Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân Hàng Nam Á, chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.63 KB, 79 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT
NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP
KHẨU CỦA NGÂN HÀNG NAM Á, CHI NHÁNH HÀ NỘI 30
Khi L/C đến hạn ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thanh toán
L/C với nước ngoài. Mức cho vay bằng chênh lệch giữa số tiền thực tế
thanh toán với nước ngoài trừ đi số tiền kỹ quỹ. Khách hàng phải ký vào
giấy nhận nợ để hạch toán vào tài khoản cho vay thích hợp 44
Nguồn : Báo cáo Tổng kết hoạt động tín dụng
xuất nhập khẩu giai đoạn 2009-2011 46
Năm 2009 doanh số cho vay xuất nhập khẩu của Ngân hàng Nam Á chỉ đạt
67955 triệu đồng , đến năm 2010 đã đạt 87748 triệu đồng và năm 2001
doanh số cho vay xuất nhập khẩu đã đạt 163868 triệu đồng tăng 76120
triêụ đồng so với năm 2010 46
Dư nợ cho vay xuất nhập khẩu 46
Bảng 2.6: Dư nợ cho vay xuất nhập khẩu giai đoạn 2009-2011 46
Năm 47
Dư nợ cho vay 47
Tăng so với năm trước 47
2009 47
57311 47
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
47
2010 47


86336 47
50,64 47
2011 47
160673 47
86,10 47
Nguồn : Báo cáo Tổng kết hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
giai đoạn 2009-2011 47
Dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu năm 2009 đạt 57.311 triệu đồng , năm
2010 đạt 86.336 triệu đồng , năm 2011 là năm hoạt động tín dụng xuất
nhập khẩu của Ngân hàng Nam Á Hà Nội đạt dư nợ cao nhất là 160.673
triệu đồng , gấp 2.8 lần năm 2009 và 1.8 lần năm 2010. Điều này cho thấy
theo thời gian hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Nam Á
Hà Nội càng tăng trưởng và khả năng đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu ngày càng cao. 47
Tỉ trọng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu trong tổng dư nợ: 47
Tỷ trọng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu trong tổng dư nợ tuy chưa cao ,
tuy nhiên tỷ lệ này được tăng dần qua các năm : 25,89% năm 2009 ; 31,6 %
năm 2010 và năm 2011 là 34.7% chứng tỏ vai trò của tín dụng xuất nhập
khẩu trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nam Á ngày càng quan
trọng . 47
- Về cơ cấu tín dụng theo thời hạn : Năm 2009 tín dụng xuất nhập khẩu
ngắn hạn là 24.643 triệu đồng chiếm 43% tổng dư nợ tín dụng xuất nhập
khẩu , Năm 2010 dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu ngắn hạn là 47489 triệu
đồng chiếm 55% tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu , Năm 2011 tỷ trọng
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
này là 60% điều này thể hiện Ngân hàng Nam Á có thể mở rộng và đáp
ứng các khoản tín dụng cho những món vay có thời hạn ngắn cũng như dài
hạn cho xuất nhập khẩu . Đồng thời ta thấy các khoản tín dụng xuất nhập

khẩu ngắn hạn có xu hướng tăng lên so với tín dụng xuất nhập khẩu trung
và dài hạn , cũng có nghĩa là nhu cầu về tín dụng ngắn hạn của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu là rất lớn . Đây là lợi thế mà chi nhánh cần quan tâm
khai thác . 47
- Tình hình nợ quá hạn xuất nhập khẩu (XNK) của Ngân Hàng Nam Á Hà
Nội 48
Chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng được phản ánh khá rõ ở
tình hình nợ quá hạn. Do vậy, sẽ là thiếu sót khi ta xem xét chất lượng của
các khoản tín dụng xuất nhập khẩu mà không chú ý đến nợ quá hạn của
ngân hàng 48
Tỷ lệ này của Ngân hàng Nam Á giao động ở con số 3%. Đây có thể xem
là một thành tựu của ngân hàng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của
Ngân hàng Nam Á đã được hạ thấp các năm từ 2009-2011. Năm 2009 tỷ lệ
nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu là 3,6%, năm 2010 giảm xuống còn
3,2% và đến năm 2011 là 2,7%. Những con số này phản ánh nỗ lực rất lớn
của Ngân hàng Nam Á trong việc nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập
khẩu. Tỷ lệ nợ quá hạn xuất nhập khẩu được duy trì tương đối ổn định và ở
mức có thể chấp nhận được 48
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
LỜI NÓI ĐẦU
Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển kinh tế thì không chỉ dựa vào sản
xuất trong nước mà còn giao dịch, quan hệ với các nước ngoài. Do khác
nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu … nếu chỉ dựa vào nền
sản xuất trong nước thì không thể cung cấp đủ những hàng hóa, dịch vụ
đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng của nền kinh tế mà phải nhập những
mặt hàng cần thiết như nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị, hàng tiêu
dùng thiết yếu mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất được
nhưng giá cả cao hơn. Ngược lại, trên cơ sở tiềm năng và những lợi thế

kinh tế vốn có, nền kinh tế ngoài việc phục vụ nhu cầu trong nước, còn có
thể tạo nên những thặng dư có thể xuất khẩu sang các nước khác, tăng
ngoại tệ cho đất nước để nhập khẩu các thứ còn thiếu và để trả nợ. Như
vậy, do yêu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao đổi giao dịch
hàng hóa giữa các nước với nhau, hay nói cách khác, hoạt động xuất nhập
khẩu là yêu cầu khách quan trong nền kinh tế.
Nhiều năm trước đây, hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam chưa
phát triển đúng với khả năng và phát huy tốt vai trò của nó đối với sự phát triển
kinh tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế này, một trong những nguyên
nhân đó là chúng ta thiếu những nguồn vốn tài trợ cho hoạt động xuất nhập
khẩu trong đó đặc biệt phải kể đến là nguồn tín dụng ngân hàng.
Dưới góc độ của một Ngân hàng thương mại, việc cung cấp tín dụng
xuất nhập khẩu cho Doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong hoạt động
kinh doanh, không những đem lại hiệu quả kinh doanh từ lãi vay mà còn
thu được các phí dịch vụ từ hoạt động thanh toán quốc tế, mua bán ngoại
tệ… Mặt khác, việc phục vụ khách hàng khép kín từ việc cho vay, thực
hiện dịch vụ thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ sẽ tạo thuận lợi cho
khách hàng trong thực hiện giao dịch, giảm chi phí cho khách hàng, tăng uy
tín của Ngân hàng.
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
Nhận thức được điều đó, thời gian qua Ngân hàng Nam Á luôn quan
tâm đến việc phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu và bước đầu đã
thu được những thành quả nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những thành quả
đó, Ngân hàng cũng gặp phải không ít khó khăn, hạn chế. Những khó khăn,
hạn chế đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng đều ảnh
hưởng đến khả năng mở rộng quy mô tín dụng xuất nhập khẩu và khả năng
thu hồi nợ vay. Chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu cũng vì thế bị ảnh

hưởng và cần có những giải pháp để nâng cao hơn nữa. Đây cũng là lý do
để tôi lựa chọn đề tài ”Nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại
Ngân Hàng Nam Á, chi nhánh Hà Nội ” làm đề tài nghiên cứu.
*0 Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo.
Chuyên đề được kết cấu theo 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân
hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng
Nam Á, chi nhánh Hà Nội
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại
ngân hàng Nam Á, chi nhánh Hà Nội
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu, học hỏi để hoàn thành
chuyên đề, song chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô
và các bạn để chuyên đề có ý nghĩa hơn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Phan Hồng Mai người đã tận
tình giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.
Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo
trong Khoa đã dạy dỗ và cung cấp cho tôi những kiến thức lí luận quí báu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo và các anh chị Phòng
Tín dụng, Chi nhánh Ngân hàng Nam Á Hà Nội những người đã nhiệt tình
tiếp nhận, tạo điều kiện và cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn quan
trọng cho tôi trong quá trình thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1.Khái niệm về Ngân hàng Thương mại (NHTM)
Ngày 26 tháng 12 năm 1997, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội nghĩa
Việt Nam Trần Đức Lương đã ban hành lệnh số 01-L/CTN về việc công bố
luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12 tháng 12 năm
1997, tại điều 20 của luật này có nêu:
+) Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định
của Luật này và các quy định khác của Pháp luật để hoạt động kinh doanh
tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền
gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán.
+) Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện theo toàn bộ
hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo
tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng bao gồm Ngân hàng
Thương mại, ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Chính sách,
Ngân hàng Hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.
1.1.2. Sự hình thành của Ngân hàng Thương mại
Thực tế cho thấy, NHTM chính là sản phẩm của nền kinh tế thị
trường, nó luôn gắn liền với sản xuất hàng hoá. Kể từ khi nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường, sự hình thành các thành phần kinh tế đã làm
cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng sôi động nhằm đáp ứng nhu
cầu sản xuất của toàn xã hội. Hoạt động sản xuất càng phát triển thì nhu
cầu vốn phục vụ cho các hoạt động đó càng đòi hỏi nhiều hơn, đến lúc này
Ngân hàng tách ra thành hai hệ thống thực hiện chức năng hoàn toàn khác
nhau, đó là Ngân hàng Trung ương thực hiện việc quản lý, phát hành tiền
và tổ chức lưu thông tiền tệ theo chỉ định của Chính phủ,và Ngân hàng
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
chuyên doanh ( Ngân hàng Ngoại thuơng, Ngân hàng Công thương, Ngân

hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn)
thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. Về thực chất các Ngân
hàng Chuyên doanh chính là các NHTM với chức năng chủ yếu là huy
động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong các thành phần kinh tế và
trong các tầng lớp dân cư, nhằm tạo ra một nguồn vốn lớn hơn để đáp ứng
nhu cầu vay vốn phục vụ các hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh
nghiệp để phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay, ngoài 4 NHTM Nhà nước
nói trên còn có các Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Liên doanh, Ngân
hàng cổ phần đều là những NHTM chịu sự quản lý của Nhà nước và Pháp
luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.3. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại
Nét đặc trưng nổi bật nhất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Thương mại chính là " Đi vay để cho vay".
* Hoạt động huy động vốn
Đây là một trong những nghiệp vụ cơ bản của các NHTM và chính
thông qua nghiệp vụ này mà các NHTM đã thực hiện chức năng tạo tiền.
NHTM đã huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng cách nhận
tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân bằng các hình thức như:
Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra, khi
cần thêm vốn Ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành chứng chỉ
tiền gửi, các trái khoán Ngân hàng hay đi vay từ các tổ chức tín dụng khác.
* Hoạt động sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ kinh doanh đem lại phần lợi nhuận lớn cho các
NHTM. Các NHTM dùng nguồn vốn đã huy động được để cho vay, từ đó
thu lại lợi nhuận trên cơ sở lãi suất nhận gửi và cho vay. Thực hiện nghiệp
vụ này, các NHTM không những đã thực hiện chức năng xã hội của mình
thông qua việc mở rộng vốn đầu tư, gia tăng sản phẩm xã hội và cải thiện
đời sống nhân dân mà còn có ý nghĩa rất lớn đến toàn bộ đời sống kỹ
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
4

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
thuật thông qua các hoạt động tài trợ của các ngành, các lĩnh vực phát
triển công nông nghiệp trong nền kinh tế. Ngoài hoạt động cho vay là chủ
yếu, các NHTM còn thực hiện hoạt động đầu tư, hùn vốn, liên doanh liên
kết, kinh doanh chứng khoán trên thị trường tài chính. Hoạt động này
mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng vừa góp phần điều hoà, lưu thông tiền
tệ trong nền kinh tế.
* Hoạt động trung gian thanh toán
Ngân hàng làm trung gian thanh toán theo yêu cầu của khách hàng
bằng cách cung cấp những công cụ thanh toán như : Séc , uỷ nhiệm chi,
uỷ nhiệm thu, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng Hoạt động này làm tăng lợi
nhuận thông qua việc thu phí dịch vụ thanh toán đồng thời làm tăng
nguồn vốn cho vay của Ngân hàng, thể hiện trên số dư tài khoản tiền gửi
của khách hàng.
Ngoài các hoạt động chủ yếu trên, các NHTM còn cung cấp cho khách
hàng các dịch vụ như: Dịch vụ uỷ thác đại lý tài sản vốn của các tổ chức, cá
nhân theo hợp đồng dịch vụ mua bán ngoại tệ, dịch vụ mua bán đầu tư
chứng khoán cho khách hàng, thực hiện bảo lãnh, phát hành chứng khoán.
1.2 TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
Tín dụng tài trợ xuất khẩu: là việc cung cấp cho vay để giúp doanh
nghiệp thực hiện việc sản xuất, kinh doanh, chế biến hàng xuất khẩu.
Mục đích của tín dụng tài trợ xuất khẩu là đẩy mạnh sản xuất trong nước,
khuyến khích xuất khẩu. Đây còn là một kênh tái tạo ngoại tệ để phục vụ
hoạt động nhập khẩu của ngân hàng.
Tín dụng tài trợ nhập khẩu: là việc cung cấp các khoản vay (ngắn, trung,
dài hạn) để giúp doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu cần thiết phục vụ
sản xuất kinh doanh.
Mục đích của tín dụng tài trợ nhập khẩu là cho vay để giúp các doanh

SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
nghiệp nhập nguyên liệu , vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị, dây chuyền
sản xuất.
1.2.2 Các hình thức tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu
1.2.2.1 Tài trợ xuất khẩu
Hiện nay để tài trợ xuất khẩu, các ngân hàng thương mại thường cho
vay bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ để thu mua hàng xuất khẩu. Tài trợ
xuất khẩu hiện nay được áp dụng cụ thể dưới các hình thức sau:

Tài trợ vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu
theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt
hàng.
Hình thức này được tiến hành trước khi giao hàng, thường được áp
dụng trong trường hợp Ngân hàng tài trợ vừa là Ngân hàng thanh toán cho
L/C xuất, nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ và được thanh toán tại ngân
hàng. Để giám sát và kiểm soát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay đúng
mục đích, thông thường Ngân hàng thực hiện tài trợ như sau:
- Khi vay ngân hàng yêu cầu nhà xuất khẩu phải có một số vốn nhất
định cộng thêm với số tiền vay ngân hàng để thu mua hàng hoá, chế biến,
sản xuất hàng xuất khẩu. Hàng hoá sẽ làm tài sản đảm bảo để tiếp tục vay
và được nhập tại kho ngân hàng hoặc nhập kho mà trước đó ngân hàng và
nhà xuất khẩu thoả thuận và đồng ý, dưới sự giám sát của ngân hàng, muốn
xuất hàng ra khỏi kho phải có sự đồng ý của ngân hàng. Ngân hàng tiếp tục
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai

cho vay, khách hàng sẽ dùng số tiền Ngân hàng tài trợ để đi mua hàng, chế
biến sản xuất hàng hoá và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi bằng 100% giá
trị hàng xuất. Thông thường ngân hàng chỉ tài trợ khoảng 70% giá trị lô
hàng xuất khẩu.
- Sau khi giao hàng xong, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ phù hợp với
những điều kiện quy định trong L/C nộp vào ngân hàng để xin thanh toán
tiền. Trên hối phiếu đòi nợ thì ngân hàng sẽ là người hưởng lợi trực tiếp
trên hối phiếu. Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ hợp lý chuyển ra nước
ngoài đòi nợ ngân hàng mở L/C. Khi nhận được điện chuyển tiền từ phía
ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo L/C sẽ ghi Có trên tài khoản cho
vay để thu nợ. Trường hợp giữa ngân hàng mở và ngân hàng thông báo L/C
là đại lý có mở tài khoản tiền gửi cho nhau, việc thực hiện thanh toán bộ
chứng từ để thu nợ được tiến hành nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng nên
ngân hàng có thể tài trợ mức lãi suất ưu đãi thấp hơn mức lãi suất bình
thường.
- Khi ngân hàng tài trợ không phải là ngân hàng thông báo cũng
không phải là ngân hàng thanh toán, rủi ro có thể xảy ra nếu như sau khi
được tài trợ doanh nghiệp không xuất được hàng hoặc xuất được hàng
nhưng lại gặp rủi ro trong giao nhận hay thanh toán, hoặc khách hàng
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
không dùng số tiền trên vào mục đích xuất hàng như đã cam kết vay với
ngân hàng.

Tài trợ vốn trong thanh toán hàng xuất khẩu
Từ lúc giao hàng, nộp bộ chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C cho
đến khi được ghi Có trên tài khoản phải trải qua một khoảng thời gian nhất
định để xử lý và luân chuyển chứng từ. Nhà xuất khẩu cần tiền có thể

thương lượng bộ chứng từ để chiết khấu hoặc ứng trước tiền tại ngân hàng
đã được chỉ định rõ trong L/C hoặc ở bất kỳ ngân hàng nào. Hình thức tài
trợ này được tiến hành sau khi giao hàng. Để đảm bảo cho khoản tín dụng
thu hồi nợ dễ dàng nhanh chóng, ngân hàng thương mại thường yêu cầu các
L/C xuất của khách hàng phải được thông báo qua ngân hàng, ngân hàng
tài trợ vừa là ngân hàng thông báo hoặc vừa là ngân hàng thanh toán L/C,
được thể hiện qua các hình thức sau:
- Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu:
+ Khi chiết khấu bộ chứng từ phải hoàn hảo và xuất trình đúng thời
gian quy định. Ngân hàng mở L/C phải có uy tín trên thị trường quốc tế và
có quan hệ giao dịch thường xuyên với ngân hàng chiết khấu. Tình hình
sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp ổn định và
đảm bảo khả năng thanh toán, có uy tín với ngân hàng. Số tiền chiết khấu
phải nằm trong hạn mức tín dụng.
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
+ Sau khi tiếp nhận hồ sơ từ phía khách hàng, ngân hàng thẩm định
về mục đích vay, tình hình tài chính, khả năng thanh toán… Ngân hàng
kiểm tra bộ chứng từ một cách cẩn thận và hợp lý bởi vì nếu bộ chứng từ
không hợp lý có thể bị từ chối thanh toán, ngân hàng khó thu hồi nợ. Ngân
hàng kiểm tra sự phù hợp trên bề mặt chứng từ so với các điều kiện, điều
khoản đã ghi trong L/C. Ngân hàng xem xét quyết định tỷ lệ chiết khấu
hiện nay vào khoảng 90% giá trị L/C xuất. Tuy nhiên trên thực tế tuỳ từng
ngân hàng, từng trường hợp cụ thể sẽ quyết định một tỷ lệ chiết khấu nhất
định. Có hai hình thức chiết khấu:
 Chiết khấu truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi
thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu có quyền đòi tiền nếu bộ chứng từ không
được thanh toán.

 Chiết khấu miễn truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng
sau khi thanh toán cho nhà xuất khẩu không có quyền truy đòi tiền nếu bộ
chứng từ không được thanh toán.
Hiện nay đa số ngân hàng thực hiện chiết khấu truy đòi.
- Ứng trước tiền thanh toán hàng xuất khẩu:
Trường hợp bộ chứng từ không hội đủ điều kiện chiết khấu, có
những sai sót ngân hàng không đồng ý chiết khấu thì nhà xuất khẩu có thể
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
yêu cầu ngân hàng ứng trước tiền hàng. Thông thường thì tỷ lệ ứng trước
khoảng 50 – 60% giá trị hàng xuất.
Ngân hàng thực hiện thu nợ bằng cách gửi bộ chứng từ ra nước
ngoài để đòi nợ, trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi chứng từ đòi tiền mà
không nhận được báo Có của ngân hàng nước ngoài, ngân hàng tự động ghi
Nợ tài khoản tiền gửi của khách hàng. Nếu trên tài khoản của khách hàng
không đủ tiền trong vòng 7 ngày làm việc ngân hàng sẽ chuyển số tiền
chiết khấu hoặc ứng trước sang nợ quá hạn. Khi được thanh toán từ phía
ngân hàng nước ngoài sẽ thực hiện khấu trừ trực tiếp khoản tiền vay cùng
các chi phí có liên quan.
1.2.2.2 Tài trợ nhập khẩu
Thông thường ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ để nhập nguyên vật
liệu, vật tư, hàng hoá máy móc thiết bị, công nghệ… hoặc cho vay bằng
VND, trường hợp này rất hiếm vì khi vay VND đổi sang ngoại tệ để thanh
toán hàng nhập khẩu, khách hàng phải mất một khoản tiền do chênh lệch tỷ
giá mua, bán của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện với những hình thức sau:

Hình thức mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu
Đây là hình thức thể hiện sự tài trợ của ngân hàng dành cho các nhà

nhập khẩu.
- Điều kiện để mở L/C tại các ngân hàng thương mại:
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
+ Phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đối với các đơn vị
nhập uỷ thác phải có hợp đồng uỷ thác nhập khẩu.
+ Đối với những mặt hàng nằm trong danh mục quản lý hàng nhập
của Nhà nước, đơn vị phải xuất trình giấy phép nhập khẩu do Bộ thương
mại cấp.
+ Đơn vị phải có tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính
ổn định và có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng.
+ L/C hàng nhập phải có giá hợp lý, đồng thời chứng minh việc nhập
lô hàng trên là hợp lý, phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo
khả năng thanh toán lô hàng.
+ Đơn vị phải có tài sản thế chấp đảm bảo cho giá trị của L/C hoặc
được bảo lãnh thanh toán bởi một tổ chức đáng tin cậy.
+ Đối với L/C trả chậm, dư nợ bảo lãnh phải nằm trong hạn mức vay
vốn nước ngoài được ngân hàng nhà nước duyệt.
- Thẩm định hồ sơ mở L/C:
Trên cơ sở thẩm định, ngân hàng quyết định mức ký quỹ L/C. Ký
quỹ L/C được coi là một hình thức bắt buộc tại ngân hàng thương mại. Ký
quỹ nhằm bảo đảm khách hàng nhận hàng và thanh toán L/C. Thông
thường mức ký quỹ cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố sau:
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
+ Khả năng thanh toán của khách hàng: khả năng thanh toán của

khách hàng càng cao mức ký quỹ càng thấp và ngược lại.
+ Đối tượng khách hàng: khách hàng có uy tín đối với ngân hàng thì
mức ký quỹ thấp và ngược lại.
+ Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thường thấp hơn L/C trả
ngay, vì mục đích L/C trả chậm là để vay vốn nước ngoài, thời gian khá
dài, mức ký quỹ cao sẽ làm ứ đọng vốn của khách hàng.
+ Loại hàng hoá nhập, khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động
giá cả hàng hoá trên thị trường. Những mặt hàng dễ tiêu thụ, thị trường ổn
định, giá cả ít biến động thì mức ký quỹ có thể thấp.
Trên cơ sở kết hợp các yếu tố trên, các định mức ký quỹ L/C ngân
hàng sẽ quyết định mức ký quỹ cụ thể. Ký quỹ được thực hiện bằng cách
trích tài khoản ngoại tệ của khách hàng để chuyển vào tài khoản thanh toán
L/C, theo quy định hiện nay thì số tiền ký quỹ được hưởng lãi bằng với lãi
tiền gửi thanh toán. Nếu không đủ số dư trên tài khoản ngoại tệ hoặc đối
với các đơn vị nhập uỷ thác có thể kèm đơn xin mua ngoại tệ để ký quỹ
hoặc có thể làm đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ L/C, hiện nay ở nước ta cho
vay ký quỹ L/C rất hạn chế.

Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
- Ngân hàng mở L/C tiếp nhận bộ chứng từ từ ngân hàng thông báo
L/C, có thời gian là 7 ngày để kiểm tra xử lý chứng từ đưa ra ý kiến thanh
toán hoặc từ chối thanh toán. Trong nghiệp vụ này ngân hàng thanh toán
dựa vào chứng từ chứ không dựa vào hàng hoá, nên ngân hàng mở L/C
phải kiểm tra chứng từ cẩn thận, chứng từ phù hợp ngân hàng sẽ thanh toán
tiền (L/C trả ngay hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu- L/C trả chậm).
- Đối với nhà nhập khẩu, hàng vừa cập bến phải nộp tiền cho ngân

hàng để thanh toán cho nhà xuất khẩu thì mới nhận được chứng từ để nhận
hàng, bán hàng và thu hồi vốn. Đó là khoảng thời gian khá dài, do đó nhà
nhập khẩu cần có khoản tài trợ từ ngân hàng, vay ngân hàng để thanh toán
hàng nhập khẩu. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định tính hiệu quả sử dụng
vốn vay và khả năng tài chính, khả năng trả nợ, thế chấp tài sản để quyết
định. Tuy nhiên trên thực tế đối với những doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh ổn định, có uy tín với ngân hàng thì không ký quỹ mở L/C,
không cần tài sản thế chấp vẫn được vay vốn ngân hàng, hàng hoá nhận về
đem thẳng đến kho của doanh nghiệp nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Nghiệp vụ bảo lãnh, tái bảo lãnh
- Cơ sở pháp lý của nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh được thực
hiện trên tinh thần nghị định 58/CP – ngày 30/3/1993 của Thủ tướng chính
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
phủ về Quy chế vay và trả nợ nước ngoài; Quyết định 23/ QĐ - NH14 ngày
21/02/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy chế bảo lãnh và tái
bảo lãnh.
- Hiện nay các ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp,
thực hiện tái bảo lãnh cho các ngân hàng khác. Các doanh nghiệp muốn
vay vốn nước ngoài phải lập kế hoạch vay vốn nước ngoài đã có sự đồng ý
của cơ quan chủ quản và nằm trong hạn mức vay vốn nước ngoài được cơ
quan nhà nước duyệt.
- Hiện nay có nhiều hình thức bảo lãnh: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh
tham gia đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đặt cọc… nhưng
thực tế bảo lãnh thực hiện hợp đồng, đấu thầu rất ít sử dụng. Bảo lãnh vay
vốn là hình thức chủ yếu tại các ngân hàng, tái bảo lãnh ít được thực hiện.

Bảo lãnh ở nước ta chủ yếu để tài trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu vay
vốn, được thực hiện dưới các hình thức sau:
+ Phát hành thư bảo lãnh .
+ Mở L/C trả chậm.
+ Ký bảo lãnh trên hối phiếu (Bill of exchange) nhận nợ nước ngoài.
+ Ký bảo lãnh lệnh phiếu (Promissory Note) nhận nợ nước ngoài.
+ Ký xác nhận bảo lãnh ngay trên giấy nhận nợ do khách hàng (vay
nợ) lập nhận nợ nước ngoài.
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
- Hai hình thức bảo lãnh được áp dụng phổ biến ở nước ta hiện nay:
+ Bảo lãnh vay vốn bằng cách phát hành thư bảo lãnh.
Hiện nay đa số các ngân hàng nước ngoài, các doanh nghiệp nước
ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam vay để nhập hàng hoá, máy móc
thiết bị do nước đó sản xuất. Nhà xuất khẩu trước khi giao hàng thường yêu
cầu phía các doanh nghiệp Việt Nam phải có ngân hàng đứng ra bảo lãnh.
Ngân hàng bảo lãnh sẽ phát hành thư bảo lãnh cam kết thanh toán cho nước
ngoài nếu doanh nghiệp Việt Nam không thanh toán tiền khi đến hạn. Trên
cơ sở bảo lãnh của ngân hàng Việt Nam, nhà xuất khẩu nước ngoài có thể
giao dịch với ngân hàng phục vụ của họ để vay vốn thay cho các doanh
nghiệp Việt Nam. Nếu chấp nhận những điều kiện vay vốn của ngân hàng
nước ngoài, doanh nghiệp phải trả nợ trực tiếp cho ngân hàng nước ngoài.
+ Bảo lãnh bằng phát hành L/C trả chậm:
Đây là hình thức được áp dụng phổ biến nhất ở nước ta trong thời
gian vừa qua, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dư nợ bảo lãnh tại các ngân
hàng thương mại. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam đây là hình thứcc
vay vốn, tranh thủ vốn nước ngoài đơn giản và đễ được chấp thuận bằng
cách mua chịu hàng hoá, phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay doanh nghiệp

đang thiếu vốn.
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
Theo quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành kèm
theo quyết định số 207- NH7 ngày 01/07/1997 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước, quy định:
+ Việc mở L/C trả chậm nhập khẩu, hàng hoá phải phù hợp với
chính sách xuất nhập khẩu hàng năm của Nhà nước, các quy định hiện hành
của Nhà nước liên quan đến việc vay, trả nợ nước ngoài.
+ Số dư L/C trả chậm ngắn hạn (1 năm trở xuống) phải nằm trong
hạn mức vay ngắn hạn theo quy định của Công văn 515/CV NH7 về hạn
mức vay ngắn hạn của ngân hàng và mức ký quỹ tối thiểu mở L/C trả
chậm. Ngân hàng phải duy trì tỷ lệ tối đa là 3 lần giữa số dư vay và bảo
lãnh vay ngắn hạn nước ngoài (gồm số dư L/C trả chậm ngắn hạn, số tiền
đang bảo lãnh vay ngắn hạn nước ngoài và số dư vay ngắn hạn nước ngoài)
trên vốn tự có của ngân hàng. Ngân hàng không có nợ quá hạn phát sinh từ
nghiệp vụ mở L/C trả chậm.
+ Trích lập quỹ bảo lãnh theo quy định hiện hành về bảo lãnh và tái
bảo lãnh theo quy định:
Quỹ bảo lãnh = 5% Giá trị thực tế bảo lãnh
Giá trị thực tế bảo lãnh = Giá trị ngân hàng bảo lãnh – Giá trị mà bên
xin bảo lãnh ký quỹ tại ngân hàng.
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
Như vậy tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu xuất hiện như là một yêu
cầu khách quan đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình với hoạt động

xuất khập khẩu cũng như đối với nền kinh tế. Với sự phát triển ngày càng
đa dạng và phong phú của các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu mà ngân
hàng thương mại Việt Nam đã cung cấp, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình, giảm
bớt rủi ro trong giao dịch ngoại thương.
1.2.3 Vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn
tại và phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất
nước.
• Đối với nền kinh tế đất nước
- Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho
hàng hoá xuất nhập khẩu lưu thông trôi chảy. Thông qua tài trợ của ngân
hàng, hàng hoá XNK theo yêu cầu của thị trường được thực hiện thường
xuyên, liên tục đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế.
- Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng tạo điều kiện cho doanh
nghiệp phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm động cơ thúc đẩy
nền kinh tế. Doanh nghiệp có sự giúp đỡ của ngân hàng có vốn để mở rộng
sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá trang thiết bị làm tăng năng suất lao
động. Doanh nghiệp phát triển chính là kinh tế đất nước phát triển.
• Đối với doanh nghiệp
- Nhờ sự giúp đỡ của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị
trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
động, giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng thời hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho
Nhà nước.
- Tài trợ xuất nhập khẩu làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong

quá trình thực hiện hợp đồng. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ
giúp doanh nghiệp mua hàng đúng thời vụ, gia công chế biến và giao hàng
đúng thời điểm. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, vốn tài trợ giúp doanh
nghiệp mua được những lô hàng lớn, giá hạ góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tín dụng ngân hàng làm giảm rủi ro của hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu thường diễn ra ở hai nước khác nhau. Do vậy, sự
hiểu biết giữa người mua và người bán không được đầy đủ, chính xác. Nhờ
sử dụng tín dụng ngân hàng, Nhà nhập khẩu và xuẩt khẩu sẽ yên tâm nhận
đúng số tiền, hàng của mình thông qua các ngân hàng trung gian đứng ra
bảo đảm.
- Đặc biệt, nhờ tín dụng ngân hàng, doanh nghiệp thực hiện được
những thương vụ lớn. Vốn tài tợ của ngân hàng kịp thời, đúng lúc giúp cho
doanh nghiệp đảm bảo thực hiện theo hợp đồng từ đó làm cho uy tín của
doanh nghiệp được nâng cao trên thị trường thế giới. Tín dụng xuất nhập
khẩu tại các ngân hàng thương mại dựa vào 3 nguyên tắc cơ bản:
(1) Sử dụng vốn vay đúng mục đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
(2) Phải hoàn trả nợ gốc và tiền lãi đúng hạn đã thoả thuận.
(3) Tiền vay phải có tài sản tương đương bảo đảm.
Cùng với sự phát triển của ngoại thương, nhu cầu tín dụng của các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ngày càng gia tăng. Nó đòi hỏi ngân
hàng ngày càng phải hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ tín dụng đáp
ứng nhu cầu của các nhà xuất nhập khẩu và sự biến động của nền kinh tế.
Ngân hàng cần nắm bắt được nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động xuất
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
nhập khẩu để có thể đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và mở rộng

hoạt động của mình.
1.3 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu
Tín dụng xuất nhập khẩu ngoài vai trò là một hình thức tài trợ cho các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu nó còn là một loại sản phẩm dịch vụ và vì
thế để hiểu được chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu ta cần phải hiểu được
khái niệm về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm theo hiệp hội tiêu
chuẩn Pháp là: năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm thoả mãn
những nhu cầu của người sử dụng.
Từ đó, chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu được hiểu là “ sự đáp
ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng,
đảm bảo an toàn và hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho ngân
hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng và sự phát
triển kinh tế xã hội nói chung ”. Nói cách khác, một khoản tín dụng xuất
nhập khẩu có chất lượng phải đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích của ba bên
Ngân hàng, các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu và của xã hội.
Để đánh giá chất lượng của các khoản tín dụng xuất nhập khẩu của
ngân hàng một cách hoàn toàn chính xác là một công việc không dễ bởi nó
đòi hỏi phải xem xét trên nhiều mặt, thông qua sự tổng hợp kết quả phân
tích nhiều chỉ tiêu khác nhau như đã nói trên. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần
xem xét những chỉ tiêu nào, và xem xét ra sao. Dưới đây là một số chỉ tiêu
cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng
thương mại.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của
ngân hàng thương mại
Đối với tín dụng xuất nhập khẩu để đánh giá chất lượng của nó thông
thường ta cũng xem xét các chỉ tiêu cơ bản sau:
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
19

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
• Doanh số cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô cho vay của NH đối với hoạt động xuất
nhập khẩu. Là tổng số tiền trên thực tế NH cam kết cho khách hàng vay.
Nhìn chung, chỉ tiêu này càng cao thì càng tốt. Nó cho thấy hiệu quả trong
việc tìm đầu ra của nguồn vốn, tức là vốn mà NH huy động được không bị
ứ đọng, nó đã quay trở lại phục vụ cho nền kinh tế. Bên cạnh đó còn cho
thấy mối quan hệ tốt giữa khách hàng và NH trong việc vay mượn, NH tạo
được uy tín lớn cho khách hàng; đồng thời cũng thể hiện các khách hàng đã
đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của NH. Điều này tạo điều kiện cho
việc phát triển tín dụng trong các kì sau.
Nhưng không phải lúc nào chỉ tiêu này cao cũng là tốt. Tỷ lệ tăng
trưởng tín dụng (ở đây cụ thể là doanh số cho vay) phải phù hợp với tỷ lệ
tăng nguồn vốn huy động được. Có như vậy mới đảm bảo được khả năng
giải ngân của NH, tức là chất lượng tín dụng đã được nâng cao.
Dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu
• Chỉ tiêu dư nợ =
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho thấy vị trí của tín dụng xuất nhập khẩu trong hoạt
động tín dụng chung của ngân hàng. Ngoài ra, nó còn được sử dụng để xem
xét sự biến động trong cơ cấu tín dụng thông qua việc so sánh giữa các thời
kỳ khác nhau. Tỉ lệ này càng cao cho thấy mức độ phát triển nghiệp vụ này
càng lớn, tín dụng xuất nhập khẩu đóng góp càng nhiều cho các doanh
nghiệp và được khách hàng tín nhiệm.
• Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là các khoản nợ đã đến hạn hoàn trả nhưng khách hàng
không có khả năng trả cho NH. Tỷ lệ nợ quá hạn là một chỉ tiêu quan trọng
cho phép đánh giá chất lượng tín dụng.
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A

20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các NH có tỷ lệ nợ
quá hạn trên tổng dư nợ ≥ 7% được xem là NH yếu kém. Nếu chỉ số này ≤
5% NH đó được coi là có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn được phân ra làm nhiều loại, nhưng trên thực tế phần lớn
là nợ quá hạn có khả năng mất vốn. Nên nếu tỷ lệ này càng cao thì tức chất
lượng tín dụng càng thấp. Đối với tín dụng xuất nhập khẩu thì chỉ tiêu này
tín bằng nợ quá hạn xuất nhập khẩu/ tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu.
Để đánh giá một cách chính xác hơn, người ta phân ra làm hai loại tỷ
lệ nợ quá hạn:
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi =
Tổng nợ quá hạn
Nợ quá hạn không
có khả năng thu hồi
Tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi =
Tổng nợ quá hạn
Các chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng của từng loại nợ quá hạn trong tổng
nợ quá hạn, để từ đó có các biện pháp thích hợp để xử lý và đề ra chỉ tiêu
cho kì tiếp theo.
Lợi nhuận từ tín dụng xuất nhập khẩu
• Chỉ tiêu lợi nhuận =
Tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu
SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
21

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Hồng
Mai
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng xuất nhập khẩu.
Nó cho biết có bao nhiêu đồng lợi nhuận được sinh ra từ một đồng dư nợ.
Chất lượng tín dụng tốt phải gồm cả lợi nhuận mà tín dụng đó mang lại cho
ngân hàng.
Với những chỉ tiêu trên đây ta mới chỉ có thể xem xét được khoản tín
dụng xuất nhập khẩu có chất lượng tốt hay không . Nhưng vấn đề đặt ra
không phải chỉ dừng lại ở đó mà là phải tìm ra các giải pháp để khắc phục
các hạn chế và phát huy những mặt mạnh nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng cho hoạt động sau này. Tức là ta cần phải nắm bắt được các nhân tố
tác động đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu .
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu
1.3.3.1. Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố từ phía ngân hàng được xem là các nhân tố chủ quan,
bởi nó là yếu tố nội tại trong ngân hàng và có tác động một cách trực tiếp
đến chất lượng hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt động
tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng. Các nhân tố này bao gồm: chính sách
tín dụng, công tác huy dộng vốn, công tác tổ chức của ngân hàng, trình
độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, qui trình nghiệp vụ tín dụng, hoạt động,
kiểm tra, kiểm soát nội bộ, trang thiết bị và sự phối hợp giữa các phòng ban
liên quan
- Chính sách tín dụng : Bao gồm các chủ trương, đường lối đảm bảo
cho hoạt động tín dụng đi đúng mục tiêu của ngân hàng đồng thời tuân thủ
tốt qui định của Chính phủ, NHNN, nó có liên qua đến việc mở rộng hay
thu hẹp tín dụng, thay đổi cơ cấu tín dụng trong từng thời kỳ và có ý nghĩa
quyết định sự thành bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng
đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt
động tín dụng trên nâng cao được chất lượng tín dụng. Bất cứ một ngân
hàng nào muốn có được chất lượng tín dụng cao đều phải có chính sách

SV: Ngô Đức Thịnh – TCDN 50A
22

×