BÀI LÀM
A/ NÊU VẤN ĐỀ
I- Lý do chọn đề tài
Quốc tịch là mối quan hệ chính trị và pháp lý gắn kết một cá nhân với một nhà nước có chủ
quyền. Nó là cơ sở pháp lý đầu tiên để xác định một cá nhân là công dân của một nước và trên cơ
sở đó làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ qua lại giữa nhà nước và công dân. Chỉ có trên cơ sở
quốc tịch, cá nhân mới được thụ hưởng những quyền và lợi ích mà nhà nước dành cho công dân
mình, ví dụ: quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền lao động...Điều 49 Hiến Pháp năm 1992 của
nước CHXHCN Việt Nam quy định : “Công dân nước CHXHCN Việt Nam là người có quốc tịch
Việt Nam” . Theo đó, chỉ những người mang quốc tịch Việt Nam mới được hưởng những quyền
và lợi ích mà nhà nước CHXHCN Việt Nam dành cho công dân của mình. Ngược lại, về phía nhà
nước, việc xác định quốc tịch cho công dân để bảo hộ quyền và lợi ích của họ cũng có ý nghĩa
như vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp
luật hiện hành về vấn đề quốc tịch có ý nghĩa hết sức quan trọng,nó góp phần tạo điều kiện cho
công dân được hưởng các quyền lợi hợp pháp của mình, thực hiện quyền làm chủ đối với đất
nước, đồng thời góp phần vào công cuộc xây dựng nhà nước XHCN Việt Nam “của dân do dân
vì dân”- xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh”.
II- Đôi nét về luật quôc tịch Việt Nam
II-1. Khái niệm quốc tịch
Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý- chính trị có tính chất lâu dài, bền vững, ổn định cao về mặt
thời gian, không bị giới hạn về mặt không gian giữa cá nhân cụ thể với chính quyền nhà nước
nhất định.
II-2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam
Pháp luật quốc tịch hình thành và phát triển gắn liền với tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam.
Giai đoạn trước năm 1975:
Sau cách mạng tháng tám, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đứng trước nhiệm vụ
cấp thiết là phải nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật mới để quản lý đất nước, giữ vững
nền độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành những
văn bản pháp luật mới, trong đó có những văn bản pháp luật về quốc tịch, như: Sắc lệnh số
53/SL ngày 20/10/1945 quy định những ai là công dân Việt Nam và những người nào bị mất
quốc tịch Việt Nam; sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 quy định điều kiện người ngoại quốc xin
gia nhập quốc tịch Việt Nam.
Các sắc lệnh trên là căn cứ pháp lý để xác định và giải quyết những vấn đề liên quan đến quốc
tịch Việt Nam.
Giai đoạn sau 1975:
a) Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988
Sau ngày thống nhất đất nước, những văn bản pháp luật về quốc tịch Việt Nam được áp dụng trên
toàn lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều vấn đề liên quan đến quốc tịc nảy sinh đòi
hỏi cần được giải quyết. Ngày 28/6/1988, quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 3 đã thông qua luật
quốc tịch Việt Nam quy định một cách khá toàn diện về các vấn đề quốc tịch Việt Nam. Luật
quốc tịch Việt Nam năm 1988 gồm lời nói đầu và 18 điều với những nội dung cơ bản sau:
(1)nguyên tắc bình đẳng; (2) nguyên tắc một quốc tịch; (3) có quốc tịch Việt Nam (4) mất quốc
tịch Việt Nam.
1
Việc ban hành và thực hiện luật quốc tịch năm 1988 ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới đã
góp phần đắc lực phục vụ cho chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước ta, tăng cường mối
liên hệ gắn bó giữa nhà nước với công dân.
b) Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998
Xuất phát từ thực tế hội nhập cùng cộng đồng quốc tế, đáp ứng những yêu cầu về việc giải quyết
vấn đề quốc tịch và khắc phục những hạn chế của luật quốc tịch năm 1988,ngày 20/5/1998 quốc
hội khóa X, kỳ họp thứ ba đã thông qua luật quốc tịch mới. Luật quốc tịch 1998 gồm VI chương
và 42 điều, được coi là bước tiến trong việc hoàn thiện pháp luật quốc tịch, đã quy định tương đối
cụ thể như : chính sách của nhà nước ta về quốc tịch, việc có và mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi
quốc tịch của người chưa thành niên và con nuôi, thẩm quyền và thủ tục giải quyết các việc về
quốc tịch.
c) Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008
Trên cơ sở tổng kết thực tế thực hiện luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, xuất phát từ những hạn
chế của luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, đồng thời đáp ứng những yêu cầu trong tình hình
mới, ngày 13/11/2008 kỳ họp thứ tư quốc hội khóa XII đã thông qua luật quốc tịch Việt Nam
2008, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2009. Luật quốc tịch 2008 bao gồm 6 chương và 44
điều. về tổng thể có cấu trúc như luật quốc tịch 1998 nhưng những hạn chế đã cơ bản được sửa
đổi.
II-3. Hệ thống pháp luật quốc tịch Việt Nam hiện hành
Hệ thống pháp luật quốc tịch Việt Nam hiện hành bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật sau:
Hiến pháp 1992: điều 49, 50 ;điểm 11 Điều 103 quy định trách nhiệm. quyền hạn của chủ tịch
nước về vấn đề quốc tịch.
Bộ luật dân sự Việt Nam ( điều 45) quy định quyền đối với quốc tịch của cá nhân.
Luật quốc tịch Việt Nam 2008.
Thông tư số 146/2009/TT- BTC ngày 20/07/2009 hướng dẫn chế độ thu, nộp và quản lý sử
dụng lệ phí giải quyết các việc liên quan đến quốc tịch.
Nghị định 78/2009/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật quốc
tịch Việt Nam.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I- Những nội dung cơ bản của pháp luật quốc tịch Việt Nam hiện hành
I-1 . Nội dung c ơ bản
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 gồm 6 chương, 44 điều, cụ thể là:
Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 12).Chương này quy định các vấn
đề chung về quốc tịch Việt Nam; quyền đối với quốc tịch; nguyên tắc quốc tịch; quan hệ giữa
Nhà nước và công dân; bảo hộ đối với công dân; chính sách đối với người gốc Việt Nam; hạn
chế tình trạng không quốc tịch; giữ quốc tịch khi kết hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp
luật; giữ quốc tịch khi quốc tịch của vợ hoặc chồng thay đổi; giấy tờ chứng minh quốc tịch và
giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước
ngoài.
Chương II: Có quốc tịch Việt Nam (từ Điều 13 đến Điều 25) Chương này quy định về
người có quốc tịch Việt Nam; căn cứ xác định quốc tịch; quốc tịch của trẻ em; các điều kiện,
trình tự, thủ tục, hồ sơ nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam; trình tự, thủ tục và hồ sơ xin nhập
quốc tịch Việt Nam của người không quốc tịch cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam.
2
Chương III: Mất quốc tịch Việt Nam (từ Điều 26 đến Điều 34) Chương này quy định về
căn cứ mất quốc tịch Việt Nam; các điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt
Nam, tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
Chương IV: Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi (từ Điều 35
đến Điều 37) Chương này quy định về quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ được
nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam hoặc bị tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc
tịch Việt Nam.
Chương V: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quốc tịch (từ Điều 38 đến Điều 41)
Chương này quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước, Chính phủ, các bộ, cơ quan
ngang bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; Vấn đề thông
báo và đăng tải kết quả giải quyết các việc về quốc tịch.
Chương VI: Điều khoản thi hành (từ Điều 42 đến Điều 44) Chương này quy định về điều
khoản chuyển tiếp đối với việc giải quyết hồ sơ các việc về quốc tịch được tiếp nhận trước
ngày Luật này có hiệu lực. Hiệu lực thi hành của Luật; việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành.
I-2. Phân tích nội dung c ơ bản của luật quốc tịch Việt Nam
I-2.1 Những nguyên tắc cơ bản
–– Quyền có quốc tịch: được quy định tại Khoản 1, Điều 2 luật quốc tịch Việt Nam. Đây là
quyền dân sự quan trọng của con người đã được ghi nhận trong BLDS Việt Nam. Nguyên tắc này
được đảm bảo thi hành bằng các quy định tại các điều 13 đến 18, thông qua đó quốc tịch Việt
Nam của một người được xác định ngay từ khi sinh ra theo nguyên tắc huyết thống hoặc kết hợp
yếu tố nơi sinh với nguyên tắc huyết thống.
–– Nguyên tắc quốc tịch Việt Nam : điều 4 Luật QTVN quy định : “Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ
trường hợp Luật này có quy định khác.”
–– Nhiệm vụ của nhà n ư ớc trong việc bảo hộ ng ư ời Việt Nam ở n ư ớc ngoài ( điều 6,7 LQTVN).
I-2.2 Có quốc tịch Việt Nam
Một số căn cứ để xác định quốc tịch Việt Nam:
a) Do sinh ra:
+ Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là công dân
Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. (Điều 15)
+ Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân
Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc người nước ngoài hoặc có mẹ là công dân
Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam. ( Điều 16)
3
+ Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không quốc tịch,
nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. (điều 17)
+ Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai thì
có quốc tịch Việt Nam. (khoản 1 điều 18)
b) Nhập quốc tịch Việt Nam (điều 20,21,22 LQTVN 2008)
Là hiện tượng một người vốn không phải là công dân Việt Nam nay có quốc tịch Việt Nam do
được cho phép nhập quốc tịch Việt Nam. Tất nhiên, cũng như ở nhiều nước, việc nhập quốc tịch
phải tuân theo những quy định hết sức chặt chẽ về điều kiện, trình tự, thủ tục giải quyết.
Đồng thời, Luật QTVN cũng quy định việc miễn, giảm điều kiện nhập quốc tịch Việt nam được
áp dụng cho các đối tượng : (a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;
(b) Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; (c) Có
lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
c) Trở lại quốc tịch Việt Nam (điều 23,24,25 LQTVN 2008)
Là hiện tượng một người trước đây vốn trước đây có quốc tịch Việt Nam song vì lý do nào đó bị
mất quốc tịch Việt Nam, nay muốn xin trở lại quốc tịch Việt Nam, tiếp tục làm công dân Việt
Nam.
I-2.3 Mất quốc tịch Việt Nam
Được quy định tại các điều 26 đến 34. Đây là hiện tượng một người vốn có quốc tịch Việt Nam,
không còn quốc tịch Việt Nam nữa do xin thôi, bị tước quốc tịch Việt Nam, bị hủy bỏ quyết định
cho nhập quốc tịch hay bị mất quốc tịch Việt Nam theo điều ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết
hoặc tham gia.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 27, công dân Việt Nam chỉ được xem xét cho thôi quốc tịch
Việt Nam nếu người đó không thuộc một trong các trường hợp sau :
(a) Đang nợ thuế đối với Nhà nước hoặc đang có nghĩa vụ tài sản đối với cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhân ở Việt Nam; (b) Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; (c) Đang chấp hành bản án, quyết
định của Toà án Việt Nam; (d) Đang bị tạm giam để chờ thi hành án; (đ) Đang chấp hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, trường giáo
dưỡng.
I-2.4 Các giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam
(a) Giấy khai sinh; trường hợp Giấy khai sinh không thể hiện rõ quốc tịch Việt Nam thì phải kèm
theo giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam của cha mẹ;(b) Giấy chứng minh nhân dân;(c) Hộ
chiếu Việt Nam;(d)Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch
Việt Nam, Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước ngoài, Quyết
định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. (Điều 11 luật quốc tịch Việt
Nam 2008).
4
I-2.5 Quản lý nhà nước về quốc tịch Việt Nam (điều 38,39,40,41 Luật QT Việt Nam năm 2008)
II- Những điểm kế thừa và phát triển của luật quốc tịch Việt Nam 2008
II-1. Sự cần thiết sửa đổi luật quốc tịch Việt Nam 1998
Luật quốc tịch Việt Nam 1998 là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về quốc
tịch của Nhà nước ta. Luật quốc tịch 1998 đã điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực quốc tịch. Chính vì vậy, sau hơn 9 năm thực hiện, Luật quốc tịch 1998 đã thực sự
đi vào cuộc sống, góp phần quan trọng vào việc hình thành mối quan hệ gắn bó giữa công dân
Việt Nam với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, Luật quốc tịch 1998 cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc một quốc tịch triệt để thể hiện trong điều 3 LQT 1998 trên thực tế khó có
thể được đảm bảo thực hiện một cách nhất quán. Do luật QT 1998 không quy định nguyên tắc
đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam khi nhập quốc tịch nước ngoài nên dẫn đến có nhiều trường
hợp công dân Việt Nam có hai quốc tịch , đặc biệt là trẻ em.
Thứ hai, Luật QT 1998 chưa có quy định giải quyết quốc tịch cho cư dân không có quốc tịch do
không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định tại Việt Nam.
Thứ ba, thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch quy định trong LQT 1998 chưa cụ thể, còn
trong các văn bản hướng dẫn thi hành lại rườm rà, không đáp ứng được yêu cầu cải cách hành
chính trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, vấn đề công dân có hai quốc tịch và sự xung đột pháp luật trong lĩnh vực quốc tịch là vấn
đề khá phổ biến.
Vì những lý do trên đây có thể thấy việc ban hành luật mới,trên cơ sở LQT1998 là một đòi hỏi
cấp bách của xã hội.
Trên cơ sở đó, luật Quốc tịch Việt Nam 2008 đã được ban hành để giải quyết các vấn đề này.
II-2. Những điểm mới của luật quốc tịch Việt Nam năm 2008
So với Luật năm 1998, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 có những nội dung mới quan trọng
sau đây:
1) Nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo
Nếu điều 3 LQT 1998 có tên gọi là “nguyên tắc một quốc tịch” thì “nguyên tắc quốc tịch” là tên
của điều 4 LQT Việt Nam 2008.Nguyên tắc một quốc tịch triệt để theo luật QT 1998 là một trong
những hạn chế lớn nhất của luật này.Vì trên thực tế, thực hiện quy định này trong thời gia qua
chưa thực sự phản ánh đúng nguyện vọng của một bộ phận người Việt Nam.. Để khắc phục hạn
chế trên, Luật QT 2008 đã có những quy định mới mềm dẻo hơn về nguyên tắc quốc tịch.Sự
mềm dẻo của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, một mặt LQT 2008 xác định ở nước XHCN Việt
Nam mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch Việt Nam, mỗi thành viên của các dân tộc Việt Nam
đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, Nhà nước cũng thừa nhận tình trạng
một người có hai hay nhiều quốc tịch - “trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Như vậy,
Luật năm 1998 không quy định về các trường hợp ngoại lệ có thể có hai quốc tịch (mặc dù trên
thực tế vẫn có nhiều trường hợp được mang hai quốc tịch) thì đến Luật năm 2008 đã quy định rõ
5