quan có thẩm quyền còn ban hành các
văn bản dưới luật: Nghị định của Chính phủ số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998, Nghị định
của Chính phủ số 55/2000/NĐ-CP ngày 11/10/2000 sửa đổi một số điều của Nghị định số
104/1998/NĐ-CP, Thông tư liên tịch của Bộ Tư Pháp số 09/1999/TT-BTP ngày 07/04/1999.
Sau 9 năm thực hiện, gyà 15/02/2008, Bộ Tư Pháp đã tổ chức hội nghị tổng kết thực hiện
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, đánh giá những mặt tích cực, chỉ ra những hạn chế cần khắc
phục như ghi nhận nguyên tắc một Quốc tịch còn cứng nhắc, điều kiện nhập lại Quốc tịch Việt
Nam chưa thực sự phù hợp với tình hình mới, thủ tục tiếp nhận và giải quyết các vấn đề về Quốc
tịch còn rườm rà, công tác quản lý nhà nước về Quốc tịch lỏng lẻo, chưa sát thực tiễn…
c) Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Ngày 13/11/2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam
năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2009 bao gồm 6 chương với với 44 điều. Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 2008 còn bảo đảm sự phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992,
sự đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan cũng như tính khả thi các quy định có tính
nguyên tắc của Luật. Đảm bảo quyền có Quốc tịch của mỗi cá nhân, hạn chế tình trạng không
Quốc tịch ở nước ta, tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về Quốc tịch, tạo cơ sở
pháp lý chặt chẽ cho việc bảo hộ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công
dân Việt Nam ở nước ngoài.
III. Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 – Sự kế thừa và
phát triển.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 có 6 chương gồm 44 điều:
Chương 1: Những quy định chung;
Chương 2: Có Quốc tịch Việt Nam;
Chương 3: Mất Quốc tịch Việt Nam;
Chương 4: Thay đổi Quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi;
Chương 5: Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước về Quốc tịch;
Chương 6: Điều khoản thi hành.
So với cấu trúc của Luật Quốc tịch năm 1998, Luật Quôc tịch năm 2008 cũng có 6 chương
tuy nhiên tăng thêm 2 điều và chương 5 có tên gọi khác Luật năm 1998 (Thẩm quyền và thủ tục
giải quyết các vấn đề về Quốc tịch). Chương 5 Luật Quốc tịch năm 2008 thay đổi tên nhằm mục
đích nhấn mạnh đến trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong những vấn đề về Quốc tịch.
Phân tích toàn bộ các chương và điều của Luật Quốc tịch năm 2008, chúng ta thấy Luật này có
các nội dung cơ bản sau đây:
1. Nguyên tắc một Quốc tịch.
Nếu như điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 có tên gọi là nguyên tắc “một Quốc tịch”
và điều này quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân có
Đại học Luật Hà Nội
4
Bài tập môn Luật Hiến pháp Phạm Thị Vân Anh – MSS 007 – KT33H
một Quốc tịch là Quốc tịch Việt Nam” thì “nguyên tắc Quốc tịch” là tên gọi của điều 4 Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận
công dân Việt Nam có một Quốc tịch là Quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy
định khác”. Như vậy, có thể thấy Luật Quốc tịch năm 1998 được xây dựng trên nguyên tắc “một
Quốc tịch triệt để” còn Luật Quốc tịch năm 2008 được xây dựng trên nguyên tắc “một Quốc tịch
mềm dẻo”.
Nguyên tắc “một Quốc tịch mềm dẻo” thể hiện ở chỗ một mặt luật xác định ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam mỗi cá nhân đều có quyền có Quốc tịch Việt Nam. Nhà nước thừa
nhận công dân Việt Nam có một Quốc tịch là Quốc tịch Việt Nam, nhưng nhà nước cũng thừa
nhận một số người có hai hoặc nhiều Quốc tịch.
Do công nhận thực trạng một số công dân có hai hoặc nhiều Quốc tịch nên Luật Quốc tịch
Việt Nam năm 2008 đã bổ sung thêm một số điều quy định về việc giải quyết vấn đề phát sinh từ
tính trạng công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài. Theo quy định tại điều 12, vấn
đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài được giải quyết
theo điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trường hợp chưa có điều ước Quốc tế thì giải
quyết theo tập quán và thong lệ quốc tế. Điều 12 cũng xác định nhiệm vụ của Chính Phủ là ký
kết hoặc đề xuất việc ký kết, quyết định gia nhập điều ước Quốc tế để giải quyết vấn đề phát sinh
từ thực trạng công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài. Để giải quyết các xung đột
pháp luật trong lĩnh vực Quốc tịch, nhiều quốc gia đã ký kết một số điều ước quốc tế đa phương
về vấn đề Quốc tịch như: Công ước La Haye năm 1930 về một số vấn đề liên quan tới xung đột
Quốc tịch, công ước năm 1963 về việc giảm các trường hợp nhiều Quốc tịch và về nghĩa vụ quân
sự trong trường hợp nhiều Quốc tịch, công ước Châu Âu năm 1997 về Quốc tịch. Trong trường
hợp nhiều Quốc tịch, Công ước La Haye đã xác định nguyên tắc Quốc tịch hữu hiệu. Điều 5 của
công ước La Haye đã quy định: “Tại một nước thứ 3, một người có nhiều Quốc tịch sẽ được coi
như chỉ có một Quốc tịch. Nước thứ ba chỉ công nhận một trong số những Quốc tịch mà người
đó có hoặc công nhận Quốc tịch của nước mà người đó thường trú và cư trú chủ yếu hoặc Quốc
tịch của nước đó mà lúc đó trên thực tế người đó có mối quan hệ gắn bó nhất”. Nguyên tắc
Quốc tịch hữu hiệu được ghi nhận trong công ước La Haye năm 1930 có ý nghĩa quan trọng
trong việc lựa chọn luật áp dụng. Mặt khác, công ước La Haye cũng xác lập nguyên tắc bảo hộ
ngoại giao đối với người có hai hoặc nhiều Quốc tịch. Theo điều 4 công ước này, một quốc gia
không được bảo hộ ngoại giao cho công dân nhà nước mình tại quốc gia khác mà người này cư
trú.
Tuy nhiên, trong thực tiễn quan hệ quốc tế vẫn tồn tại tranh chấp giữa Việt Nam với các nước
trong việc thực hiện bảo hộ công dân cũng như vấn đề áp dụng pháp luật dân sự khi có tranh
chấp hoặc phápluật hành chính, hình sự khi công dân đó vi phạm pháp luật Việt Nam. Trong
nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước Việt Nam rất lúng túng khi giải quyết các giao dịch dân
sự, kinh tế… có sự tham gia của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hai Quốc tịch.
Bên cạnh đó, công tác quản lý và nắm danh sách người Việt Nam định cư ở nước ngoài gặp
nhiều khó khăn, chưa đầy đủ, chính xác. Vì vậy, ngoài việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật về Quốc tịch, Việt Nam cũng nên nghiên cứu khả năng đàm phán, ký kết các điều ước quốc
tế song phương cũng như tham gia các điều ước đa phương nhằm phối hợp với các quốc gia liên
quan giải quyết vấn đề công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài đặc biệt là đối với
bộ phận công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài.
2. Nhập quốc tịch Việt Nam.
Đại học Luật Hà Nội
5