Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Lạm phát tiền tệ ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.26 KB, 38 trang )

Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
1
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay
gắt, để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế
cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề
của nền kinh tế mới. Một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là lạm phát. Trên
góc độ kinh tế học, lạm phát là một thuật ngữ biểu hiện xu hướng tăng lên của
mức giá chung theo thời gian, có nhiều tiêu chí xác định tỷ lệ lạm phát, nhưng
thông thường tỷ lệ lạm phát được xác định bằng phần trăm thay đổi của mức giá
theo chỉ số điều chỉnh GDP, và chỉ số giá tiêu dung (CPI). Như vậy, có thể thấy
những yếu tố ảnh hưởng tới giá tiêu dùng và GDP đều là những yếu tố gây ra sự
biến động tỷ lệ lạm phát.
Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một hiện
tượng hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ của các cơ
quan quản lý nhà nước mới có thể mong muốn tìm ra những giải pháp kìm hãm
và điều chỉnh phù hợp. Lạm phát có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc
Sinh viên: Phan Doãn Thành 1 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. Trong những năm gần đây
lạm phát luôn tăng cao, khiến cho các mặt của đời sống bị ảnh hưởng. Mặc dù
Ngân hàng nhà nước quy định trần lãi suất huy động đối với các ngân hàng
thương mại là 14%/năm, tuy nhiên, việc chấp hành của các ngân hàng thương
mại còn nhiều hạn chế. Hiện tượng vượt trần lãi suất xảy ra liên tục trong thời
gian qua tại các ngân hàng nhỏ dẫn đến cuộc đua lãi suất ngầm giữa các ngân
hàng. Ngoài ra, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với các
doanh nghiệp cũng biến động theo từng đối tượng khách hàng và ở mức rất cao


dẫn đến việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp trở nên vô cùng khó khăn. Hoạt
động sản xuất của rất nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam thời gian qua bị đình trệ,
lượng hàng hóa cung ứng ra thị trường bị thu hẹp là nguyên nhân đẩy giá cả
hàng hóa trên thị trường tăng cao. Dường như các mặt của nền kinh tế đang bị
ảnh hưởng rất lớn.
Thấy được vấn đề trên, em quyết định lựa chọn đề tài: “Lạm phát tiền tệ
ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp”.
Trước hết, ta sẽ làm rõ lạm phát là gì? Một số cách tính lạm phát. Tiếp đó
ta đi đến phân loại lạm phát và ảnh hưởng của nó, phân tích thực trạng lạm phát
tại Việt Nam. Trên cơ sở đó ta sẽ đưa ra một số giải pháp cho vấn đề này.
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm và các cách tính lạm phát
1.1. Các quan điểm khác nhau về lạm phát
Lạm phát là một hiện tượng của nền kinh tế. Việc nhận thức bản chất kinh
tế của lạm phát cũng là quá trình phát triển của tư duy đi từ đơn giản đến phức
tạp, đi từ hiện tượng bề ngoài đến bản chất bên trong, đến các thuộc tính của lạm
phát.
Lạm phát là một phạm trù của nền kinh tế, khi có sản xuất hàng hóa, có sự
trao đổi và quan hệ hàng tiền thì ở đó có tiềm ẩn khả năng xẩy ra lạm phát.
Trong bộ “Tư bản” của mình, Karl Markx cho rằng: “lạm phát là việc tràn
đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng
vọt”. Markx đã đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận về vấn đề lạm phát. Theo
Sinh viên: Phan Doãn Thành 2 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
ông, lạm phát là “bạn đường” của chủ nghĩa tư bản, đã bóc lột người lao động,
bên cạnh giá trị thặng dư, do lạm phát đã làm giảm tiền lương thực tế của người
lao động xuống. Quan điểm này phù hợp với trường phái lạm phát “lưu thông
tiền tệ” (phái trọng tiền).
Đại diện cho trường phái lạm phát “lưu thông tiền tệ” là Milton Friedmen,

ông đã đưa ra quan điểm về lạm phát trong nhận định của mình là “lạm phát
luôn luôn và ở đâu cũng là hiện tượng tiền tệ”. Trường phái này cho rằng: lạm
phát tiền tệ là việc đưa vào lưu thông nhiều tiền thừa, làm cho giá cả hàng hóa
tăng lên, và nguồn gốc của tất cả các cuộc lạm phát là đều do tốc độ tăng cung
tiền cao, chỉ đơn giản bằng cách cắt giảm mức độ tăng cung tiền xuống thấp,
người ta có thể ngăn ngừa được lạm phát. Quan điểm này đã kết hợp giữa hiện
tượng tăng tiền với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
Tuy nhiên không phải bất cứ lúc nào số lượng tiền trong lưu thông tăng lên
nhanh hơn so với nhịp tăng của quá trình sản xuất cũng đều là lạm phát.
Nhà kinh tế học Samuelson thì lại cho rằng: “lạm phát xảy ra khi mức
chung của giá cả và chi phí tăng”. Quan điểm này theo trường phái “cầu kéo”,
đại diện là J. Keynes. Chống lại lý thuyết cổ điển cho rằng: có lạm phát khi số
tiền lưu hành so với trữ kim của ngân hàng phát hành quá nhiều, Keynes cho
rằng in tiền và tăng tín dụng không làm thay đổi cầu, lạm phát là do cầu vượt
quá mức cung sản lượng tiềm năng. Tuy nhiên, trong chừng mực mà lạm phát
được định nghĩa là: sự gia tăng liên tục và nhanh chóng của mức giá, thì các nhà
tiền tệ và những người theo quan điểm của Keynes đều nhất trí với nhận định
với nhận xét của Friedman rằng lạm phát là hiện tượng tiền tệ.
Có thể tóm tắt đơn giản lại như sau:
Theo trường phái lạm phát tiền tệ thì: lạm phát là kết quả của việc tăng
quá thừa cung tiền.
Theo trường phái Keynes: lạm phát xẩy ra là do cầu về hàng hóa trong
nền kinh tế là không đủ.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 3 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Ngoài ra, theo thuyết chi phí đẩy thì: lạm phát xẩy ra do tăng chi phí sản
xuất.
Với mỗi quan điểm đều đưa ra được các mặt của lạm phát.
1.2. Đo lường lạm phát
Một định nghĩa nữa cũng được các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và

được sử dụng rộng rãi trong việc nghiên cưu thị trường đó là: “lạm phát là sự
tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian”. Vì vậy lạm phát được đo bằng
cách theo dõi sự thay đổi về giá cả của một lượng lớn các hàng hóa, dịch vụ
trong nền kinh tế, được gọi là chỉ số giá cả.
Tỷ lệ lạm phát được thể hiện qua tỷ lệ phần trăm(%) thay đổi chỉ số giá cả
so với thời kỳ gốc.
Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính:
G
t
=
I
t
– I
t-1
x 100% (1)
I
t-1
Trong đó: G
t
là tỷ lệ lạm phát
I
t
là số giá cả thời kỳ t
I
t-1
là số giá cả thời kỳ ngay trước, thời kỳ t-1
1.2.1. Chỉ số giá tiêu dùng CPI
Không tồn tại một phép đo chính xác tỷ lệ lạm phát, vì nó phụ thuộc vào
tỷ trọng người ta gán cho mỗi hàng hóa, dịch vụ và phạm vi kinh tế mà nó thực
hiện. Thước đo được sủ dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá tiêu dùng – CPI

(Consumer Price Index). CPI đo lường giá cả của một “rổ” hàng hóa tiêu dùng
và dịch vụ được mua bởi người tiêu dùng thông thường, các nhóm chính đó là
lương thực, thực phẩm, đồ uống, may mặc, nhà ở, thiết bị, đồ dùng gia đình,
điện, nước, giáo dục, thuốc và dịch vụ y tế, văn hóa, giải trí, du lịch… CPI được
tính từ việc thu thập thông tin từ hàng nghìn hộ gia đình trên cả nước.
Công thức tính CPI được tính theo phương pháp chỉ số Laspeyres. Chỉ số
giá tiêu dùng năm t, CPI
t
tính theo công thức sau:
Sinh viên: Phan Doãn Thành 4 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
CPI
t
= Chi phí mua hàng hóa thời kỳ t x 100% (2)
Chi phí mua hàng hóa thời kỳ gốc
Trong đó: P
i
là giá hàng hóa, dịch vụ i thời kỳ t
P
0i
là giá hàng hóa, dịch vụ i thời kỳ gốc
Q
0i
là quyền số của hàng hóa, dịch vụ i
Ta được:
CPI
t
= x 100% (3)
Tỷ lệ lạm phát
t

=
CPI
t
- CPI
t-1
x 100% (4)
CPI
t-1
Trong công thức (3), khi tính CPI
t
thì chỉ cần tính giá P
i
của mặt hàng i,
còn P
0i
và Q
0i
đã được xác định trước, thuận tiện hơn khi làm thống kê. Vì CPI
tính theo phương pháp chỉ số Laspeyres nên CPI ước lượng lạm phát cao hơn sự
ảnh hưởng thật sự của lạm phát đang xẩy ra.
*Ở Việt Nam chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố. Ngoài
chỉ số giá tiêu dùng chung của cả nước, chỉ số giá tiêu dùng của khu vực nông
thôn, chỉ số của 8 vùng kinh tế, Tổng cục Thống kê công bố thêm chỉ số giá tiêu
dùng của khu vực thành thị. Giai đoạn 2009 – 2014, cách tính chỉ số giá tiêu
dùng theo Tổng cục Thống kê được tính như sau:
Sinh viên: Phan Doãn Thành 5 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
- Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng yêu cầu phải có 2 yếu tố: giá bán lẻ
của hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng đại diện và quyền số là cơ cấu chi tiêu cho tiêu
dùng của dân cư.

- Năm gốc so sánh của chỉ số giá tiêu dùng trong giai đoạn 2009-2014 là
năm 2009.
- Danh mục hàng hoá, dịch vụ (còn gọi là “rổ hàng hoá”) điều tra giá để
tính chỉ số bao gồm 573 mặt hàng.
- Quyền số dùng tính chỉ số giá tiêu dùng được cho theo bảng sau:
Bảng 1.1: Quyền số dùng tính chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam
thời kỳ 2009 – 2014
Đơn vị: %
Mã Các nhóm hàng và dịch vụ Quyền số
C Tổng chi cho tiêu dùng cuối cùng 100,00
01 I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 39,93
011 1. Lương thực 8,18
012 2. Thực phẩm 24,35
013 3. Ăn uống ngoài gia đình 7,40
02 II. Đồ uống và thuốc lá 4,03
03 III. May mặc, mũ nón, giày dép 7,28
04 IV. Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng 10,01
05 V. Thiết bị và đồ dùng gia đình 8,65
06 VI. Thuốc và dịch vụ y tế 5,61
07 VII. Giao thông 8,87
08 VIII. Bưu chính viễn thông 2,73
09 IX. Giáo dục 5,72
10 X. Văn hoá, giải trí và du lịch 3,83
11 XI. Hàng hoá và dịch vụ khác 3,34
Sinh viên: Phan Doãn Thành 6 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
1.2.2. Chỉ số giá cả sản xuất PPI
Chỉ số cũng thường được dùng là chỉ số giá cả sản xuất – PPI (Producer
Price Index), là chỉ số giá bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần

đầu tiên bán do người sản xuất ấn định, không tính giá bổ xung qua đại lý hay
thuế doanh thu. Nếu CPI được tính trên giá “rổ hàng hóa” mua bởi người tiêu
dùng thông thường thì PPI được tính trên giá bán của người sản xuất. Các hàng
hóa nhập khẩu vẫn tính trong “rổ hàng hóa” khi tính CPI, còn PPI thì không.

Trong đó:
ip: chỉ số giá của từng loại nhóm hàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng
PPI cũng được phương pháp chỉ số Laspeyes.
1.2.3. Chỉ số giảm phát GNP
Ngoài 2 chỉ số trên, chỉ số GNP cũng được sử dụng. Đây chính là chỉ số
giảm phát, chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP.
Chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa
GDP thực tế
Tuy nhiên, nếu mục tiêu là xác định ảnh hưởng của lạm phát tới mức sống
thì rõ ràng chỉ số chỉ số giá tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn.
2. Phân loại lạm phát
Cũng như ở trên đã có rất nhiều cách hiểu ở các góc độ khác nhau về lạm
phát thì ở phần này cũng có thể phân loại lạm phát theo nhiều tiêu chí khác
nhau. Dựa trên các tiêu thức phân loại mà có nhiều cách phân loại lạm phát khác
nhau.
2.1. Về mặt định lượng
Sinh viên: Phan Doãn Thành 7 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ lạm phát tính theo hàng năm (đơn vị %),
người ta chia lạm phát ra làm 3 loại.
+ Lạm phát 1 con số mỗi năm: còn gọi là lạm phát vừa phải, có tỷ lệ lạm
phát dưới 10% một năm. Lạm phát một con số làm cho giá cả biến động tương
đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của
người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng chậm, lãi suất

tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số
lượng lớn… Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được,
những tác động không tốt của nó là không đáng kể. Mặt khác, lạm phát ở mức
này tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong
thời gian này, các hãng kinh doanh có khoản thu ổn định, ít rủi ro và sẵn sàng
đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo sự phát triển của nền kinh tế.
+ Lạm phát hai con số mỗi năm: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối
nhanh với tỷ lệ hai con số một năm. Ở mức hai con số thấp (11%, 12%, 13%
một năm) thì tác động tiêu cực của nó là chưa đáng kể. Nhưng nếu tỷ lệ lạm phát
ở mức hai chữ số cao sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, sản xuất,
thu nhập thực tế sẽ bị ảnh hưởng, gây biến động lớn về kinh tế. Các hợp đồng
được chỉ số hoá. Lúc này người dân tránh tích trữ tiền mặt, mà thay vào đó là
tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và các tài sản khác nhằm giảm thiểu
tác động của lạm phát lên tài sản. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra
những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
+ Siêu lạm phát: tỷ lệ lạm phát ở mức 3 chữ số một năm trở lên. Giá cả
tăng nhanh và không ổn định, tiền lương thực tế của người lao động bị giảm
mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị
trường biến dạng và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn.
Tuy nhiên siêu lạm phát ít khi xảy ra. Trong thế kỷ 20, siêu lạm phát xẩy ra 17
lần ở Đông Âu và Trung Á, 5 lần ở Mỹ Latinh, bốn lần ở Tây Âu, một lần ở
Đông Nam Á và một lần ở châu Phi. Trong số đó, có 5 lần siêu lạm phát rơi vào
mức thảm kịch tồi tệ nhất trong lịch sử.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 8 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Bảng 2.1: Các nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất trong lịch sử
Nước
Đơn vị tiền
tệ
Giai

đoạn
Tháng
có tỷ lệ
lạm
phát cao
nhất
Tỷ lệ
lạm phát
tháng
cao nhất
Tỷ lệ lạm
phát
tương
đương
ngày
Thời
gian
giá cả
tăng
gấp đôi
Germany
German
Papiermark
1922
-1923
10/1923 29.500% 20,90%
3,7
ngày
Greece
Greek

drachma
1942
-1944
10/1944 13.800% 17,90%
4,3
ngày
Hungary
Hungarian
pengő
1945
-1946
7/1946
4,19 ×
10
16
%
207% 15 giờ
China Renminbi
1948
-1949
5/1949 2.178% 11%
6,7
ngày
Yugoslavia
Yugoslav
dinar
1989
-1994
1/1994
3,13 ×

10
8
%
64,60%
1,4
ngày
Zimbabwe
Zimbabwe
dollar
2008 11/2008
7,96 ×
10
10
%
98%
24,7
giờ
(Nguồn: tổng hợp)
2.2. Về mặt định tính
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng.
+ Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao
động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến
nền kinh tế nói chung.
+ Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của
người lao động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
- Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
+ Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một
thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể
dự đoán trước được biến động của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý,

người dân đã biết trước tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. do đó
Sinh viên: Phan Doãn Thành 9 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
các hợp đồng có giá trị như tín dụng, tiền lương, bảo hiểm… đã được tính thêm
yếu tố lạm phát. Do đó ít gây ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế.
+ Lạm phát bất thường: loại lạm phát này là loại lạm phát mà mức độ
biến động của nó không giống như dự tính. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến
tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát
này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và giá trị của đồng tiền.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 10 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
3.1. Cung ứng tiền tệ và lạm phát
Theo quan điểm của các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ, khi cung tiền tệ
tăng lên sẽ kéo dài làm cho mức giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát.

Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1 với sản lượng đạt ở mức sản lượng tự nhiên
Y
n
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P
1
- điểm giao nhau của đường tổng
Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1 với sản lượng đạt ở mức sản lượng tự nhiên
Yn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P1 - điểm giao nhau của đường tổng
cung AS1 và đường tổng cầu AD1. Khi cung tiền tệ tăng lên thì đường tổng cầu
di chuyển sang phải đến AD
2
. Trong thời gian rất ngắn, nền kinh tế chuyển động
đến điểm 1


và sản phẩm tăng trên mức tỷ lệ tự nhiên tức là đạt tới Y
1
( Y
1
> Y
n
).
Điều đó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên, tiền lương tăng lên và làm giảm tổng cung - đường tổng cung dịch
chuyển vào đến AS
2
. Tại đây, nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản
phẩm trên đường tổng cung dài hạn. Ở điểm cân bằng mới ( điểm 2 ), mức giá
đã tăng từ P
1
đến P
2
.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 11 Lớp: TCDN50A
AS
3
Tổng mức giá
P AS
2

AS
1

P
3

3
2’
P
2

2
1’
P
1
1


AD
3
AD
2
AD
1
Y
Y
n
Y
1
Tổng sản phẩm
Cung ứng tiền tệ và lạm phát tiền tệ
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Cung tiền tệ tiếp tục tăng lên, đường tổng cầu lại dịch chuyển ra đến AD
3
và đường tổng cung tiếp tục dịch chuyển vào đến AS
3

nền kinh tế đạt tới mức
cân bằng mới tại điểm 3. Tại đây, mức giá cả đã tăng lên đến P
3
. Nếu cung tiền
tệ vẫn tiếp tục tăng thì sự dịch chuyển của đường tổng cầu và tổng cung như trên
lại tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn, lạm phát
tăng cao.
Những phân tích của phái Keynes về tác động của việc tăng chi tiêu của
chính phủ hoặc cắt giảm thuế cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao.
Nhưng những vấn đề của chính sách tài khóa lại có giới hạn của nó, vì việc tăng
lên của tỷ lệ lạm phát trong trường hợp này chỉ là tạm thời. Một phân tích khác
của phái Keynes về tác động của những cú sốc tiêu cực lên tổng cung ( như việc
tăng giá dầu do hậu quả của lệnh cấm vận dầu mỏ, đấu tranh của công nhân đòi
tăng lương ) cũng sẽ làm cho giá cả tăng lên. Nhưng nếu cung tiền tệ không tiếp
tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì sẽ dẫn đến một lúc nào đó, tổng cung
quay trở lại vị trí ban đầu, do vậy sự tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là
một hiện tượng nhất thời.
Với những phân tích như vậy, quan điểm của phái Keynes và phái tiền tệ
tương đối thống nhất nhau. Họ đều tin rằng: lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với
một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao.
3.2. Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát
Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số các chính phủ các nước
theo đuổi cũng thường gây ra lạm phát, đó là mục tiêu công ăn việc làm cao.
Có hai loại lạm phát và kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm
thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao, đó là lạm phát phí - đẩy và lạm phát
cầu - kéo.
* Lạm phát phí - đẩy: Xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do kết
quả của những cuộc đấu tranh đòi tăng lương gây ra.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 12 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ

Lúc đầu, nền kinh tế ở tại điểm 1 là giao điểm của đường tổng cầu AD
1

đường tổng cung AS
1
với mức sản lượng tự nhiên ( sản lượng tiềm năng ) và tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên. Do mong muốn có được mức sống cao hơn hoặc cho
rằng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế tăng cao, người công nhân đấu
tranh đòi tăng lương. Vì tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
nên những đòi hỏi tăng lương của công nhân dễ được giới chủ chấp nhận. Ảnh
hưởng của việc tăng lương làm đường tổng cung AS
1
dịch chuyển vào đến AS
2
.
Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 đến điểm 1’ - giao điểm của đường tổng
cung mới AS
2
và đường tổng cầu AD
1
. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản
lượng tự nhiên Y’ ( Y’ < Y ) và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên, đồng thời mức giá cả tăng lên đến P’
1
. Vì mục đích muốn duy trì một
mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại, chính phủ sẽ thực hiện các chính sách
điều chỉnh năng động hơn nhằm tác động lên tổng cầu làm tăng tổng cầu, lúc
này đường tổng cầu AD
1
dịch chuyển ra AD

2
, nền kinh tế quay trở lại mức sản
lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại điểm cân bằng mới - điểm 2,
mức giá cả đã tăng lên đến P
2
.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 13 Lớp: TCDN50A
Tổng mức giá AS
3
P AS
2
3’ 3 AS
1
P
3

P
2’
2’ 2
P
2
AD
3
P
1’
P
1
1’
1 AD
2


AD
1


Y
Y’
n
Y Tổng sản phẩm

Lạm phát phí - đẩy
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Các công nhân đã được nhượng bộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp tục
đòi tăng lương lên cao hơn. Đồng thời, những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sự
chênh lệch về mức lương trong tầng lớp công nhân, tình trạng đòi tăng lương lại
tiếp diễn, kết quả là đường tổng cung lại di chuyển vào đến AS
3,
thất nghiệp lại
tăng lên cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên và chính phủ lại tiếp tục phải thực hiện các
chính sách điều chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu ra AD
3
để đưa
nền kinh tế trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức
giá cả cũng tăng lên đến P
3
. Nếu quá trình này cứ tiếp tục tiếp diễn thì kết quả sẽ
là việc tăng liên tục của mức giá cả, đây chính là tình trạng lạm phát phí đẩy.
Theo cách phân tích của phái Keynes, những chính sách tài chính luôn có
những giới hạn của nó, nên mặc dù những chính sách này gây ra những tác động
làm tăng tổng cầu nhưng đó chỉ là tăng từng đợt không thể sử dụng trong thời

gian dài. Như vậy, nó không thể sử dụng để di chuyển liên tục đường tổng cầu.
Việc di chuyển liên tục đường tổng cầu chỉ có thể là việc tăng cung ứng tiền tệ
liên tục, do đó lạm phát phí đẩy cũng là hiện tượng tiền tệ.
* Lạm phát cầu kéo: Đây cũng là một trường hợp khác của lạm phát vì
mục đích công ăn việc làm cao dẫn đến lạm phát cao.
Giả sử ban đầu nền kinh tế ở điểm cân bằng 1 với sản lượng đạt ở mức
Sinh viên: Phan Doãn Thành 14 Lớp: TCDN50A
AS
3
Tổng mức giá
AS
2
P
AS
1
P
3
3
2

P
2
2
1


P
1
1




AD
3
AD
2

AD
1
Y
Y
n
Y
1
Tổng sản phẩm



Lạm phát cầu kéo
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Giả sử ban đầu nền kinh tế ở điểm cân bằng 1 với sản lượng đạt ở mức
sản lượng tự nhiên Y
n
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Nếu các nhà hoạch định chính
sách sẽ hoạch định và theo đuổi một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên.
Để đạt được mục tiêu này, các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra
những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm
năng, mức chỉ tiêu sản lượng cần đạt được đó là Y
1

( Y
1
> Y
n
). Các biện pháp mà
họ sẽ đưa ra là tác động lên tổng cầu và làm tăng tổng cầu, đường tổng cầu sẽ
dịch chuyển ra đến AD
2,
nền kinh tế chuyển đến điểm 1’ ( giao điểm giữa đường
tổng cầu AD
2
và đường tổng cung cũ AS
1
). Sản lượng bây giờ đã đạt được tới
mức Y
1
lớn hơn mức sản lượng tiềm năng và mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được.
Điều này dẫn đến tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ di chuyển vào
đến AS
2
đưa nền kinh tế từ điểm 1’ chuyển sang điểm 2’. Nền kinh tế quay trở về
với mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá
cả P
2
cao hơn P
1
.
Đến lúc này, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên lại cao hơn mục tiêu mà các nhà
hoạch định chính sách cần đạt được. Do đó họ lại tiếp tục thực hiện các chính

sách làm tăng tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục và đẩy giá cả trong nền
kinh tế lên cao hơn.
Như đã phân tích ở trên đây, do giới hạn của những chính sách tài chính
nên việc tăng liên tục của tổng cầu chỉ có thể là kết quả của một quá trình tăng
cung ứng tiền tệ liên tục. Do vậy, giống như lạm phát phí - đẩy, lạm phát cầu -
kéo cũng là một hiện tượng tiền tệ.
3.3. Thâm hụt ngân sách và lạm phát
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng
tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bằng
biện pháp phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường tài chính để vay vốn
Sinh viên: Phan Doãn Thành 15 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
trong dân chúng, bù đắp cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh
hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra
lạm phát. Một biện pháp khác để bù đắp thâm hụt ngân sách là phát hành tiền.
Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền tệ,
đẩy tổng cẩu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát.
Ở các nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát
hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt ngân sách là rất khó thực
hiện. Đối với các nước này, biện pháp duy nhất để bù đắp thâm hụt ngân sách là
in thêm tiền. Vì thế khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước của các quốc gia này
tăng cao thì lạm phát cũng tăng nhanh. Còn ở các quốc gia phát triển có thị
trường vốn phát triển thì có một khối lượng lớn trái phiếu chính phủ có thể được
bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách nhà nước được thực hiện từ
nguồn vốn vay của chính phủ. Tuy nhiên, nếu Chính phủ cứ tiếp tục phát hành
trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng, do đó sẽ dẫn tới lãi suất sẽ tăng
cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất thị trường, Ngân hàng trung ương sẽ phải mua
vào các trái phiếu đó, điều này lại làm cho cung tiền tệ tăng.
Như vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước

cao và kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát.
3.4. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài cũng là
nguyên nhân gây ra lạm phát.
Thứ nhất, khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm
lý của người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá
hối đoái.
Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng
cao, đẩy chi phí về phía nguyên liệu tăng lên lại quay trở về lạm phát phí đẩy
như đã trình bày ở trên. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu
thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều các hàng hóa
khác, đặc biệt là các hàng hóa của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập
Sinh viên: Phan Doãn Thành 16 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau ( nguyên liệu của ngành
này là sản phẩm của ngành khác ).
4. Tác động của lạm phát
4.1. Lạm phát và lãi suất
Từ thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới, các nhà kinh tế
cho rằng: lạm phát cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội của một quốc gia và một trong những tác động
đó là lãi suất.
Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng phải
luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có của mình, tức là
luôn phải giữ cho lãi suất thực ổn định. Ta biết rằng:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Do đó, khi tỷ lệ lạm
phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng
lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà
nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
4.2. Lạm phát và thu nhập thực tế

Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm
giảm thu nhập thực tế của người lao động. Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị
thực của những tài sản không có lãi ( tức tiền mặt ) mà nó còn làm hao mòn giá
trị của những tài sản có lãi, tức làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi, các
khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do chính sách thuế của nhà nước được tính trên
cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng
lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao, điều đó làm cho số tiền
thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao ( mặc dù thuế suất
vẫn không tăng ). Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng ( thu nhập sau thuế ) thu
nhập thực ( thu nhập sau khi loại trừ tác động của lạm phát ) mà người cho vay
nhận được bị giảm sút.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 17 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở
lên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với chính phủ và
những hậu quả về chính trị - xã hội có thể xảy ra.
4.3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát
tăng cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là người được
lợi. Điều này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi
vay và người cho vay. Hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy những người kinh doanh
tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng thêm nhu cầu
tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.
Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có, dùng tiền
của mình vơ vét và thu gom hàng hóa, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng
này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị
trường, giá cả hàng hóa cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng, những người
nghèo vốn đã nghèo khó càng trở nên nghèo khó hơn.
4.4. Lạm phát và nợ quốc gia
Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào

người dân, nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn. Chính
phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là vì: Lạm
phát đã làm tăng tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh
hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 18 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
PHẦN II
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
1. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2010
1.1. Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2010
Diễn biến của lạm phát ở Việt nam trong giai đoạn 2007 đến 2010 theo
bảng và theo biểu đồ sau:
Năm 2007 2008 2009 2010
Tỷ lệ lạm phát
(%)
12,63 22,97 6,88 11,75
( Nguồn: Tổng cục thống kê - Chỉ số giá cả tiêu dùng qua các năm )
Chúng ta đều biết rằng: Lạm phát trong kinh tế học được hiểu là sự tăng
giá chung. Lạm phát thường có nguyên nhân từ tiền tệ do ngân hàng nhà nước
cung ứng quá nhiều tiền trong lưu thông. Lạm phát cũng có thể có nguyên nhân
từ việc tăng giá do cầu tăng mạnh đột biến lớn hơn khả năng sản xuất của nền
kinh tế tạo ra lạm phát do cầu kéo. Chi phí sản xuất gia tăng cũng đẩy giá hàng
hóa lên cao tạo ra lạm phát do chi phí đẩy.
* Lạm phát vào giai đoạn năm 2007.
Năm 2007, dù đã thắt chặt chính sách tiền tệ, song tỷ lệ lạm phát ở Việt
Nam vẫn tương đối cao, đặc biệt là vào tháng cuối năm.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 19 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Dựa theo tiêu chuẩn quốc tế thì mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam

trong năm 2007 ước tính khoảng 1% GDP (không khác nhiều so với các năm
trước). Thâm hụt ngân sách chung (bao gồm cả các hạng mục chi tiêu ngoài
ngân sách như: phát hành trái phiếu Chính phủ cho phát triển giáo dục, hạ tầng
cơ sở, tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại quốc doanh) ước tính ở mức
5% GDP.
Tính đến hết năm 2007, cam kết đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ( FDI )
tăng gấp đôi so với năm 2006, lên mức 20.3 tỷ USD, tổng giá trị thị trường
chứng khoán đạt tới 43% GDP.
Nguyên nhân chính là do giá lương thực và hàng hóa tăng cao. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, năm 2007 đã ghi nhận cán cân vãng lai
thâm hụt ở mức đáng lo ngại, ước tính khoảng 9,3% - 9,7% GDP. Giá lương
thực và lạm phát tăng cùng với thâm hụt thương mại tăng dẫn đến nền kinh tế
phát triển quá nóng. Chính sách ngân sách mở rộng và tín dụng tăng nhanh
dường như đã làm cho sức ép lạm phát gia tăng. Thêm vào đó, các dòng vốn
nước ngoài vào Việt Nam gia tăng đáng kể (gần 70%) đã gây khó khăn cho việc
kiểm soát lạm phát (tạo ra những bất ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nên hiện tượng
bong bóng tại thị trường bất động sản, cụ thể là vào những tháng cuối năm 2007,
giá nhà đất tăng đột biến, trong đó đặc biệt quan trọng là nguyên nhân tỷ giá là
yếu tố phản ánh biến động kinh tế cả trong nước và quốc tế).
Năm 2007 cũng ghi nhận tổng kim ngạch nhập khẩu tăng gần 40%, giá tài
sản tại Việt Nam tăng cao nhất trong vòng vài chục năm trở lại đây, giá cổ phiếu
những tháng đầu năm 2007 tăng phi mã, đã có lúc VN-Index lên đến trên 1.200
điểm.
Tuy nhiên, sự suy giảm của nền kinh tế Mỹ, đồng USD giảm giá, giá cả
nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao, thiên tai, dịch bệnh xảy ra ở
một số địa phương đã tác động bất lợi, làm xuất hiện những khó khăn và biểu
hiện xấu trong nền kinh tế nước ta.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 20 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Có thể nói, lạm phát ở Việt Nam vào giai đoạn này, hội tụ đủ các nguyên

nhân do cả cầu kéo lẫn chi phí đẩy và tiền tệ.
* Lạm phát vào giai đoạn năm 2008.
Năm 2008, chỉ số Lạm phát ở Viêt Nam đã đạt đến mức đỉnh điểm.
Dựa trên các số liệu cập nhật của Tổng cục Thống kê Việt Nam và tình
hình chung của kinh tế thế giới, World Bank (WB) cho rằng nền kinh tế Việt
Nam đang bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng quá nóng. Tỷ lệ lạm phát tăng
mạnh từ mức 6.6% (tháng 12/2006 ) lên mức 15.7% (02/2008).
Mặc dù đã áp dụng rất nhiều chính sách tích cực để làm giảm tỷ lệ lạm
phát vào tháng 6/2008, song chỉ số CPI vẫn có những dấu hiệu thiếu ổn định khi
một số nhóm hàng thiết yếu vẫn có mức tăng cao. Với mức tăng này, so với
cùng kỳ năm 2007 thì chỉ số CPI vẫn cao hơn với mức tăng chung là 20,34%.
Tỷ lệ lạm phát 8 tháng đầu năm của Việt nam đứng ở mức 28.3%, cao
nhất trong vòng 16 năm qua tính từ năm 1992, khi mà Việt nam vẫn còn gặp khó
khăn về tài chính. Trong giai đoạn này, các chuyên gia kinh tế còn dự báo lạm
phát trong cả năm có thể trên 30%, mặc dù Chính phủ đưa ra con số dự đoán là
vào khoảng 25%. Giá thực phẩm nói chung tăng 65% trong tháng 9 so với cùng
thời gian năm ngoái. Giá nhà cửa, vật liệu xây dựng tăng 26%.
Trong thời gian cuối năm 2007 - đầu năm 2008, NHNN đã có những biện
pháp dường như trái ngược nhau dẫn đến tình trạng thiếu khả năng thanh toán
cuả hệ thống ngân hàng thương mại. NHNN mua vốn vào để duy trì tỷ giá tiền
đồng đã làm ảnh hưởng đến tính thanh khoản của tiền đồng trong nền kinh tế.
Tính thanh khoản có thể được nâng cao nhờ nghiệp vụ trung hoà, song NHNN
gần như đã bán hết trái phiếu chính phủ.
Một mặt, lạm phát gia tăng thể hiện sự gia tăng giá quốc tế, đặc biệt là giá
lương thực, thực phẩm, xăng dầu và vật liệu xây dựng. Đồng thời đi cùng đó là
việc gắn chính sách tỷ giá đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ và một nền kinh tế
đang ngày càng mở cửa, sự biến động về giá cả của thế giới đã được phản ánh
nhanh chóng trong mặt bằng giá trong nước. Giá xăng dầu trong nước tăng cũng
Sinh viên: Phan Doãn Thành 21 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ

phản ánh việc từng bước xoá bỏ trợ giá của Chính phủ đối với các doanh nghiệp
phân phối trong nước.
Những tháng quý IV năm 2008, nhờ việc kiểm soát và điều tiết tốt của
Chính phủ, lạm phát ở nước ta đã giảm đáng kể, dù vẫn còn khá cao so với các
năm trước.
* Lạm phát vào giai đoạn năm 2009.
Năm 2009, lạm phát ở Việt Nam vẫn trên 15%. Việt Nam công bố tỷ lệ
lạm phát quý I/2009 xấp xỉ 14.5% so với cùng kỳ năm 2008. Điều này xảy ra
chủ yếu do giá thực phẩm tăng mạnh. Theo Tổng cục Thống kê, trong quý
I/2009, giá thực phẩm tăng hơn 22%. Cũng theo ước tính của Tổng cục Thống
kê, so với tháng 2, giá tiêu dùng trong tháng 3 giảm 0.17% còn giá thực phẩm
giảm 0.46%.
Năm trước, kinh tế Việt Nam tăng trưởng quá nóng với tỷ lệ lạm phát cao
kỷ lục 28,3% vào tháng 8. Từ đó, Chính phủ bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ
và tài khóa, tăng lãi suất để đối phó với lạm phát 2 chữ số, một động thái được
Ngân hàng Thế giới đánh giá là “thành công nổi bật”.
Điều này dẫn đến lạm phát ở Việt nam vào tháng 12 năm 2009 chỉ còn
6.88%
* Lạm phát ở Việt Nam năm 2010
Theo tin từ Tổng cục thống kê, chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng 12/2010 của
cả nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát năm 2010 của cả nước lên tới
11,75%. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu
năm (khoảng 8%).
Trong khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng (cách tính mới của Tổng
cục thống kê), chỉ số lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009. Trong
tháng 12, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31% trong đó nhóm
lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28% so với tháng 11. Ngành bưu
chính viễn thông giảm nhẹ 0,02% so với tháng trước.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 22 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ

Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp
đó là hàng ăn (16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành Giao
thông, hàng hóa và dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu
chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm
2010.
Trong năm 2010, chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ giá USD tăng 7,63%.
1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt nam giai đoạn 2007-2010
Như đã nhận xét nêu trên lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp
của cả ba dạng thức lạm phát: lạm phát tiền tệ (đây là dạng thức chủ yếu), lạm
phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
Lạm phát tiền tệ: Đây là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ ràng. Năm
2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn
đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 30%,
hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Đó là chưa kể sự tăng tín dụng
trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm 2007 và
có thể cả những năm sau.
Theo Tổng cục Thống kê, nguyên nhân của lạm phát là quan hệ tiền và
hàng. Dãy số liệu thống kê từ năm 2007 đến nay cho thấy tăng trưởng tổng
phương tiện thanh toán lớn hơn rất nhiều tăng trưởng GDP trong nền kinh tế
Việt Nam, và khoảng cách này đang có xu hướng dãn rộng thêm.
Năm 2010, dòng ngoại tệ (đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối, đầu tư
gián tiếp nước ngoài) đổ vào Việt Nam lớn đã gây sức ép mạnh mẽ buộc Ngân
hàng Nhà nước phải mua ngoại tệ vào để đảm bảo tỷ giá USD/VND. Vì vậy,
cung tiền ra nền kinh tế cũng tăng lên tương ứng. Thêm vào đó, tăng trưởng
bình quân tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong thời kỳ 2006 - 2010 là 13,3%; trong
khi tăng trưởng GDP bình quân tương ứng chỉ là 7,01%. Với tăng trưởng dựa
trên số lượng như giai đoạn vừa qua, sức ép lạm phát lên nền kinh tế là khó
tránh khỏi.
Sinh viên: Phan Doãn Thành 23 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ

Lạm phát cầu kéo: Do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các
doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ
tăng, thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ
nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng
tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu
hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị
trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của
nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực
trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác
động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây
ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực
phẩm tăng theo.
Lạm phát chi phí đẩy: Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu,
các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần
đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu
( nhập khẩu chiếm đến 80% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị
trường trong nước.
2. Lạm phát ở Việt Nam tính đến tháng 11/2011
2.1. Tình hình lạm phát ở Việt Nam tính đến tháng 11/2011
Chỉ số giá tiêu dùng các tháng ở Việt Nam tính đến ngày 30/11/2011 được
thống kê trong bảng dưới đây:
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Chỉ số giá
tiêu dùng
1,74 2,09 2,17 3,32 2,21 1,09 1,17 0,93 0,82 0,36 0,39
(Nguồn: Tổng Cục thống kê)
Tổng cục Thống kê cho hay chỉ số tiêu dùng CPI tháng 4/2011 tăng
3,32%, được cho là mức cao nhất kể từ tháng 5/2008. Tỷ lệ lạm phát kể từ đầu
năm tới hết tháng 4 là 9,32%, vượt xa ngưỡng 7% mà chính phủ đặt làm mục
tiêu cho cả năm.

Sinh viên: Phan Doãn Thành 24 Lớp: TCDN50A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Thông qua các giải pháp quyết liệt của Chính phủ như: quy định trần lãi
suất huy động, quản lý hoạt động buôn bán vàng và ngoại tệ, rà soát nợ xấu và
các khoản vay của các ngân hàng thương mại, hạn chế tình trạng đầu tư tràn lan
dự án bất động sản, trong sáu tháng cuối năm, tình hình lạm phát đã được kiểm
soát tương đối hiệu quả, cụ thể là chỉ số giá tiêu dùng của các tháng 8, 9, 10, 11
đã giảm xuống mức dưới 1% . Nếu tiếp tục duy trì các biện pháp trong thời gian
qua, chỉ số giá tiêu dùng của tháng 12/2011 ước tính cũng sẽ dưới 1% và đảm
bảo mức CPI của cả năm dưới 18%.
2.2. Nguyên nhân của lạm phát năm 2011
Lạm phát cao trong năm 2011 do nhiều nguyên nhân gây ra chứ không
phải chỉ do sự tăng giá của những nhu yếu phẩm. Nguyên nhân thứ nhất là nhà
nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao bằng mọi giá. Mới đây chính
phủ đặt ra những chỉ tiêu phát triển không thực tế: 7%-7.5% mỗi năm trong 5
năm tới và 7%-8% trong 10 năm tới. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam trải qua
tình trạng lạm phát 11.75% vào năm 2010 cao hơn tất cả những nước láng giềng.
Nhà nước không thể nhắm vào mức phát triển kinh tế cao trong khi cần phải chế
ngự tình trạng lạm phát. Để đạt được mục tiêu phát triển, chính phủ gia tăng
chương trình đầu tư công qua các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hậu quả là
làm tăng mức cầu về tín dụng. Do đó có thể nói rằng lạm phát hiện nay phần
lớn do sức cầu kéo.
Ngoài ra Việt Nam còn có vấn đề bội chi ngân sách tương đương với
8.9% và 5.9% của tổng sản phẩm nội địa (GDP) lần lượt trong hai năm 2009 và
2010. Cán cân thương mại thiếu hụt thường xuyên trong nhiều năm vừa qua.
Mức thiếu hụt này tương đương với 8.9% và 10.2% của GDP trong 2009 và
2010. Những con số này chứng tỏ rằng chi tiêu của nhà nước cao hơn thu nhập
và nhu cầu nhập khẩu cao hơn trị giá hàng xuất khẩu. Hai sự thiếu hụt này tạo áp
lực trên giá cả bằng cả hai tác động cầu kéo và chi phí đẩy. Tuy nhiên trong
Sinh viên: Phan Doãn Thành 25 Lớp: TCDN50A

×