Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Đấy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.02 KB, 39 trang )

GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Kim ngạch xuất khẩu nông sản giai đoạn 1996 - 2000 14
Bảng 1.2. Kim ngạch xuất khẩu nông sản trong giai đoạn 2001 - 2008 16
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 1996-2000
Error: Reference source not found
Bảng 2.2. Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 2000-2009 26
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài
Chúng ta đã biết Việt Nam là một quốc gia đi lên từ nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu và đang phát triển theo xu hướng công nghiệp hóa hướng vào
xuất khẩu. Hiện nay Việt Nam đang thực hiện chính sách đa dạng các mặt hàng
xuất khẩu đặc biệt những sản phẩm đã qua chế biến trong đó nông nghiệp vẫn
là một trong những ngành nghề quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển nền kinh tế Việt Nam. Và việc kết hợp phát triển sản xuất nông nghiệp và
xuất khẩu nông sản đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển chung
của nền kinh tế đất nước. Thời gian qua, hoạt động xuất khẩu nông sản của
Việt Nam đã có những bước tiến lớn như mở rộng thị trường ra khoảng 50
nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc,
Đông Âu, các nước ASEAN Trong đó, Hoa Kỳ là một thị trường đầy tiềm
năng nhưng cũng đầy thách thức đối với nước ta. Hoạt động xuất khẩu nông
sản sang Hoa Kỳ trong những năm gần đây đã có những thành tựu nhất định
như sự tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu cũng như về chủng loại sản phẩm.
Và Hoa Kỳ ngày càng trở thành một đối tác quan trọng trong lĩnh vực thương
mại của Việt Nam đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nông sản sang thị trường
này. Do đó, em đã chọn đề tài nghiên cứu :“ Đấy mạnh hoạt động xuất khẩu


hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ” để thấy được những
thành tựu và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu nông sản sang thị trường Hoa
Kỳ từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất khẩu
này.
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Chương I : Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
1, Khái niệm về hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hóa là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia
khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán, với mục tiêu là lợi
nhuận. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai
quốc gia. Mục đích của hoạt động này là thu được một khoản ngoại tệ dựa trên
cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động
quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc
gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này.
2. Hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng nông sản nói riêng
đối với nền kinh tế
2.1 Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là một mặt của hoạt động thương mại quốc tế nên nó
cũng có những đặc trưng của hoạt động thương maị quốc tế và nó liên quan
đến hoạt động thương mại quốc tế khác như bảo hiểm quốc tế, thanh toán quốc
tế, vận tải quốc tế Hoạt động xuất khẩu không giống như hoạt động buôn bán
trong nước ở đặc điểm là nó có sự tham gia buôn bán của đối tác nước ngoài,
hàng hoá phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng ở phạm vi nước ngoài
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của nền
kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc hàng
hoá thiết bị công nghệ cao. Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục tiêu đem
lại lợi ích cho quốc gia nói chung và các doanh nghiệp tham gia nói riêng.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra rất rộng về không gian và thời gian. Nó có thể
diễn ra trong thời gian rất ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm, có thể

được diễn ra trên phậm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Nó không chỉ
đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp mà còn góp phần thúc đẩy mạnh sản xuất
trong nước nhờ tích luỹ từ khoản thu ngoại tệ cho đất nước, phát huy tính sáng
tạo của các đơn vị kinh tế thông qua cạnh tranh quốc tế. Kinh doanh xuất nhập
khẩu còn là phương tiện để khai thác các lợi thế về tự nhiên, vị trí địa lý, nhân
lực và các nguồn lực khác. Ngoài ra hoạt động xuất khẩu còn thúc đẩy quan hệ
hợp tác quốc tế giữa các nước và đẩy mạnh tiến trình hội nhập nên kinh tế toàn
cầu
2.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Từ xa xưa con người đã ý thức được lợi ích lợi ích của hoạt động trao đổi
mua bán giữa các quốc gia và đó là khởi nguồn cho các lý thuyết về xuất khẩu
Các lý thuyết về xuất khẩu
Lý thuyết của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối.
Lý thuyết này ra đời vào thế kỷ thứ 18. Theo quan điểm về lợi thế tuyệt
đối của nhà kinh tế học Adam Smith, một quốc gia chỉ sản xuất các loại hàng
hoá, mà việc sản xuất này sử dụng tốt nhất, hiệu quả nhất các tài nguyên sẵn có
của quốc gia đó. Đây là một trong những giải thích đơn giản về lợi ích của
thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Nhưng trên thực tế việc
tiến hành trao đổi phải dưa trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Nếu trong
trường hợp một quốc gia có lợi và một quốc gia khác bị thiết thì họ sẽ từ chối
tham gia vào hợp đồng trao đổi này.
Tuy nhiên, lợi thế tuyết đối của Adam Smith cũng giải thích được một
phần nào đó của việc đem lại lợi ích của xuất khẩu giữa các nước đang phát
triển. Với sự phát triển mạmh mẽ của nền kinh tế toàn cầu mầy thập kỷ vừa qua
cho thấy hoạt động xuất khẩu chủ yếu diễn ra giữa các quốc gia đang phát triển
với nhau, điều này không thể giải thích bằng lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Trong
những cố gắng để giải thích các cơ sở của thương mại quốc tế nói chung và

xuất khẩu nói riêng, lợi thế tuyệt đối chỉ còn là một trong những trường hợp
của lợi thế so sánh.
Lý thuyết lợi thế so sánh.
Theo như quan điểm của lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người Anh
David Ricardo. ông cho rằng nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với
hiệu quả của quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì
quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu để tạo ra lợi ích. Khi
tham gia vào hoạt động xuất khẩu quốc gia đó sẽ tham gia vào việc sản xuất và
xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ít bất lợi nhất (đó là
những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu những hàng hoá mà việc
sản xuất ra chúng có những bất lợi hơn ( đó là những hàng hoá không có lợi thế
tương đối).
Ông bắt đầu với việc chỉ ra những lợi ích của thương mại quốc tế do sự
chênh lệch giữa các quốc gia về chi phí cơ hội. "Chi phí cơ hội của một hàng
hoá là một số lượng các hàng hoá khác người ta phải bỏ để sản xuất hoặc kinh
doanh thêm vào một đơn vị hàng hoá nào đó"
Học thuyết Hecksher- Ohlin
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Như chúng ta đã biết lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo chỉ đề
cập đến mô hình đơn giản chỉ có hai nước và việc sản xuất hàng hoá chỉ với
một nguồn đầu vào là lao động. Vì thế mà lý thuyết của David Ricardo chưa
giải thích một cách rõ ràng về nguồn gốc cũng như là lơị ích của các hoạt động
xuất khâutrong nền kinh tế hiện đại. Để đi tiếp con đường của các nhà khoa
học đi trước hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển đã bổ sung mô hình mới
trong đó ông đã đề cập tới hai yếu tố đầu vào là vốn và lao động. Học thuyết
Hecksher- Ohlin phát biểu: Một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản
xuất ra chúng sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn của nước đó và nhập
khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng cần nhiều yếu dắt và tương đối
khan hiếm ở quốc gia đó. Hay nói một cách khác một quốc gia tương đối giàu

lao động sẽ sản xuất hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những
hàng hoá sử dụng nhiều vốn.
Về bản chất học thuyết Hecksher- Ohlin căn cứ về sự khác biệt về tình
phong phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất, là nguyên nhân dẫn đến
sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia trước khi có
các hoạt động xuất khẩu để chỉ rõ lợi ích của các hoạt động xuất khẩu. sự khác
biệt về giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất và giá cả tương đối của các
hàng hoá sau đó sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của
hàng hoá. Sự khác biệt về gíá cả tuyệt đối của hàng hoá là nguồn lợi của hoạt
động xuất khẩu.
Nói một cách khác, một quốc gia dù ở trong tình huống bất lợi vẫn có thể
tìm ra điểm có lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này các quốc
gia tập trung vào việc sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế tương
đối và nhập khẩu những mặt hàng không có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn
hoá trong sản xuất này làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình
một cách tốt nhất, giúp tiết kiệm được những nguồn lực như vốn, lao động, tài
nguyên thiên nhiên…trong quá trình sản xuất hàng hoá. Chính vì vậy trên quy
mô toàn thế giới thì tổng sản phẩm cũng sẽ tăng.
Từ những lý thuyết về xuất khẩu trên ta thấy rằng vai trò của hoạt động
xuất khẩu đã được tìm hiểu và nhận biết rất sớm bởi các nhà kinh tế học. Qua
quá trính phát triển của nền sản xuất hàng hoá những quan điểm về vai trò xuất
khẩu ngày càng hoàn thiện. Ngày nay hoạt động xuất khẩu có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế
Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế toàn cầu
- Xuất khẩu là một trong những tố tạo đà, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia.
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Theo như hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều
khẳng định và chỉ rõ để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có

bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật công nghệ. Nhưng
hầu hết các quốc gia đang phát triển (như Việt Nam ) đều thiếu vốn, kỹ thuật
công nghệ. Do vậy câu hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn và công nghệ
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo làn lạc
hậu chận phát triển. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá phải có một lượng
vốn lớn để nhập khẩu công nghệ thiết bị tiên tiến.
Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu một nước có thể sử dụng
nguồn vốn huy động chính như sau:
+ Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ
+ Thu từ các hoạt động du lịch dịch vụ thu ngoại tệ trong nước
+ Thu từ hoạt động xuất khẩu
Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận
được, song việc huy động chúng không phải rễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này,
các nước đi vay phải chịu thiệt thòi, phải chịu một số điều kiện bất lợi và sẽ
phải trả sau này.
Bởi vì vậy xuất khẩu là một hoạt động tạo một nguồn vốn rất quan trọng
nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô tốc độ
tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu. ở một số nước một trong những nguyên
nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó
họ cho nguồn vốn ở bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và
viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy
được khả năng sản xuất và xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành
hiện thực .
- Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã
và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
quốc gia từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.

Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
- Xuất khẩu là một trong những tố tạo đà, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Theo như hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều
khẳng định và chỉ rõ để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có
bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật công nghệ. Nhưng
hầu hết các quốc gia đang phát triển (như Việt Nam ) đều thiếu vốn, kỹ thuật
công nghệ. Do vậy câu hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn và công nghệ
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo làn lạc
hậu chận phát triển. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá phải có một lượng
vốn lớn để nhập khẩu công nghệ thiết bị tiên tiến.
Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu một nước có thể sử dụng
nguồn vốn huy động chính như sau:
+ Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ
+ Thu từ các hoạt động du lịch dịch vụ thu ngoại tệ trong nước
+ Thu từ hoạt động xuất khẩu
Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận
được, song việc huy động chúng không phải rễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này,
các nước đi vay phải chịu thiệt thòi, phải chịu một số điều kiện bất lợi và sẽ
phải trả sau này.
Bởi vì vậy xuất khẩu là một hoạt động tạo một nguồn vốn rất quan trọng
nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô tốc độ
tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu. ở một số nước một trong những nguyên
nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó
họ cho nguồn vốn ở bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và

viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy
được khả năng sản xuất và xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành
hiện thực .
- Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã
và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
quốc gia từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
- Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân.
Đối với công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua
việc sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu
hàng tiêu dùng đáp ứng yêu cầu ngay càng đa dạng và phong phú của nhân
dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động
qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững chắc để
xây dựng các mối quan hề kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các mối
quan hệ khác phát triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc
tế… ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt động
xuất khẩu làm cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
2.3 Các hình thức xuất khẩu hàng hóa
- Xuất khẩu trực tiếp:
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu mà trong đó, đơn
vị tham gia hoạt động xuất khẩu có thể trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng với
nước ngoài; trực tiếp giao nhận hàng và thanh toán tiền hàng. Các doanh
nghiệp tiến hành xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tự cân đối về tài chính, có
quyền tìm kiếm bạn hàng, định đoạt giá cả, lựa chọn phương thức thanh toán

và thị trường, xác định phạm vi kinh doanh nhưng trong khuôn khổ chính sách
quản lý xuất khẩu của nhà nước.
Áp dụng cho doanh nghiệp có đủ tiềm năng về tài chính, có quy mô lớn,
phát triển đủ mạnh để thành lập riêng tổ chức bán hàng của mình.
- Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức giao dịch mua bán thông thường mà quan
hệ mua bán được thiết lập thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập( trung
gian) để tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài.
Áp dụng cho các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế, và
những doanh nghiệp có khả năng tài chính hạn hẹp.
- Buôn bán đối lưu
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch của ngoại thương trong đó xuất
khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, một bên vừa đóng vai trò người bán, vừa
đóng vai trò người mua.
Áp dụng cho các bên đều thiếu ngoại tệ để thanh toán và có nhu cầu cao về
hàng hóa
- Giao dịch tái xuất
Giao dịch tái xuất là hình thức xuất khẩu những hàng hóa trước đây đã
nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất
Giao dịch tái xuất bao gồm cả nhập khẩu và xuất khẩu vì vậy nó thu hút ba
nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất, nước nhập khẩu
Áp dụng với các quốc gia có hệ thống thông tin chính xác về thị trường, giá
cả hàng hóa
- Hình thức gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hình thức giao dịch kinh doanh trong đó một bên( bên
nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm của một
bên( bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, khi đó bên đặt gia công sẽ
trả cho bên nhận gia công một khoản tiền( phí gia công)

Áp dụng chủ yếu nước đặt gia công là những nước phát triển có công nghệ
tiên tiến nhưng nguyên nhiên liệu khan hiếm. Nước nhận gia công thường là
nước đang phát triển có tài nguyên phong phú và giá nhân công rẻ
2.4 Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu nông sản sang thị
trường Hoa Kỳ
- Các yếu tố về điều kiện tự nhiên, vốn, lao động, công nghệ
Đây là yếu tố vô cùng quan trọng, ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu
và là yếu tố bên trong cấu thành nên sản phẩm. Một quốc gia có nhiều lao động
kéo theo giá nhân công rẻ, hàng hóa phong phú. Tất cả sẽ được phản ánh trong
giá hàng hóa, tạo được sự cạnh trạnh, vị thế.
Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến đầu vào của hoạt động sản xuất. Quốc
gia nào có tài nguyên phong phú thì sẽ có thế mạnh và tiềm năng để phát triển
hoạt động xuất khẩu.
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Hiện nay, có rất nhiều công nghệ tiên tiến ra đời tạo cơ hội cũng như nguy
cơ đối với tất cả các ngành công nghiệp nói chung và kinh doanh xuất nhập
khẩu nói riêng. Khoa học công nghệ tác động làm tăng hiệu quả của công tác
xuất khẩu của doanh nghiệp, thông qua tác động vào các lĩnh vực bưu chính
viễn thông, vận tải hàng hoá, công nghệ ngân hàng Ngược lại nếu quốc gia
không nắm bắt, cập nhật những công nghệ tiên tiến hiện đại áp dụng vào sản
xuất thì sẽ có nguy cơ tụt hậu. Những công nghệ tiên tiến ra đời càng đẩy
khoảng cách giữa các quốc gia đi xa hơn.
- Chính sách tỉ giá hối đoái
Tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của quốc gia này được biểu
hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ của quốc gia khác
Trong buôn bán quốc tế đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ đối với
một trong hai bên hoặc cả hai bên. Do vậy, khi đồng tiền làm phương tiện
thanh toán biến động thì lợi ích của một trong hai bên sẽ bị thiệt hại. Khi tỷ giá
hối đoái tăng làm cho giá hàng hoá xuất khẩu trở nên đắt đỏ, sức cạnh tranh

của hàng hoá đó trên thị trường thế giới bị giảm dẫn đến hoạt động xuất khẩu
bị thu hẹp.Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm , tức đồng nội tệ giảm so với
đồng ngoại tệ thì sẽ tăng hoạt động xuất khẩu.
- Hạn ngạch và những tiêu chuẩn kĩ thuật
Hạn ngạch là qui định của nhà nước về lượng hàng hóa tối đa được phép
xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với một thị trường cụ thể trong một thời gian
nhất định thường là 1 năm. Hạn ngạch thường dùng để tránh tình trạng cung
vượt quá cầu gây thiệt hại cho nhà sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Được áp
dụng với các hàng hóa xuất khẩu có nguồn gốc tài nguyên thiên nhiên có nguy
cơ bị cạn kiệt hoặc gây ô nhiễm môi trường.
Xuất phát từ các nhu cầu thực tế của đời sống, nhu cầu về vệ sinh an toàn,
chất lượng…Một loạt các hệ thống tiêu chuẩn được đưa ra bao gồm các qui
định về bao bì, đóng gói vệ sinh an toàn thực phẩm,vệ sinh phòng dịch bệnh…
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu vì hàng hóa muốn
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
xâm nhập vào thị trường phải đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn của nước nhập
khẩu và các mức tiêu chuẩn của mỗi quốc gia là khác nhau.
- Các yếu tố về thế chế chính trị-kinh tế- xã hội
Chính trị có ổn định thì mới tạo đà cho kinh tế phát triển. Yếu tố này là
nhân tố khuyến khích hoặc thúc đẩy quá trình xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Môi trường chính trị ổn định tạo tâm lý yên tâm, tin tưởng sản xuất kinh doanh
từ đó thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Mỗi quốc gia có hệ thống luật pháp riêng
để điều chỉnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của nước mình, do vậy
phải có sự hiểu biết nhất định về những yếu tố này để tạo hành lang pháp lý an
toàn cho hoạt động xuất khẩu
Quốc gia xuất khẩu chỉ có thể thành công trên thị trường quốc tế khi có sự
hiểu biết nhất định về phong tục, tập quán, thị hiếu, thói quen mà điều này lại
có sự khác biệt ở mỗi quốc gia. Do vậy hiểu biết về môi trường văn hoá sẽ giúp
ích trong việc quốc gia thích ứng được với thị trường để từ đó có chiến lược

đúng đắn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu của mình
Chương II. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ
1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói
chung
Với nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên nhân lực cùng với truyền thống,
kinh nghiệm làm nông nghiệp, hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của
Việt Nam đã có những bước phát triển lớn như mở rộng thị trường ra khoảng
50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung
Quốc, Đông Âu, các nước ASEAN với mức tăng trưởng về kim ngạch cũng
như mặt hàng xuất khẩu ra thị thị trường thế giới. Trong tỷ trọng hàng hóa xuất
nhập khẩu của Việt Nam ra thị trường thế giới thì xuất khẩu hàng nông sản vẫn
chiếm một tỷ trọng lớn, thể hiện được tầm quan trọng của ngành sản xuất và
xuất khẩu nông sản đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
1.1 Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
a. Giai đoạn từ năm 1996 tới năm 2000
Giai đoạn này, hàng nông sản xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Thời kỳ 1995 -
2000 kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản bình quân chiếm khoảng 70% và
hàng thủy sản chiếm khoảng 25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm,
thủy sản. Trong đó, xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 23,8%),
thứ hai là cà phê (13,5%), tiếp đến hạt điều (4,4%) và cao su (3,2%), còn rau
quả thì chiếm tỷ trọng rất nhỏ (chỉ từ 0,5 đến 1,4%), chưa tương xứng với
tiềm năng của ngành. Nhưng nếu xét về tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu
thì rau đứng thứ nhất, kim ngạch năm 1998 mới chỉ đạt được 53,4 triệu USD
thì năm 1999 đã là 104,9 triệu USD và năm 2000 là 204,5 triệu USD, tăng
gần gấp 2 lần so với năm 1999.
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50

GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Bảng 1.1. Kim ngạch xuất khẩu nông sản giai đoạn 1996 - 2000
Đơn vị: Nghìn Tấn
Triệu USD
1996 1997 1998 1999 2000
Gạo
Sản lượng 3.234,5 3.575 3.748,8 4.508,2 3.476,7
Giá trị 854,63 875,56 1024 1025,1 667,35
Cà phê
Sản lượng 283,7 391,6 381,8 482,46 733,94
Giá trị 400,26 493,71 593,8 585,3 501,45
Chè
Sản lượng 20,8 32,9 33,21 36,44 55,66
Giá trị 29 48,81 50,5 45,15 69,61
Hạt tiêu
Sản lượng 25,33 24,7 15,1 34,78 37
Giá trị 46,75 67,23 64,5 137,26 145,93
Hạt điều
Sản lượng 16,6 33,3 25,2 18,39 34,2
Giá trị 75,6 133,33 116,95 109,75 167,32
Lạc nhân
Sản lượng 127,14 86,4 86,8 55,54 76,25
Giá trị 69,96 46,3 42,1 32,75 41,04
Rau quả Giá trị 90,2 71,2 53,4 104,9 204,56
Cao su
Sản lượng 194,5 194,2 191 265,33 273,4
Giá trị 262,23 90,85 127,5 146,84 166,02
(Nguồn: Vụ Kế hoạch và Quy hoạch - Bộ Phát triển Nông nghiệp và Nông
thôn)
Trong giai đoạn này, giá cả của thị trường thế giới luôn luôn biến động,

gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của nước ta. Khối lượng
nông sản xuất khẩu giai đoạn này tuy có tăng lên qua các năm nhưng giá trị
kim ngạch xuất khẩu lại không tăng lên tương xứng. Có những mặt hàng có sự
gia tăng về sản lượng xuất khẩu nhưng do giá bán thấp nên kim ngạch xuất
khẩu lại giảm xuống như cà phê năm 1998 có sản lượng xuất khẩu là 381,8
nghìn tấn, năm 1999 sản lượng tăng lên là 482,46 nghìn tấn và năm 2000 là
733,94 nghìn tấn nhưng do giá giảm nên giá trị xuất khẩu lại giảm từ 593,8
triệu USD năm 1998 xuống còn 585,3 triệu USD năm 1999 và 501,45 triệu
USD năm 2000; năm 1999 gạo của ta xuất khẩu được 4,5 triệu tấn tức là tăng
khoảng 20% so với năm 1998, nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng lên khoảng
0,1%, từ 1024 triệu USD lên 1025,1 triệu USD. Đặc biệt trong năm 2000, giá
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
cà phê và gạo của thế giới giảm mạnh làm cho giá bán cà phê thấp hơn giá
thành sản xuất, giá bán lúa bằng với giá thành sản xuất. Có nhiều nguyên nhân
khiến giá bán nông sản Việt Nam thấp hơn so với các quốc gia khác như chất
lượng chưa đạt yêu cầu nên bị ép giá, các hạn chế về bảo quản, chế biến, chủng
loại sản phẩm. Ví dụ như giá gạo 5% tấm của Việt Nam theo giá FOB luôn
thấp hơn so với giá FOB quốc tế như năm năm 1996 giá FOB Bangkok là 362
USD/tấn nhưng giá của Việt Nam chỉ là 342 USD/tấn, sang năm 1997 là 364
USD/tấn và 345 USD/tấn (Nguồn: Bộ Thương mại và FAO Facsimile
Tranmision 1999). Hay như giá cà phê của Việt Nam cũng luôn thấp hơn giá
thị trường quốc tế do loại cà phê Việt Nam sản xuất và xuất khẩu là loại
Robusta, là loại cà phê có giá thấp hơn so với Arabica là loại cà phê được thị
trường thế giới ưa chuộng.
b. Giai đoạn từ năm 2001 tới nay
Giai đoạn này Việt Nam được đánh giá là nhà xuất khẩu hàng đầu về gạo, cà
phê, cao su, hạt tiêu… với sản lượng và giá trị của các mặt hàng này đều có
sự tăng trưởng so với thời kỳ trước. Đặc biêt, công nghiệp chế biến nông sản
của Việt Nam giai đoạn này đã có những bước phát triển vượt bậc, nhiều nhà

máy đã trang bị các dây chuyền công nghệ hiện đại giúp tăng sức cạnh tranh
của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Bảng 1.2. Kim ngạch xuất khẩu nông sản trong giai đoạn 2001 - 2008
Đơn vị: Nghìn Tấn /Triệu USD
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Gạo
Sản
lượng
3.729 3.240 3.813 4.087 5.251 4.643 4.558 4.742
Giá trị 624,7 725,5 720,5 950,4 1.407 1.275 1.911 2.894

phê
Sản
lượng
931,2 718,6 749,2 974,7 892,4 980,9 1.229 1.059
Giá trị 391,3 322,3 504,8 641 735,5 1.217 1.911 2.111
Chè
Sản
lượng
68,22 74,81 59,8 99,35 87,92 105,6 114,4 104,5
Giá trị 78,40 82,52 59,85 95,55 96,93 110,4 130,8 146,9
Hạt
tiêu
Sản
lượng
57,02 76,61 74,12 111,7 108,9 116,7 - -
Giá trị 91,24 107,2 104,9 154,4 150,5 190,4 271 311,2
Hạt

điều
Giá trị 151,7 208,9 284,5 435,9 501,5 503,8 653,9 911
Lạc
nhân
Sản
lượng
78,16 105,1 82,71 44,85 54,51 14,24 36,75 14,29
Giá trị 38,15 50,8 47,97 27,06 32,93 10,47 30,84 13,56
Rau
quả
Giá trị 329,9 201,2 151,47 178,8 235,5 259,1 305,6 407
Cao
su
Sản
lượng
308,1 448,6 433,1 513,2 587,1 707,9 714,9 658,3
Giá trị 165,9 267,8 377,9 596,9 804,1 1.286 1.393 1.603
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Năm 2005, xuất khẩu cà phê và hạt tiêu của Việt Nam đã đứng thứ
nhất trên thị trường thế giới với sản lượng xuất khẩu của cà phê là 892,4
nghìn tấn, chiếm khoảng từ 9 đến 13% thị phần thế giới và hạt tiêu là 108,9
nghìn tấn, chiếm tới 50% thị phần thế giới. Đứng thứ hai là gạo và hạt điều,
với sản lượng xuất khẩu gạo khoảng 5 triệu tấn, chiếm 16% thị phần thế giới
và sản lượng hạt điều là 108,9 nghìn tấn, chiếm 28% thị phần thế giới. Đến
năm 2009 thì hạt điều của Việt Nam đã chiếm 37% thị phần thế giới.
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Ngoài ra, các sản phẩm nông sản khác như cao su, rau quả, chè, cũng
có tốc độ tăng trưởng cao, mang về kim ngạch xuất khẩu lớn. Thời gian gần
đây các mặt hàng gạo, cà phê, chè, hạt điều, rau quả, hạt tiêu, cao su đã trở

thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong đó có các mặt hàng
đã đạt được kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD như gạo với kim ngạch năm
2005 là 1,4 tỷ USD, năm 2008 đã là 2,8 tỷ USD; cà phê với kim ngạch năm
2006 là 1,2 tỷ USD, sang năm 2008 là 2,1 tỷ USD và cao su có kim ngạch năm
2008 là 1,6 tỷ USD.
Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay thì nền công
nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam vẫn còn có nhiều hạn chế như các cơ
sở chế biến thường mang tính tự phát với quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, lao
động có trình độ thấp, đã khiến cho tỷ lệ sản phẩm làm ra đạt tiêu chuẩn quốc
tế chỉ chiếm khoảng 1% đến 5% tổng sản lượng. Điều đó cũng gây ảnh hưởng
lớn tới khả năng cạnh tranh cũng như tiềm năng phát triển của hoạt động xuất
khẩu nông sản, ví dụ như gạo của Việt Nam, tuy đứng thứ hai thế giới về sản
lượng xuất khẩu, chỉ sau Thái Lan nhưng theo nghiên cứu của Viện cơ điện
Nông nghiệp thì phải 15 đến 20 năm nữa chúng ta mới có thể theo đạt được
trình độ công nghệ của Thái Lan hiện nay. Cũng do thiếu công nghệ nên hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng thô hoặc sơ chế vì vậy sẽ
làm cho giá bán của sản phẩm thấp, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cao
của thị trường thế giới.
Không chỉ bị ảnh hưởng bởi công nghệ sản xuất, bảo quản mà hàng nông
sản của Việt Nam còn chịu tác động của giá cả nông sản thế giới. Năm 2008,
2009 thế giới rơi vào khủng hoảng kinh tế, nhu cầu tiêu dùng cũng như nhu cầu
nhập khẩu của các quốc gia giảm xuống làm ảnh hưởng tới khả năng xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam nói chung, hàng nông sản nói riêng. Bị tác động bởi
khủng hoảng, năm 2008, sản lượng chè, cà phê, cao su xuất khẩu của Việt Nam
đều giảm xuống so với năm 2007 và tới năm 2009 thì do khủng hoảng và việc
các quốc gia đều được mùa nên đã làm giá nông sản của Việt Nam giảm
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
xuống, khiến cho kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản giảm mạnh. Đối
với mặt hàng cà phê, là một trong các mặt hàng chủ lực của xuất khẩu nông sản

Việt Nam thì thời gian gần đây đang gặp rất nhiều khó khăn, chỉ tính riêng năm
2009 và những tháng đầu năm 2010 thì cà phê xuất khẩu của Việt Nam giảm cả
về sản lượng lẫn giá trị. Giai đoạn này được gọi là “báo động đỏ” đối với
ngành cà phê do giá xuất khẩu cà phê hiện nay đang xuống rất nhanh, từ tháng
10 năm 2009 đến tháng 2 năm 2010, ngành cà phê đã xuất 450 nghìn tấn cà phê
nhân, chỉ giảm 20% về sản lượng so với cùng kì năm trước nhưng về giá lại
giảm đến gần 40%.
Nhưng sang đến những tháng đầu năm 2010 thì một số mặt hàng nông
sản đã có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng về xuất khẩu như hạt tiêu, tính đến
tháng 3 năm 2010 nước ta xuất khẩu được 9 nghìn tấn hạt tiêu, đạt kim ngạch
là 23 triệu USD, lượng tiêu xuất khẩu cả quý 1 năm 2010 đạt 23 nghìn tấn, kim
ngạch gần 66 triệu USD, tăng 1,54% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước,
hay như trong 2 tháng đầu năm 2010 thì kim ngạch xuất khẩu chè đã tăng 33%,
sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 21,5%, cao su tăng 64,8%, sản phẩm từ cao su
tăng 78,6% so với cùng kỳ năm 2009 do giá của các sản phẩm nông sản xuất
khẩu đã tăng lên, như hạt tiêu tăng 17%, gạo tăng 24%, cao su tăng 86%, sắn
và sản phẩm từ sắn tăng 92%.
1.2 Mặt hàng xuất khẩu
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là gạo, cà phê, hạt tiêu,
hạt điều, cao su, chè. Trong đó thì mặt hàng điều và hạt tiêu đang là mặt hàng
có sức phát triển mạnh trong sản xuất và xuất khẩu nông sản Việt Nam. Theo
Hiệp hội điều Việt Nam (Vinacas) thì năm 2008 Việt Nam đã leo lên vị trí số 1
thế giới về xuất khẩu điều nhân và sang năm 2009 Việt Nam vẫn duy trì được
vị trí số 1 này. Hạt điều của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang Hoa Kỳ
với 30% sản lượng, thứ hai là Trung Quốc với 20% sản lượng, châu Âu với
20%, còn lại là xuất khẩu sang thị trường Nga, các nước Trung Đông, Nhật
Bản. Hạt tiêu của Việt Nam cũng đang đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
khẩu, trong 24 thị trường xuất khẩu hạt tiêu chính của Việt Nam thì hiện nay

Hoa Kỳ và Đức là 2 thị trường chiếm kim ngạch cao với kim ngạch xuất khẩu
hạt tiêu sang Hoa Kỳ tháng 1 năm 2010 đạt gần 3,8 triệu USD, chiếm 16,1%
tổng kim ngạch và Đức nhập khẩu 3,51 triệu USD, chiếm 14,97% tổng kim
ngạch, tiếp theo là 2 thị trường Ấn Độ và Hà Lan cũng đạt kim ngạch cao trên
1 triệu USD. Xếp sau hạt điều và hạt tiêu là mặt hàng gạo và cà phê hiện đang
đứng thứ hai thế giới. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam chỉ sau Brazil với sản
lượng của niên vụ 2008 - 2009 chiếm tới 14,4% tổng sản lượng cà phê toàn
cầu. Theo Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam thì năng suất cà phê hàng năm của
Việt Nam ổn định ở mức 1 triệu tấn/500 nghìn ha và nước ta hiện có khoảng
1,24 triệu ha cà phê. Xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng đứng thứ 2 thế giới, chỉ
sau Thái Lan và sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm khoảng 15% tới
16% thị phần gạo thế giới. Hiện nay thì giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp
hơn nhiều so với giá gạo của Thái Lan nên gạo của Việt Nam có khả năng cạnh
tranh cao đối với gạo Thái Lan. Theo Tổ chức Nông - Lương Liên hiệp quốc
(Food and Agriculture Organization, viết tắt là FAO), xuất khẩu gạo của Việt
Nam đang rất thuận lợi nhờ trúng mùa, giá cả giảm và kho dự trữ dồi dào. Với
mặt hàng cao su thì hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu cao su lớn thứ 4 thế
giới, đứng sau Thái Lan, Indonesia và Malaysia. 70% lượng cao su xuất khẩu
của nước ta là sang Trung Quốc, các thị trường xuất khẩu quan trọng khác bao
gồm Malaysia, Singapore, Hàn Quốc, Nga, Đài Loan, Mỹ, Nhật và EU. Chè
cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và hiện xuất khẩu chè của
Việt Nam đang đứng thứ 5 thế giới, trong đó chủ yếu là chè đen, chiếm tới
80% lượng chè xuất khẩu. Các quốc gia nhập khẩu chè của Việt Nam đó là Đài
Loan, đứng đầu với 17% sản lượng xuất khẩu của Việt Nam, tiếp đến là
Nga, Irắc, Pakistan, Đức và Singapore.
Bên cạnh đó các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam ngày càng
đa dạng với sản lượng và giá trị xuất khẩu thường tăng lên năm sau cao hơn
năm trước như rau quả, lạc nhân, sắn và các sản phẩm từ sắn, quế, Trong đó
phải kể đến rau quả với những lợi thế về điều kiện tự nhiên và con người, hoạt
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50

GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
động sản xuất và xuất khẩu rau quả của Việt Nam những năm qua đã có những
thành tựu đáng kể với giá trị xuất khẩu tăng lên nhanh chóng, năm 2007 mới
chỉ xuất khẩu 305,6 triệu USD, sang tới năm 2008 là 407 triệu USD, tăng
33,18%. Ngoài ra các mặt hàng như lạc, quế cũng đang có sự tiến bộ qua các
năm và vừa qua chúng ta đã xuất khẩu được thêm nhiều loại mặt hàng mới như
thanh long, nhãn, chôm chôm, vải,

2.Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Hoa
Kỳ
Hoa Kỳ là một thị trường rộng lớn với dân số khoảng 300 triệu người
lại có thu nhập đầu người rất cao đang là một thị trường đầy tiềm năng với
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của hàng nông sản nói riêng.
Kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ với nhau, Việt Nam luôn nỗ lực
phát triển hoạt động ngoại giao và xúc tiến xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ.
Hoạt động xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ của Việt Nam trong những năm
gần đây tăng lên rất nhanh cả về mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu. Hoa Kỳ
đang dần trở thành quốc gia bạn hàng số 1 của Việt Nam với tổng kim ngạch
nhập khẩu từ Việt Nam năm 2009 là 11,4 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu nông
sản sang Hoa Kỳ cũng đang đươc các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm và
phát triển.
1.1 Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu
a. Trước khi thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Sau khi Việt Nam giải phóng năm 1975, Hoa Kỳ đã chấm dứt quan hệ
buôn bán với Việt Nam, cấm vận về kinh tế cũng như các lĩnh vực khác với
Việt Nam. Đến năm 1993, khi tổng thống Bill Clinton tuyên bố thực hiện
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và tới ngày 3 tháng 2 năm 1994 thì
Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ cấm vận Việt Nam và tháng 4 năm 1996, Hoa Kỳ
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế

trao cho Việt Nam bản yếu tố bình thường hóa quan hệ kinh tế - thương
mại với Việt Nam thì mối quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ xuất nhập
khẩu nói riêng giữa hai quốc gia mới bắt đầu phát triển.Giai đoạn đầu của
quan hệ thương mại, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ
yếu là nông sản và nguyên liệu thô do Việt Nam có nhiều tài nguyên thiên
nhiên lại có thể huy động được các nguồn lực có sẵn như nhân công, đất
đai, Trong đó, nông sản là một trong năm nhóm hàng có kim ngạch xuất
khẩu lớn nhất vào thị trường Hoa Kỳ, bên cạnh dệt may, đồ gỗ, thủy sản và
giày dép.Chúng ta có thể thấy rõ điều đó thông qua bảng số liệu dưới đây về
kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 1996 - 2000.
Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 1996 - 2000
Đơn vị: Tấn
Triệu
USD
1996 1997 1998 1999 2000
Gạo
Sản lượng 356.940 304.760 153.930 22.340 61.040
Giá trị 100,24 63,5 39,03 4,95 10,66
Cà phê
Sản lượng 24.106 55.699 56.265 51.810 52.176
Giá trị 32,51 75,23 86,31 59,21 69,93
Chè
Sản lượng 91 63 11 658 452
Giá trị 0,05 0,09 0,01 0,57 0,37
Hạt tiêu
Sản lượng - - - 2102 1063
Giá trị - - - 9,02 7,08
Hạt điều
Sản lượng 2.776 3.422 3.738 3.635 9.389
Giá trị 12,49 14,65 16,74 21,18 44,70

Lạc nhân
Sản lượng - - - - 36
Giá trị - - - - 0,02
Rau quả Giá trị 1,23 5,30 2,56 3,21 2,18
(Nguồn: Vụ kế hoạch và Quy hoạch - Bộ Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn)
Cà phê là mặt hàng giữ vị trí số một về xuất khẩu của Việt Nam sang
Hoa Kỳ và là một trong năm mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam trong giai đoạn 1995 - 1999. Do Hoa Kỳ hoàn toàn miễn thuế nhập khẩu
và không phân biệt đối xử với sản phẩm cà phê nhập khẩu nên Việt Nam đã
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
tăng cường xuất khẩu mặt hàng này sang Hoa Kỳ. Trong hai năm 1994, 1995 là
hai năm sau khi bỏ cấm vận thì cà phê xuất khẩu của Việt Nam có tỷ trọng về
giá trị trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng rất cao, năm
1994 là 59,4% và sang năm 1995 đã là 72,97%. Các năm sau tuy tỷ trọng có
giảm do giá giảm nhưng cà phê vẫn là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam thời kỳ này. Tuy nhiên cà phê của Việt Nam lại chịu ảnh
hưởng rất lớn từ giá cà phê thế giới cộng thêm những tác động của điều kiện tự
nhiên khiến cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tuy có tăng lên nhưng lại
không đồng đều, năm 1996 lượng cà phê xuất khẩu được là 24.106 tấn, đem về
cho Việt Nam 32,51 triệu USD, sang năm 1997 là 55.699 tấn đem về 75,23
triệu USD, năm 1998 tiếp tục tăng lên 56.265 tấn và 86,31 triệu USD nhưng
đến năm 1999 và 2000 thì sản lượng lại giảm xuống còn 51.810 tấn và 52.176
tấn tương ứng với giá trị xuất khẩu là 59,21 và 69,93 triệu USD. Thêm vào đó
giai đoạn này Việt Nam sản xuất và xuất khẩu loại cà phê Robusta, không được
ưa chuộng và giá bán thấp nên sự tăng lên về giá trị xuất khẩu của cà phê của
Việt Nam còn thấp so với sự tăng lên về sản lượng xuất khẩu.
Mặt hàng nông sản chủ lực thứ hai mà Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ
giai đoạn này là hạt điều. Sản lượng và giá trị xuất khẩu của hạt điều Việt Nam
sang Hoa Kỳ tăng đều qua các năm và đặc biệt tăng nhanh trong năm 2000. Từ

năm 1996 tới năm 2000, sản lượng điều xuất khẩu đã tăng từ 2.776 tấn lên
9.389 tấn với giá trị xuất khẩu tăng từ 12,49 triệu USD lên đến 44,7 triệu USD,
như vậy là tăng lên gấp 3,5 lần chỉ trong vòng 4 năm
Gạo cũng là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn trong giai đoạn này.
Hoa Kỳ là một trong những nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới do gạo Hoa
Kỳ nhập về không chỉ phục vụ tiêu dùng mà còn phục vụ nhu cầu tái xuất, đảm
bảo nguồn hàng để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu của Hoa Kỳ. Ngoài ra
nhiều khách hàng Hoa Kỳ cũng mua gạo Việt Nam để xuất khẩu sang châu Phi
theo các chương trình viện trợ của chính phủ Hoa Kỳ. Mức thuế đối với gạo
nhập khẩu của Việt Nam thấp và thị trường Hoa Kỳ rộng mở đối với Việt Nam.
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Nhưng do gạo Việt Nam có chất lượng chưa cao, không đảm bảo được các yêu
cầu của thị trường Hoa Kỳ nên sản lượng và giá trị xuất khẩu của gạo bị giảm
đi, đặc biệt là vào năm 1999, Việt Nam chỉ xuất khẩu được 22.340 tấn gạo với
giá trị xuất khẩu là 4,95 triệu USD, thấp hơn hẳn so với năm 1998, chúng ta
xuất khẩu được 153.930 tấn với giá trị là 39,03 triệu USD.
Ngoài ra còn có những mặt hàng nông sản khác cũng được xuất khẩu
nhiều sang Hoa Kỳ. Có thể kể đến đó là chè, hạt tiêu và một số mặt hàng gia vị
khác. Đối với hạt tiêu hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu một số lượng lớn hạt tiêu
chưa xay và đã xay. Tuy hạt tiêu thâm nhập vào Hoa Kỳ chậm hơn cà phê
nhưng tốc độ tăng về kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này lại rất cao và
trong tương lai còn tăng nhanh hơn nữa vì các quốc gia đứng trên Việt Nam
về xuất khẩu hạt tiêu như Trung Quốc hay Tây Ban Nha lại không có nguồn
hạt tiêu nhiều như Việt Nam. Mặt hàng chè và gia vị khác cũng đang dần dần
thâm nhập thị trường Hoa Kỳ với lợi thế là có nhiều người gốc châu Á sinh
sống tại thị trường Hoa Kỳ nên có nhu cầu lớn về sử dụng chè, gia vị vốn là
những sản phẩm truyền thống được sử dụng trong cuộc sống của người châu
Á.
Bên cạnh các mặt hàng có sự kim ngạch xuất khẩu lớn thì cũng có những

mặt hàng phải chịu thuế cao như rau quả nên việc xuất khẩu sang Hoa Kỳ còn
gặp nhiều khó khăn. Mặt hàng này bước đầu được thị trường Hoa Kỳ chấp
nhận nhưng giá rau quả của Việt Nam còn cao do chưa được hưởng MFN và
thêm một nguyên nhân nữa là rau quả nhập khẩu vào Hoa Kỳ đòi hỏi phải là
rau sạch, chất lượng cao, là một điều kiện mà rau quả xuất khẩu của Việt Nam
chưa đáp ứng được. Việt Nam còn thiếu những nhà máy chế biến rau quả hiện
đại đạt tiêu chuẩn quốc tế, hiệu quả sản xuất, chế biến rau quả cho xuất khẩu
còn thấp bởi vậy đây là một trong những mặt hàng có tỷ trọng thấp trong kim
ngạch.
b. Sau khi thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Vào ngày 13 tháng 7 năm 2000, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký Hiệp
định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tại Washington và Hiệp định này bắt
đầu có hiệu lực từ ngày 10 tháng 12 năm 2001, đánh dấu một bước tiến
quan trọng trong quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai quốc gia. Kể từ sau
khi Hiệp định có hiệu lực, thương mại giữa hai quốc gia đã có những bước
tiến đáng kể, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ đã có những thành tựu lớn, thậm chí Việt Nam đã trở thành nước
xuất siêu trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ và hiện nay Hoa Kỳ là một
trong các quốc gia nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam. Và nằm
trong các nhóm hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ thì nhóm hàng nông sản cũng
có những thành công đáng kể trong sản xuất, xuất khẩu.
Bảng 2.2. . Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 2001 - 2009
Đơn vị: Nghìn Tấn
Triệu USD
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Gạo
Lượng 46,3 21,6 - 0,89 - 1,04 1,32 2,62 -
Giá trị 7,15 5,69 - 0,24 - 0,4 0,52 1,61 -


phê
Lượng 147,1 90,1 109,4 135,4 117,7 130,9 134,9 106,4 128,1
Giá trị
60,0
1
39,5 73,1 88,8 97,5 166,4 212,7
210,
8
196,7
Chè
Lượng 1,03 2,25 1,33 2,49 1,26 2,09 3,63 3,76 5,35
Giá trị 0.79 1,74 1,04 1,61 1,03 1,58 2,43 3,02 5,73
Hạt
tiêu
Lượng 3,18 11,2 10,6 18,8 19,8 17,7 6,74 13,57 14,8
Giá trị 5,41 16,8 15,9 27,3 29,03
30,0
5
20,74 46,6 43,6
Lạc
nhân
Lượng - - -
0,01
4
- - - - -
Giá trị - - -
0,01
7
- - - - -

Rau
quả
Giá trị 1,97 5,94 8,07 14,9 13,16 18,4 20,3 19,45 21,68
Hạt
điều
Lượng 12,9 20,9 29,1 44,1 34,9 41,6 51,9 48,6 53,2
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50
GVHD : PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế
Giá trị 44,1 71,5 99,8 177,8 156,9 166,8 227,8 267,7 155,2
Cao
su
Lượng 3,94 16,48 12,25 16,06 19,21 17,36 22,83 20,17 18,74
Giá trị 2,13 10,11
10,8
4
16,89 24,75
27,8
8
39,12 43,34 28,52
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Hoa Kỳ hiện là một trong những nước nhập khẩu cà phê Việt Nam lớn
nhất thế giới, với kim ngạch nhập khẩu năm 2009 là 196,7 triệu USD, đứng thứ
hai trong các nước nhập khẩu cà phê của Việt Nam chiếm 11,36% tổng kim
ngạch cà phê của Việt Nam xuất khẩu, chỉ sau Đức với 11,66% kim ngạch. Có
thể thấy Hoa Kỳ là một thị trường lớn cho ngành cà phê Việt Nam khai thác, số
lượng cà phê một người dân Hoa Kỳ tiêu dùng một năm có thể từ 4 tới 5 kg,
tương đương với khoảng 2 cốc/ngày. Biết được đặc điểm đó, các doanh nghiệp
kinh doanh cà phê đã coi thị trường Hoa Kỳ là một thị trường trọng điểm, đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu cà phê sang thị trường Hoa Kỳ, điển hình là năm
2001 sản lượng cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng đột biến so

với năm 2000, từ 52,176 nghìn tấn tăng lên 147,1 nghìn tấn và mặc dù bị giảm
xuống 90,1 nghìn tấn vào năm 2002 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng thừa
trên thế giới nhưng đến năm 2003 lại tăng lên 109,4 nghìn tấn. Tuy nhiên kim
ngạch cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ 2 năm gần đây lại đang có
dấu hiệu khó khăn khi năm 2009 đã có sự sụt giảm so với kim ngạch năm 2008
là 210,8 triệu USD, một phần là do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu làm giảm nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng như rắc rối của hệ thống
ngân hàng làm hạn chế khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp nhập khẩu
hàng hóa từ Việt Nam, nhiều đối tác ở Hoa Kỳ đã không mở được LC, và một
phần là do giá cà phê năm 2009 giảm 32% so với năm 2008. Và tới những
tháng đầu năm 2010 thì kim ngạch cà phê vẫn đang có xu hướng giảm xuống.
Đứng ngay sau hạt tiêu về kim ngạch xuất khẩu là hạt điều. Năm 2009,
Hoa Kỳ là nước đứng thứ hai về nhập khẩu hạt điều Việt Nam, chỉ sau Trung
Quốc. Kim ngạch của hạt điều xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng mạnh khi năm
SV: KHổng Thị Kim Nghĩa Lớp : TMQT50

×