Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng phương pháp khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.49 KB, 17 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, tại đó tồn tại mối quan hệ ruột thịt và tình thương,
gắn bó các chủ thể một cách thường xuyên, lâu dài, thậm chí suốt cả đời người
về tình cảm và nghĩa vụ. Trong các mối quan hệ đó, mối quan hệ giữa cha mẹ và
con được duy trì lâu bền nhất do yếu tố tình cảm chi phối và cũng vô cùng tế
nhị. Vấn đề sinh con theo phương pháp học là rất đặc biệt, do vậy việc xác định
cha mẹ, con cũng có những nét riêng.
Vấn đề sinh con theo phương pháp khoa học là vấn đề khá phức tạp, đặc biệt là
về mặt pháp lí, bởi trong chừng mực nào đó nó đã làm thay đổi những quan
niệm truyền thống về quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con… vì vậy cần có
những văn bản pháp lí hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 đã quy định: “Việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo
phương pháp khoa học do Chính phủ quy định” (Điều 63); Để cụ thể vấn đề này,
Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/2/2003 về sinh con
theo phương pháp khoa học. Việc xác định mối quan hệ này có ý nghĩa trong
mọi thời đại và được đặc biệt coi trọng bởi nó liên quan đến rất nhiều mối quan
hệ khác về dân sự, hôn nhân gia đình. Bởi nó liên quan đến tình cảm, danh dự,
uy tín; liên quan đến quan hệ tài sản trong đời sống xã hội. Vì vậy, nó nhất thiết
phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Để tăng cưòng nhận thức của bản thân
cũng như để góp phần giúp mọi người hiểu rõ được vấn đề này, nhóm chúng em
chọn đề tài: “Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng phương
pháp khoa học”.
Do đây là một đề tài lớn và chúng em đã cố gắng trình bày vấn đề này
một cách ngắn gọn, cô đọng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô.
Chúng em xin chân thành cảm ơn !
1
A. Mở đầu
Sinh con theo phương pháp khoa học đã thể hiện sự phát triển vượt bậc của khoa
học kĩ thuật, chính điều đó đã cho phép các cặp vợ chồng vô sinh có thể có con,
niềm mong mỏi tha thiết của họ đã trở thành hiện thực. Các phương pháp hỗ trợ


sinh sản có thể giải quyết được tình trạng vô sinh của phụ nữ và nam giới do ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố như môi trường, hậu quả chiến tranh… đáp ứng được
nguyện vọng làm cha, làm mẹ của họ, điều đó đã thể hiện những giá trị nhân bản
cao đẹp. Thực tế việc áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản không đơn thuần thuộc lĩnh
vực khoa học mà còn liên quan đến nhiều vấn đề về đạo đức, pháp lí, về tâm lí tình
cảm… Chính vì vậy, việc xác định cha, mẹ, và con trong trường hợp này càng trở
nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Tất cả những vấn đề đó đã được quy
định trong Nghị định của Chính phủ số 12/2003/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm
2003 về sinh con theo phương pháp khoa học.
B. Nội dung
I. Sinh con bằng phương pháp khoa học
1. Giải thích khoa học
a. Giải thích từ
- Sinh con theo phương pháp khoa học là việc sinh con được thực hiện bằng các kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm.
- Thụ tinh nhân tạo là thủ thuật bơm tinh trùng của chồng hoặc của người cho tinh
trùng vào tử cung của người phụ nữ có nhu cầu sinh con để tạo phôi.
- Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm
để tạo thành phôi.
- Cặp vợ chồng vô sinh là cặp vợ chồng sống gần nhau liên tục, không áp dụng biện
pháp tránh thai nào mà không có thai sau 01 năm.
2
- Noãn là tế bào trứng.
- Phôi là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng.
b. Các nguyên tắc trong áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản
Theo điều 4, Nghị định 12, các nguyên tắc áp dụng kĩ thuât hỗ trợ sinh sản bao
gồm:
` - Thứ nhất: Các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ sống độc thân có quyền sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
- Thứ hai: Việc thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải theo đúng quy

trình kỹ thuật do Bộ Y tế ban hành.
- Thứ ba: Việc thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; cho noãn, nhận noãn;
cho tinh trùng, nhận tinh trùng; cho phôi, nhận phôi phải được tiến hành trên
nguyên tắc tự nguyện.
- Thứ tư: Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên
nguyên tắc bí mật.
2.Cơ sở pháp lí
Việc xác định cha mẹ cho con được sinh ra bằng phương pháp khoa học được
quy định tại Chương V Nghị định số 12/2003/NĐ-CP, bao gồm:
Điều 20:
1. Trẻ ra đời do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ
trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân.
2. Những người theo quy định tại khoản 1 Điều này được xác định là cha, mẹ đối
với trẻ sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Điều 21:
3
Con được sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không được quyền yêu
cầu quyền thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho
noãn, cho phôi.
II. Xác đinh cha mẹ con trong trường hợp sinh con theo phương pháp khoa
học
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã quy định: “ Việc xác định
cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy
định” ( Điều 63 ). Để cụ thể vấn đề này Chính phủ ban hành Nghị quyết số
12/2003/ NĐ- CP ngày 12/ 3/ 2003 về sinh con theo phương pháp khoa học ( gọi
tắt là Nghị định 12)
Nghị định 12 đưa ra khái niệm: “ cặp vợ chồng vô sinh” tuy nhiên lại không
quy định rõ đây có phải là cặp vợ chồng hợp pháp hay không. Vợ chồng hợp
pháp có nghĩa là phải có đăng ký kết hôn hoặc quan hệ vợ chồng được xác lập
trước ngày 3 /1/ 1987. Ở đây, Nhà nước nên quy định thêm điều này, như vậy

mới tạo ra liên kết giữa quyền và nghĩa vụ pháp lí của cặp vợ chồng vô sinh với
nhau, cũng như với việc thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản.
Nghị định 12 quy định:“Sinh con theo phương pháp khoa học là việc sinh con
được thực hiện bằng các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh
trong ống nghiệm” (Điều 3). Quy định này cho thấy giới hạn trong việc áp dụng
khoa học trong việc sinh con. Tại đây chỉ cho phép sử dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh
sản. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với phong tục tập quán truyền thống,
tâm lí tình cảm và quan điểm chung với hầu hết các nước trên thế giới.
Sinh con theo phương pháp học là đặc biệt, do vậy việc xác định cha mẹ, con
cũng có những không theo cách thông thường.
4
Điều 20, Nghị định 12 quy định:
1. Trẻ ra đời do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ
trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân.
2. Những người theo quy định tại khoản 1 Điều này được xác định là cha, mẹ đối
với trẻ sinh ra do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản”.
Điều 21 Nghị định 12 quy định:
“Con được sinh ra do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản không được quyền yêu
cầu quyền thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho
noãn, cho phôi”.
Nghị định 12 đã dặt ra ranh giới pháp lí giữa cha mẹ theo huyết thống và cha
mẹ theo pháp lý với con. Tại đây, mặc dù đứa con về mặt sinh học mang huyết
thống của người cha/mẹ cho tinh trùng/trứng nhưng về mặt pháp lý thì Nhà nước
ta chỉ công nhận người trực tiếp sinh ra đứa bé là mẹ của đứa bé và người cha
đứa bé chính là người chồng hợp pháp của mẹ đứa bé. Điều này xuất phát từ
nguyên tắc xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp theo khoản 1
điều 63 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định: “Con sinh ra trong
thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì đó là con chung của vợ
chồng”
Tuy nhiên, vấn đề này có liên quan đến quy định tại Điều 21 Nghị định số

70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
hôn nhân và gia đình: “… con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày người
chồng chết… thì được xác định là con chung của hai người”. Do phải phụ thuộc
vào quá trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cho nên thời gian đến khi đứa bé
ra đời có thể sẽ lâu hơn nếu so sánh với việc thụ thai do quan hệ tình dục. Do vậy
ở đây khó có thể áp dụng con số 300 ngày của những cặp vợ chồng bình thường
đối với cặp vợ chồng vô sinh. Hơn nữa, do trước khi người chồng chết, cả hai vợ
5
chồng đều tỏ ý muốn có con và sau khi người chồng chết, người vợ muốn tiếp
tục phương pháp sinh con theo khoa học thì nếu đứa con sinh ra trong thời gian
quá 300 ngày, nếu theo luật pháp hiện hành, người chồng đã chết không phải là
cha đứa bé, điều này rõ ràng bất hợp lý. Có lẽ Nhà nước cần thiết phải có quy
định pháp lí cho trường hợp đặc biệt này.
Còn đối với trường hợp người phụ nữ độc thân khi sinh con thì áp dụng
tương tự như trường hợp xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân
hợp pháp, trong trường hợp này chỉ tồn tại quan hệ mẹ và con. Hơn thế, trong
trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học mà vợ chồng phải xin
trứng/tinh trùng thì cần phải quy định rõ sau khi đứa trẻ được sinh ra nếu người
cha, người mẹ không muốn thừa nhận con thì không có quyền yêu cầu xác định
lại vì quan hệ cha mẹ và con là tất yếu và không thể phủ nhận được, họ không
được quyền yêu cầu giám định về gen di truyền. Điều này khác với trường hợp
sinh con thông thường vì người chồng có quyền yêu cầu xác định lại quan hệ cha
con khi không tin tưởng đứa con là con ruột của mình. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp nếu cặp vợ chồng vô sinh, người phụ nữ độc thân nghi ngờ cơ sở y tế
và có thể có sự nhầm lẫn trong quá trình thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản thì nên
cho phép họ được quyền yêu cầu cơ sở này xem xét lại trong phạm vi và mức độ
nào đó.
Tóm lại, vấn đề sinh con theo phương pháp khoa học là vấn đề khá phức tạp,
đặc biệt là về mặt pháp lí, bởi trong chừng mực nào đó nó đã làm thay đổi những
quan niệm truyền thống về quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con… vì vậy cần

có những văn bản pháp lí hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
III. Các trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học
1. Trường hợp các cặp vợ chồng vô sinh.
a.Tình trạng
6

×