Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép trong quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.39 KB, 28 trang )


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh khu vực hóa toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ,mọi
quốc gia đều đặt vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế lên vị trí hàng đầu.Thông
qua hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam sẽ được gắn kết chặt chẽ với nền
kinh tế quốc tế.Đây chính là tiền đề quan trọng cho hợp tác song phương,đa
phương,tiểu vùng và khu vực trở nên ngày một sôi động trên phạm vi toàn
cầu.Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thế
giới nói chung vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước.Qua
hội nhập kinh tế nền kinh tế của ta sẽ được gắn kết chặt chẽ với nền kinh tế
quốc tế đồng thời tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Là một
bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thế giới , nước ta có thể tận dụng
những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại đồng thời chủ động ứng
phó với những thách thức được đặt ra.
Theo kế hoạch phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, ngành
thép được xác định là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm của nền
kinh tế nước nhà. Vấn đề phát triển ngành thép hiệu quả và bền vững có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng
CNH-HĐH.Ngành thép nước ta đã được Đảng và Nhà nước quan tâm xây
dựng và phát triển từ rất sớm. Ngay từ khi hòa bình lập lại trên miền Bắc, khu
liên hợp gang thép Thái Nguyên- nhà máy sản xuất thép đầu tiên của nước ta
đã được xây dựng với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Sau đó khi đất nước được
thống nhất,chúng ta lại tiếp tục tập trung phát triển ngành sản xuất thép trong
nước để phục vụ phát triển nền kinh tế. Hơn 40 năm qua nhờ những nỗ lực to
lớn của ngành thép, nước ta từ việc phải nhập toàn bộ thép phục vụ cho nhu
cầu nội địa đến nay về cơ bản đã đáp ứng đủ nhu cầu trong nước về thép xây
dựng và một phần xuất khẩu ra thị trường bên ngoài.Vậy hiện tại và tương lai,
liệu ngành thép Việt Nam đã có đủ thế và lực để cùng cả nước bước vào vận
hội mới của những thời cơ và thách thức mà quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế mang lại hay chưa?


Với mục đích tìm hiểu một cách cụ thể hơn về khả năng cạnh tranh
ngành thép của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, em đã lựa chọn đề
tài “Nâng cao khả năng cạnh tranh ngành thép trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế” để nghiên cứu và thực hiện
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm
3 phần :
Phần 1: Những vấn đề lý thuyết cơ bản về khả năng cạnh tranh của
ngành công nghiệp
Phần 2: Thực trạng khả năng cạnh tranh ngành thép Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế
Phần 3: Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam
1
PHẦN 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP
1.1 Thực chất khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp
1.1.1 Khái niệm và phân loại
Khái niệm cạnh tranh đã được đề cập đến từ rất lâu.Theo các học giả
trường phái tư sản cổ điển:’ Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi
phản ứng .Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa
hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so
với khả năng của mình ‘.Qua thời gian và không gian, các quan niệm về cạnh
tranh cũng khác nhau.Theo Từ điển kinh doanh Anh xuất bản năm 1992,cạnh
tranh được xem là’ sự ganh đua, sự kình địch của các nhà kinh doanh trên thị
trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một
loại khách hàng về phía mình’
Ở Việt Nam, đề cập đến ‘cạnh tranh’,một số nhà khoa học cho rằng
cạnh tranh là vấn đề dành lợi thế về gía cả hàng hóa-dịch vụ và đó là phương
thức để dành lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể kinh tế.Như vậy, nếu xét về
ngành công nghiệp cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một

cách tối ưu và do đó trở thành động lực bên trong thúc đẩy ngành công nghiệp
phát triển.Đồng thời, với tối đa hóa lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh ,
cạnh tranh ngành công nghiệp cũng là quá trình tích lũy và tập trung tư bản
không đồng đều ở các doanh nghiệp .Và từ đó,cạnh tranh còn là môi trường
phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với điều kiện
thị trường.
Xét theo phạm vi ngành kinh tế ,cạnh tranh được chia làm hai loại:
+, Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các chủ doanh
nghiệp sản xuất , kinh doanh một loại hàng hóa dịch vụ.Trong đó, các doanh
nghiệp yếu kém phải thu nhỏ hoạt động kinh doanh, thậm chí bị phá sản, các
doanh nghiệp mạnh sẽ chiếm ưu thế.Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cuộc
cạnh tranh tất yếu xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận
của doanh nghiệp.
+, Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau
nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn.Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra
xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi
nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn tới hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân.
1.1.2 Các cấp độ của khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh có thể phân biệt thành bốn cấp độ: Khả năng cạnh tranh
cấp quốc gia, cấp ngành,khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm hàng
hóa.Chúng có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Trong một
báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của diễn đàn kinh tế thế giới(WEF) năm 1997
2
đã nêu ra:’ Khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các
chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”. Như vậy,
khả năng cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh
tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì
mức tăng trưởng cao và bền vững.

Một sản phẩm hàng hóa được coi là có khả năng cạnh tranh khi nó đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng,giá cả,tính năng, kiểu dáng,
thương hiệu…hơn hẳn so với sản phẩm hàng hóa cùng loại.Nhưng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa lại được định đoạt bởi khả năng cạnh tranh
của ngành. Sẽ không có khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa cao khi
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành sản xuất sản phẩm đó
thấp.Ngành được định nghĩa là một nhóm những công ty chào bán một sản
phẩm hay một lớp sản phẩm có thể hoàn toàn thay thế nhau được .Ta vẫn
thường nói ngành công nghiệp ôtô, ngành dầu mỏ hay ngành dược phẩm…
Các nhà kinh tế định nghĩa những sản phẩm hoàn toàn thay thế nhau là những
sản phẩm có nhu cầu co giãn lẫn nhau lớn.Nếu giá của một sản phẩm tăng lên
và làm cho cầu đối với một sản phẩm khác cũng tăng lên , thì hai sản phẩm đó
hoàn toàn thay thế nhau được.Các nhà kinh tế còn đưa khung chuẩn để tìm
hiểu các động thái của ngành.Về cơ bản, việc phân tích bắt đầu từ việc tìm
hiểu những điều kiện cơ bản tạo nên cơ sở cho cầu và cung.Những điều kiện
này lại ảnh hưởng đến cơ cấu ngành .Cơ cấu ngành đến lượt nó lại ảnh hưởng
đến sự chỉ đạo của ngành trong lĩnh vực như phát triển sản phẩm, định giá và
chiến lược quảng cáo.Sau đó,sự chỉ đạo của ngành sẽ quyết định đến kết quả
của ngành như hiệu suất của ngành, tiến bộ công nghệ…Vì vậy, khă năng
cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của khả năng cạnh
tranh cấp quốc gia, của doanh nghiệp và cả sản phẩm
1.2 Tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp
Khi nói đến” khả năng cạnh tranh” người ta thường nói đến bảng xếp
hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Diễn đàn Kinh tế Thế giới( World
Economic Forum-WEF).Theo đó, các quốc gia được đo lường theo những
tiêu chí chính: những yếu tố cơ bản, các yếu tố tăng cường hiệu quả, các yếu
tố đổi mới và sành sỏi. Thêm vào đó, khả năng cạnh tranh cấp tỉnh(PCI) do
Dự án Sáng kiến Năng lực cạnh tranh(VNCI) và phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam(VCCI) công bố hàng năm.Thiết nghĩ, đó là những công bố”
cấp trên” còn cấp dưới cần phải có những tiêu chí cụ thể hơn.

Khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp nói chung và doanh nghiệp
nói riêng là thể hiện thực lực và lợi thế của ngành, doanh ngiệp đó so với đối
thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất của khách hàng để thu lợi nhuận
ngày càng cao hơn.Như vậy, khả năng cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp
trước hết phải được tạo ra từ thực lực của ngành, doanh nghiệp đó.Đây là các
3
yếu tố nội hàm của mỗi ngành không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công
nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt
mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng
một lĩnh vực , cùng một thị trường.Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và
điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so
sánh một cách tương ứng với các đối thủ cạnh tranh.Trên cơ sở so sánh đó,
muốn tạo nên khả năng cạnh tranh đòi hỏi ngành phải tạo lập được lợi thế so
sánh với các đối tác của mình.Nhờ lợi thế này, ngành có thể thỏa mãn tốt hơn
các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của
đối tác cạnh tranh.
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của mỗi ngành, cần phải xác định được
các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác
nhau và cần thực hiện đánh giá bằng cả định tính và định lượng.Hiện nay, để
đo lường khả năng cạnh tranh của ngành thường sử dụng bộ thang đo ban đầu
bao gồm: định hướng kinh doanh của ngành, năng lực marketing của ngành,
năng lực sáng tạo của ngành, khả năng tổ chức dịch vụ của ngành, định hướng
học hỏi của ngành.Các ngành hoạt động sản xuất kinh doanh ở những lĩnh
vực khác nhau có các tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh khác nhau .Mặc
dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh
của ngành bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ, chất lượng sản phẩm và bao
gói, kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng, thông tin và xúc tiến
thương mại, năng lực nghiên cứu và phát triển, thương hiệu và uy tín của
ngành, trình độ lao động, thị phần sản phẩm của ngành, vị thế tài chính, năng
lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, nhiều ngành hiện nay thông qua phương pháp so sánh trực
tiếp các tiêu chí nêu trên để đánh giá khả năng cạnh tranh của mình so với các
đối tác cạnh tranh.Đây là phương pháp truyền thống và phần nào đánh giá
được khả năng cạnh tranh của ngành.Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp
này là không cho phép ngành đánh giá tổng quát khả năng cạnh tranh của
mình với đối tác cạnh tranh mà chỉ đánh giá từng mặt, từng yếu tố cụ thể. Để
khắc phục nhược điểm nêu trên, việc nghiên cứu vận dụng ma trận đánh giá
các yếu tố môi trường nội bộ qua đó giúp ngành so sánh khả năng cạnh tranh
tổng thể của mình với các đối thủ là một giải pháp mang tính khả thi cao.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành
công nghiệp
Đã có nhiều nghiên cứu, trong đó nghiên cứu của M.E Porter là một
điển hình rất rõ nét về vai trò tác động của các yếu tố cấu trúc quyết định khả
năng cạnh tranh trên thị trường.Theo M.E Porter thì có 5 yếu tố tham gia
quyết định khả năng cạnh tranh.
4
1.3.1 Sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành
Trước hết, các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành quyết định tính
chất và mức độ tranh đua nhằm giành giật lợi thế cạnh tranh mà mục đích
cuối cùng là giữ vững và phát triển thị phần hiện có, đảm bảo có thể có được
mức lợi nhuận cao nhất.Sự cạnh tranh của các đối thủ hiện tại có xu hướng
làm tăng cường độ cạnh tranh và làm giảm mức lợi nhuận ngành.Có nhiều
hình thức và công cụ cạnh tranh được các đối thủ sử dụng khi cạnh tranh trên
thị trường ví dụ như cạnh tranh về giá hoặc cạnh tranh về chất lượng sản
phẩm.Trên thực tế, các đối thủ cạnh tranh với nhau thường sử dụng công cụ
cạnh tranh tổng hợp, trên cơ sở cạnh tranh về giá với các hình thức và công cụ
cạnh tranh khác như: chất lượng sản phẩm cùng với áp dụng sự khác biệt về
sản phẩm, marketing…Thường thì cạnh tranh trở nên khốc liệt khi ngành ở
giai đoạn bão hòa hoặc suy thoái, hoặc có đông các đối thủ cạnh tranh bằng
vai phải lứa với các chiến lược kinh doanh đa dạng và do những rào cản kinh

tế làm cho các doanh nghiệp khó tự do di chuyển sang các ngành khác .Để có
thể bảo vệ khả năng cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp cần phải thu nhập
đủ thông tin cần thiết về các đối thủ cạnh tranh chính có sức mạnh trên thị
trường và tình trạng ngành để làm cơ sở hoạch định chiến lược.
1.3.2 Nguy cơ đe dọa nhập ngành từ các đối thủ tiềm ẩn
Hiểu biết đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn luôn có ý nghĩa quan trọng đối với
các doanh nghiệp vì sự xuất hiện của các đối thủ mới.,đặc biệt khi các đối thủ
này có khả năng mở rộng sản xuất và chiếm lĩnh thị phần , sẽ làm cạnh tranh
trở nên khốc liệt và không ổn định.Để hạn chế sự đe dọa các đối thủ tiềm
ẩn,các doanh nghiệp thường duy trì và không ngừng nâng cao các hàng rào
bảo vệ hợp pháp, đặc biệt là về công nghệ.Trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay,các công ty xuyên quốc gia hoặc các công ty nước ngoài có
tiềm lực tài chính và công nghệ thực sự là đối thủ nặng kí đối với các doanh
nghiệp kinh doanh trong nước.
5
Doanh nghiệp và các
đối thủ hiện tại
Nhưng người muốn vào
mới (cạnh tranh tiềm tàng
Áp lực người mua
Sản phẩm dịch vụ
thay thế
Áp lực từ nhà cung
ứng
1.3.3 Quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người mua
Đối với các doanh nghiệp thì mọi việc chỉ có ý nghĩa khi tiêu thụ được
sản phẩm và có lãi.Chính vì vậy, sự tín nhiệm của khách hàng luôn là tài sản
có giá trị quan trọng của doanh nghiệp và doanh nghiệp có được là do doanh
nghiệp biết cách thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so
với các đối thủ cạnh tranh khác.Người mua luôn muốn trả giá thấp vì vậy sẽ

thực hiện việc ép giá, gây áp lực đòi chất lượng cao hơn hoặc đòi được phục
vụ nhiều hơn đối với doanh nghiệp khi có điều kiện, điều kiện này làm giảm
lợi nhuận của doanh nghiệp.Để hạn chế bớt quyền thương lượng của người
mua , các doanh nghiệp cần phải phân loại khách hàng hiện tại và tương lai
cùng với nhu cầu và thị hiếu của họ làm cơ sở định hướng cho kế hoạch
marketing và chiến lược kinh doanh nói chung.
1.3.4 Quyền thương lượng hay khả năng ép giá của người cung ứng
Người cung ứng các yếu tố đầu vào luôn muốn thu nhiều lợi nhuận, vì vậy
họ có thể đe dọa tăng giá hay giảm chất lượng sản phẩm đặt mua.,nhằm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp khi họ có điều kiện .Trong thực tế,các doanh nghiệp luôn
phải ứng phó một cách thường xuyên đến nguồn cung ứng ngay trong nội bộ
doanh nghiệp, có thể đó là lực lượng lao động, đặc biệt với những lao động có
trình độ cao vì khả năng thu hút và giữ được các nhân viên có năng lực là một tiền
đề quan trọng đảm bảo sự thành công của doanh nghiệp
1.3.5 Nguy cơ đe dọa từ các sản phẩm thay thế
Các sản phẩm thay thế luôn có thể có tác động lớn đến mức độ lợi nhuận
tiềm năng của ngành nhất là những sản phẩm có chu kì sống ngắn như máy
tính, đồ điện tử…Vì phần lớn các sản phẩm thay thế là kết quả của quá trình
thay đổi công nghệ, nên thường có ưu thế về chất lượng và giá thành sản
phẩm, mặc dù giá thành ban đầu có thể cao hơn so với các sản phẩm hiện có
bán trên thị trường .Biện pháp chủ yếu sử dụng để hạn chế sự tác động của
sản phẩm thay thế là tăng cường đầu tư cho doanh nghiệp, đổi mới công nghệ,
nâng cao trình độ quản lý…nhằm giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản
phẩm hoặc tăng cường tính độc đáo khác biệt của sản phẩm.

6
PHẦN 2
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH NGÀNH THÉP
VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ

Ngành thép là ngành công nghiệp cơ sở của mỗi quốc gia nên được sự
ưu đãi về thuế và các chính sách khác của Chính phủ nên hoạt động của
ngành ít chịu sự rủi ro do biến cố của thị trường. Nền công nghiệp gang thép
mạnh là sự đảm bảo ổn định và đi lên của nền kinh tế một cách chủ động và
vững chắc. Tốc độ tăng trưởng của ngành khoảng 15%/năm trong thời gian
dài sắp tới , cao hơn tốc độ tăng trưởng GPD 7,49% /năm của Việt Nam. Bên
cạnh đó, có khá nhiều dự án đầu tư vào ngành thép và nhận được sự hỗ trợ
của nước ngoài do đó ngành thép có cơ hội trao đổi khoa học công nghệ từ
phía các đối tác nước ngoài giúp hoạt động của ngành hiệu quả hơn ,tiết kiệm
được chi phí. Chín tháng đầu năm 2010, tình hình sản xuất và tiêu thụ thép
trong nước tiếp tục tăng trưởng so với cùng kì năm 2009, trong đó sản xuất
tăng 19% và tiêu thụ tăng 18%, sản xuất phôi thép đạt 2,3 triệu tấn. Ngành
thép có nhiều khả năng trong tương lai sẽ là một trong những nhân tố quan
trọng giúp Việt Nam tận dụng được những cơ hội to lớn mà quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ Vậy ngành thép trong thời gian
qua đã phát triển lớn mạnh ra sao hay còn nhiều hạn chế? Dưới đây xin điểm
lại một số nét cơ bản trong phát triển và xây dựng ngành thép Việt Nam trong
những năm gần đây.
2.1 Thực trạng hiện nay
2.1 .1 Về cung
Việt Nam đang trong quá trình CNH-HĐH nên rất cần nguyên vật liệu phục
vụ cho xác định cơ sở hạ tầng và phát triển các ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất
đồ gia dụng…Hiện nay sản xuất thép cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu trong nước .
Mỗi năm xuất khẩu trên 400.000 tấn thép xây dựng.Hiện nay công suất của các nhà
máy cán thép trong nước đạt 6-7 triệu tấn/năm. Mặc dù sản xuất thép trong nước có
tăng nhưng chủ yếu là các loại thép dài dùng trong xây dựng do vậy chưa đáp ứng
được nhu cầu về các loại thép dẹt và nguồn nguyên liệu đầu vào. Điều đó cho thấy
sự mất cân đối trong nguồn cung thép của Việt Nam.Để cung thép đáp ứng tiêu
dùng của Việt Nam bao gồm 2 nguồn là tự sản xuất trong nước và nhập khẩu từ bên
ngoài. Cụ thể như sau:

Sản xuất thép của các doanh nghiệp trong nước: Hiện có khoảng 75
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thép nằm trong Hiệp hội thép Việt Nam.
Trong đó chỉ có một số nhà máy có sản phẩm nguyên liệu đầu vào là phôi
thép với công suất khoảng 2 triệu tấn.
7
Bảng: Công suất ngành thép
Thép xây dựng Tôn Ống
Công suất thiết kế(triệu tấn) 7,83 1,2 0,95
Sản xuất 2010( triệu tấn) 5,9 1 0,7
Công suất huy động 2010 80% 83% 74%
Công suất các dự án đang đầu tư
và sắp triển khai( triệu tấn)
3.0 0.53 0.21
(Nguồn: VBS)
Nhập khẩu thép: Do việc sản xuất thép dẹt, phôi thép còn hạn chế hằng
năm Việt Nam vẫn phải đáp ứng nhu cầu về thép của mình thông qua nhập
khẩu. Trong suốt thập kỉ vừa qua sản lượng nhập khẩu của nước ta thường
chiếm 35%-40% tổng sản phẩm tiêu thụ thép cả nước .Yếu tố nhập khẩu gần
như xuyen suốt trong chuỗi sản xuất ngành và còn duy trì lâu dài ở khâu
nguyên liệu.Sản xuất thép dài yêu cầu phần lớn phế liệu nhập khẩu do cầu
trong nước hạn chế với nhu cầu nhập 3.5 triệu tấn/năm.Lượng phôi thép nhập
thêm cho các nhà máy cán khoảng 1,8 triệu tấn năm 2010.Ở thép dẹt, Việt
Nam chưa sản xuất được phôi cho sản phẩm này và đang nhập khẩu chủ yếu
bán thành phẩm là thép cán nóng và thép nguội với sản lượng 5 triệu
tấn/năm.Như vậy, tính trung bình tỉ trọng nhập khẩu chi phối khoảng 75%
trong tổng sản lượng đầu ra( ước tính quy mô lượng đầu vào xấp xỉ đầu ra)
Năm Đơn vị 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Sắt,
thép
Nghìn

tấn 5152.0 5495.1 5667.0 8115.5 8466.0 9748.7
Trong
đó: Phôi
thép
2278.3 2239.7 1972.2 2173.8 2411.6 2417.1
( Nguồn: tổng cục thống kê)
2.1.2 Về cầu
Trong thời gian cùng với quá trình CNH-HĐH đất nước mạnh mẽ, thì
nhu cầu về các sản phẩm thép cho xây dựng và thép đặc trưng cho các ngành
công nghiệp chế tạo cũng tăng lên. Sản xuất tuy có tăng nhưng chỉ tăng thêm
về các loại thép xây dựng do đó Việt Nam vẫn luôn trong tình trạng cầu vượt
cung nên phải thông qua nhập khẩu để cân bằng .Dựa trên một số thông tin
tổng hợp, trung bình tiêu thụ thép các nước chậm phát triển từ 0-50
kg/người/năm, đang phát triển từ 50-250kg/người/năm, đã phát triển trên
250kg/người/năm. Tại mức 250kg/người /năm nhu cầu thép của Việt Nam là
21,5 triệu tấn/năm và tại mức 500kg là 43 triệu tấn/năm . Hiện tại con số này
khoảng giữa các nước đang phát triển với mức tăng dài hạn còn rất lớn.
Cơ cấu sản phẩm cũng có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ lệ thép
dẹt( dùng trong công nghiệp) và giảm tỉ trọng thép dài(dùng trong xây dựng)
8
trung bình tỉ lệ thép dài chiếm 80-85% ở các nước chậm phát triển , 60-65% ở
các nước đang phát triển và 30-35% các nước đã phát triển.Như vậy mức dộ
phát triển của nền kinh tế sẽ giảm dần mức độ tiêu thụ thép xây dựng của
Việt Nam( hiện tại là 55%) .Theo giá trị tuyệt đối , sản lượng thép bão hòa
khoảng 15 triệu tấn/năm.Do đó ngành thép Việt Nam cần chú ý đầu tư sản
xuất các loại thép dẹt nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng của cả
nước. Nhu cầu thép thành phẩm của Việt Nam dự kiến năm 2010 đạt 10-11
triệu tấn, 2015 đạt 15-16 triệu tấn và còn tiếp tục tăng trong những năm tới
nhằm phục vụ cho các ngành nghề dưới đây:
Xây dựng nhà ở, khách sạn…

Xây dựng cơ sở hạ tầng cầu đường
Đầu tư xây dựng cơ bản
Đóng tàu
Sản xuất ô tô xe máy
Sản xuất thiết bị gia dụng
Sản xuất đồ hộp, bao bì, container
Sản xuất máy công cụ
2.1.3 Về các loại sản phẩm
Trên thế giới hiện nay thị trường các sản phẩm thép rất phong phú và đa
dạng nhưng tựu chung lại chỉ có hai loại thép chính là thép thành phẩm và bán
thành phẩm
a, Thép thành phẩm
Thép xây dựng, thép ống, thép cuộn, ống, tôn đây là loại thép chủ yếu
mà các công ty thép Việt Nam sản xuất được với chủng loại khá phong phú và
đa và đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thép trong nước với tổng công suất thiết kế
hiện tại là 8 triệu tấn.
b, Thép bán thành phẩm
Thép cán nóng,cán nguội và phôi .Đến nay các sản phẩm bán thành
phẩm của ta sản xuất được tăng đáng kể.Với công suất luyện phôi đạt 7.5
triệu tấn dự kiến tỷ lệ chủ đông phôi cho sản xuất thép cán đạt 80%.Ở các sản
phẩm thép cán nong và cán nguội, công suất cán nóng dự kiến đạt 0,5 triệu
tấn, cán nguội 2 triệu tấn, giảm lượng thép cuộng nhập khẩu từ 6 triệu xuống
3 triệu tấn/năm.
2.1.4 Nguồn nguyên liệu
Để có thể duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ thép trong nước , ngành thép Việt Nam hiện phải nhập khẩu 60% phôi
thép từ nước ngoài , 40% là do trong nước tự chủ động được
Việt Nam được coi là nước có thuận lợi hơn so với các nước trong khối
ASEAN khi có nguồn quặng sắt, trữ lượng than antraxit lớn. Tuy nhiên do cơ
chế chính sách ưu đãi thúc đẩy xây dựng nhà máy phôi còn hạn chế và do

vốn đầu tư xây dựng nhà máy luyện phôi luôn cao hơn nhiều lần so với cán
9
thép.Các doanh nghiệp chọn giải pháp dùng phế liệu trong nước và công với
việc nhập phế liệu từ nước ngoài về. Trong thời gian qua, phôi thép- nguồn
nguyên liệu chính trong sản xuất thép của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào
nguồn cung của nước ngoài. Có hai doanh nghiệp Nhà nước chịu trách nhiệm
luyện phôi là gang thép Thái Nguyên và thép Miền Nam , gần đây có tập đoàn
Hòa Phát, Đình Vũ đầu tư nhà máy luyện phôi từ quặng sắt sử dụng là cao và
lò thổi với công suất tối đa 2 triệu tấn đóng góp khoảng 30% tổng lượng
nguyên liệu sản xuất phôi.Thép phế giảm từ 90% xuống 70% trong đó 30%
từ trong nước và 70% còn lại từ nhập khẩu.Tỉ lệ sử dụng thép phế và gang
khả năng đạt tỉ lệ 7:3 trong 2 năm tới. Tuy nhiên, một số quy định về thông
quan nhập khẩu thép phế liệu vẫn chưa cụ thể , gây khó khăn cho việc cung
cấp nguồn nguyên liệu kịp thời cho các nhà máy cán thép
Trong những năm tới, chúng ta cần tiếp tục đầu tư cho sản xuất phôi,
tăng cường phá vỡ tàu cũ, sản xuất sắt xốp và nhập khẩu thêm phế liệu phục
vụ cho nhu cầu nguyên liệu đầu vào của ngành thép. Đồng thời cần kiến nghị
sửa đổi những quy định không phù hợp về nhập nguồn nguyên liệu cho sản
xuất thép để tình hình sản xuất thép của toàn ngành được ổn định và thuận lợi.
2.1.5 Về công nghệ
Trong ba thập kỉ trở lại đây, ngành thép thế giới đã có sự tăng trưởng đột
biến của công nghệ sản xuất bằng lò điện hồ quang thay thế hầu hêt các lò
mác tanh cổ điển. Sự tăng trưởng sản xuất thép bằng công nghệ lò điện là hệ
quả kéo theo của sự phát triển công nghệ luyện kim và tăng cường tái sản xuất
sắt thép vụn ở nhiều nước. Theo đó mà trong những năm gần đây ngành thép
Việt Nam cũng có cơ hội phát triển đáng kể nhất là sự tiến bộ mạnh mẽ trong
công nghệ của khối sản xuất thép. Tự động hóa trong lĩnh vực sản xuất ngày
càng được các doanh nghiệp thép quan tâm . Với việc tự dộng hóa trong sản
xuất , sản phẩm làm ra có chất lượng tốt hơn , ít hao tốn nguyên vật liệu và
tiết kiệm được chi phí nhân công dư thừa. Dây chuyền công nghệ ngành thép

được chia ra làm các loại sau:
Dây chuyền hiện đại: Gồm các dây chuyền cán liên tục ở các công ty
nước ngoài và một số nhỏ các công ty ở Việt Nam như Pomina, Hòa Phát…
Dây chuyền công nghệ loại trung bình: Bao gồm các công nghệ dây
chuyền công nghệ cán bán liên tục như Tây Đô, NatseelVina,Vinausteel vầ
các công ty tư nhân cổ phần khác.
Dây chuyền lạc hậu gồm các dây chuyền cán thủ công mini của các nhà
máy thép Đà Nẵng, thép Miền trung và các cơ sở khác ngoài tổng công ty
Thép Việt Nam
10
Loại cán rất lạc hậu: Gồm các dây chuyền mini có công suất nhỏ(<
20000 tấn/năm) và các nhà máy cán của các hộ gia đình, làng nghề
Với ngành thép Việt Nam, một ngành phát triển tương đối sớm( từ
những năm 60) và trải qua 50 năm sản xuất thiết bị phần lớn đã cũ và lạc hậu,
hết khấu hao từ lâu ít được đổi mới nên công nghệ còn nhiều hạn chế.
2.1.6 Đơn vị sản xuất và kinh doanh thép
a. Tổng công ty Thép Việt Nam và các đơn vị thành viên
Được thành lập từ những năm 1990 trên cơ sở sáp nhập các nhà máy ở
phía Bắc và Nam sau đó được tổ chức lại theo quyết định số 255/TTg ngày
29/4/1995. Tổng công ty thép Việt Nam(VSC) hiện là một trong số 17 tổng
công ty 91 trực thuộc thủ tướng CP. VSC quản lý 3 đơn vị sản xuất thép lớn,
8 đơn vị kinh doanh thép, 1 viện nghiên cứu và 1 trung tâm đào tạo nghề.VSC
có hai lò cao nhỏ với công suất 400.000 tấn/năm và tổng công suất cán
810.000 tấn/năm.
Bảng công suất các đơn vị sản xuất thép dài của VSC

STT Đơn vị Công suất( tấn/năm)
1 Công ty gang thép Thái Nguyên 250.000
2 Công ty thép miền nam 500.000
3 Công ty thép Đà Nẵng 40.000

4 Công ty kim khí tổng hợp miền Trung 20.000
Tổng cộng 810.000
( Nguồn: Báo cáo tình hình sản xuất thép Việt Nam- Tổng công ty thép
Việt Nam)
Là một trong tổng số tổng công ty Nhà nước được thủ tướng Chính phủ thành
lập và hoạt động theo mô hình tổng công ty 91- Mô hình tập đoàn kinh doanh lớn
của Nhà nước, mục tiêu của công ty Thép Việt Nam là xây dựng và phát triển tập
đoàn kinh doanh đa ngành trên cơ sở sản xuất và kinh doanh thép làm nền tảng. Các
lĩnh vực hoạt động kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty như sau:
Khai thác quặng săt, than mỡ và các nguyên liệu trợ dùng phục vụ cho
công nghệ luyện kim
Sản xuất gang, luyện phôi và sản xuất các kim loại, sản phẩm thép
Sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu thép,vật tư thiết bị và các dịch vụ
liên quan đến công nghệ luyện kim như nguyên liệu, vật liệu đầu vào, các sản
phẩm thép , thiết bị luyện kim, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ kĩ thuật.
Thiết kế, chế tạo, thi công lắp ráp trang thiết bị công trình luyện kim và
xây dựng dân dụng
Kinh doanh khách sạn, nhà hàng ăn uống, xăng, gas và các dịch vụ khác
Đào tạo nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ ngành luyện kim và
lĩnh vực sản xuất kim loại, vật liệu xây dựng.
Đầu tư liên doanh, liên kết kinh tế đối với các đối tác trong và ngoài nước
11
b, Các công ty liên doanh
Khối các công ty liên doanh bao gồm các liên doanh có vốn đầu tư nước
ngoài với VSC hoặc với các đơn vị thành viên của VSC. Các liên doanh này
chủ yếu sản xuất các loại thép dài, thép xây dựng mà không sản xuất gang
hoặc luyện thép.Nguyên liệu chủ yếu của các liên doanh hiện nay là phôi thép
hoặc thép phế phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài. Tổng sản lượng thép các
loại của các công ty này đóng góp khoảng 35% sản lượng thép xây dựng toàn
ngành. Ưu điểm của hầu hết các liên doanh sản xuất thép là họ có lợi thế về

công nghệ mới, phương thức quản lý hiện đại, thuận lợi về đường vận
chuyển , nhân công nhỏ gọn nhưng làm việc có hiệu quả.
Các liên doanh sản xuất thép giữa Việt Nam với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức
là những doanh nghiệp làm ăn rất có hiệu quả và ổn định. Trong năm 2003 một số
liên doanh thép mới ra đời như nhà máy cán thép Việt-Ý( 126.000tấn/năm), công ty
thép Việt Đức- VG pipe( 60.000 tấn/năm) hứa hẹn những nguồn cung dồi dào cho
thị trường thép Việt Nam trong những năm tới.
Bảng: Nhà sản xuất thép
Doanh nghiệp Thép xây dựng Tôn thép Ống thép
Pomina 16,6% _ _
Hoa sen _ 30,7% _
Hòa Phát 12% _ 12,9%
Cty 190 _ _ 10,3%
Tôn phương nam _ 10,1% _
Blue Scope Steel _ 7,9% _
Hữu Liên Á Châu _ _ 14,4%
SeAH VN _ _ 11,1%
Sun Steel _ 15,1% _
Perstima Việt Nam _ 8,9% _
Việt Đức _ _ 10,2%
Tisco 12,6% _ _
Vinakyoei 8,7% _ _
VNS 7,6% _ _
Nguồn: VSA
c, Các doanh nghiệp tư nhân và hộ sản xuất nhỏ
Với việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường ,
Nhà nước đang khuyên khích mô hình nền kinh tế theo hướng tư nhân hóa,
giảm dần các doanh nghiệp Nhà nước cùng với đó là việc ngừng việc nhập
khẩu thép của Liên Xô khi liên bang Xô Viết tan rã khiến một loạt doanh
nghiệp tư nhân và các hộ gia đình sản xuất nhỏ bắt đầu ra đời với các lò luyện

thép nhỏ và máy cán các loại. Đến nay nhà nước vẫn còn khoảng 50 cơ sở
như vậy vẫn còn hoạt động nhỏ lẻ, sản xuất các loại thép thông thường với chi
phí đầu tư xây dựng thấp.
12
Bảng: Các công ty liên doanh thuộc VSC
STT Tên công ty Lĩnh vực hoạt động
Các công ty liên doanh có góp vốn của VSC
1
Công ty liên doanh sản xuất thép Vinakyoei
( Liên doanh với Nhật Bản)
Sản xuất thép tròn
2 Công ty thép VSC-POSCO
(Liên doanh với Hàn Quốc)
Sản xuất thép tròn
3
Công ty Liên Doanh sản xuất Thép Vinasteel
(Liên doanh với Australia
Sản xuất thép tròn
4
Công ty TNHH Nasteel-Vina
(Liên doanh với Singapo)
Sản xuất thép tròn
5
Công ty ống thép Việt Nam
(Liên doanh với Hàn Quốc)
Sản xuất thép cacbon hàn điện và mạ kẽm
6 Công ty gia công Thép Vinanic
(Liên doanh với Nhật Bản)
Cắt thép lá cuộn ra các loại tấm
7 Công ty Thép VinaPipe

(Liên doanh với Hàn Quốc)
Sản xuất ống thép
Các công ty liên doanh với công ty thép Miền Nam
1 Công ty Posvina
( Liên doanh với Hàn Quốc)
Sản xuất thép mạ kẽm, mạ màu dạng cuộn
và dạng tấm
2 Công ty Nippovina
(Liên doanh với Nhật Bản)
Sản xuất tôn mạ kẽm, tôn sơn màu
3 Công ty Tôn Phương Nam
(Liên doanh với Nhật Bản)
Sản xuất tôn mạ kẽm , mạ màu
4
Công ty sản xuất sản phẩm mạ công nghiệp
Vingal(Liên doanh với Australia)
Sản xuất cột điện mạ kẽm, tháp truyền tải,
tấm chắn an toàn, ống và các sản phẩm
công nghệ khác.
5
Công ty sản xuất và gia công dịch vụ Sài Gòn( Liên
doanh với Hàn Quốc)
Cắt thép lá cuộn ra thép tấm có kích thước
khác nhau
6 Công ty Thép Tây Đô
(Liên Doanh với Nhật Bản)
Sản xuất thép thanh cán nóng và vằn
7 Công ty cơ khí Việt Nhật
(Liên doanh với Nhật Bản)
Sản xuất các sản phẩm đúc cho cơ khí

( Nguồn: Báo cáo tình hình sản xuất của ngành thép Việt Nam- Tổng
công ty Thép Việt Nam)
2.1.7, Nguồn nhân lực
Thực trạng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp trong ngành thép, nhất
là các công ty Nhà nước nhìn chung khá công kềnh với năng suất lao động
còn nhiều hạn chế.Số lao động thường luôn tỉ lệ nghịch với mức độ tiến bộ
của khoa học kĩ thuật, trình độ công nghệ.Theo ước tính tổng số lao động trực
tiếp ngành thép khoảng 30.000 người, trong đó riêng Tổng công ty thép và
các Liên doanh chiếm tới 20.000 lao động. Dự kiến trong vài năm tới ngành
thép có một số nhà máy mới đi vào hoạt động với số lao động tăng thêm
khoảng 8.000 lao động. Tuy nhiên con số này chỉ bằng số lao động tính giảm
13
ở các nhà máy cũ. Nói chung ngành thép Việt Nam đang có một lực lượng lao
động quá lớn.
Đặc điểm nổi bật về trình độ lao động của Việt Nam nói chung và ngành
thép nói riêng là còn hạn chế về đào tạo chuyên sâu và khả năng sử dụng
thành thạo các công nghệ hiện đại. Tại các doanh nghiệp không đổi mới thiết
bị sản xuất trong nhiều năm, tình trạng phổ biến là tỉ lệ lao động lớn với trình
độ xử lý máy móc thiếu nhanh nhạy. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp thép
liên doanh lại sử dụng nhiều máy móc công nghệ quá hiện đại mà cán bộ kĩ
thuật của ta không theo kịp hoặc gặp nhiều lúng túng trong việc xử lý hỏng
hóc. Tính đến năm 2009, trong tổng số 20000 lao động của tổng công ty Thép
Việt Nam thì tỉ lệ lao động được thống kê theo trình độ như sau:
Số công nhân chưa lành nghề: 9000 lao động chiếm 45%
Công nhân lành nghề : 8000 lao động chiếm 40%
Kĩ thuật viên : 2000 lao động chiếm 10%
Kĩ sư : 960 lao động
Trên đại học : 80 lao động chiếm 0,4%
Như vậy sự cồng kềnh trong cơ cấu và hạn chế về trình độ nhân sự là
một trở ngại lớn cho ngành thép. Trình độ quản lý của cán bộ, trình độ tay

nghề của lao động thấp làm ảnh hưởng đến năng suất ảnh hưởng đến giá
thành sản phẩm và ảnh hưởng đến khà năng cạnh tranh của ngành thép.Vì thế,
phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trong ngành thép là vấn đề đặc
biệt quan tâm.
14
2.2 Phân tích SWOT
Điểm mạnh: Ngành thép đóng vai
trò là ngành kinh tế trọng điểm cung cấp
nguyên liệu cho hầu hết các ngành, đặc
biệt là ngành xây dựng.Điều này cho
thấy đầu ra của ngành thép rất ổn định
-Việt Nam có nguồn tài nguyên
phong phú, đặc biệt là quặng và than nên
chi phí giá vốn của ngành rất ổn định
-Chi phí nhân công rẻ, thị trường
tiêu thụ lớn
-Được sự ưu đãi về thuế và các
chính sách của chính phủ nên hoạt động
của ngành ít chịu rủi ro do biến cố thị
trường
Điểm yếu: - Ngành thép đang ở
xuất phát điểm thấp, chậm so với các
nước trong khu vực khoảng 10 năm. Do
đó năng suất lao động tương đối thấp.
-Giá thép trong nước chịu ảnh
hưởng và phụ thuộc rất lớn giá phôi thép
trên thế giới
-Ngành thép Việt Nam vẫn ở tình
trạng sản xuất nhỏ, phân tán, thiếu bền
vững, phụ thuộc vào lượng phôi thép và

bán thành phẩm nhập khẩu
-Vốn đầu tư cho công nghệ sản xuất
lớn do đó các doanh nghiệp khó mở rộng
sản xuất và nâng cao chất lượng
Cơ hội: Tốc độ tăng trưởng GDP
cao, nền kinh tế nhận được nhiều sự đầu
tư của nước ngoài.Điều này được chứng
minh từ thực tế là dòng vốn FDI vào
Việt Nam ngày càng cao đây chính là
yếu tố đẩy nhu cầu tiêu thụ thép tăng
trong thời gian tới
-Nền kinh tế thế giới và Việt Nam
đang trên đà phục hồi làm tăng nhu cầu
thép do xây dựng và các ngành khác
được mở rộng
-Nhiều dự án được đầu tư vào
ngành triển khai và được sự hỗ trợ của
nước ngoài do đó ngành thép có cơ hội
trao đổi khoa học công nghệ từ phía các
đối tác nước ngoài, giúp hoạt động của
ngành hiệu quả hơn mà lại tiết kiệm
được chi phí
Thách thức:-Môi trường cạnh tranh
trong ngành mạnh mẽ, nguy cơ mất thị
phần về tay các doanh nghiệp nước ngoài
cao.Do trình độ công nghệ và tay nghề
của các doanh nghiệp nước ngoài cao
nên lợi thế cạnh tranh lớn.
-Các doanh nghiệp trong nước còn
non trẻ nên sẽ khó chủ động trong hoạt

động sản xuất kinh doanh dẫn đến nguy
cơ khủng hoảng thừa thép
-Với chính sách bảo hộ của nhà
nước một mặt thúc đẩy các doanh nghiệp
mở rộng phát triển sản xuất đồng thời
cũng sẽ ảnh hưởng đến tính hoạt động
liên tục của ngành khi thuế nhập khẩu
phôi thép cao
-Trên thị trường xuất hiện nhiều
hàng giả, lậu giá thành thấp do đó các cơ
quan trong ngành cần phải chú trọng
trong công tác quản lý chất lượng và
hoạt động của các đại lý.
5 Lực lượng cạnh tranh theo M.PORTER
Đối thủ tiềm ẩn: Ngành thép đang được sự bảo hộ của nhà nước bằng
hàng rào thuế quan và phi thuế quan do đó các doanh nghiệp trong nước có
được lợi thế cạnh tranh trên sân nhà. Đồng thời nhà nước cũng tạo ra môi
15
trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy sự
phát triển chung của các ngành công nghiệp nói chung và ngành thép nói
riêng. Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất thép tại Việt Nam phụ thuộc vào
lượng phôi thép nhập khẩu rất lớn ( chiếm khoảng 60%), tuy các doanh
nghiệp phải chịu rủi ro tỷ giá rất lớn nhưng các doanh nghiệp mới và các
doanh nghiệp liên doanh lại có cơ hội tiếp cận nguồn phôi thép từ phía đối tác
nước ngoài dễ dàng. Bên cạnh đó chinh phủ đang có nhiều dự án cũng như
chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận được với nguồn
vốn ưu đãi để tham gia luyện phôi hạn chế sự khan hiếm phôi và sự phụ thuộc
giá phôi trên thế giới. Tuy có những ưu đãi từ chính sách nhà nước nhưng các
dự án sản xuất thép đòi hỏi lượng vốn lớn đầu tư cho các công nghệ do đó sẽ
ra đời nhiều doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài

Nhu cầu về thép rất khó dự đoán , phụ thuộc vào sức khỏe nền kinh tế và
thị trường xây dựng . Với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp mới và các nhà
đầu tư nước ngoài nên rất dễ xảy ra tình trạng dư thừa thép
Nhà cung cấp: Có rất nhiều nhà cung cấp nguyên liệu( phôi thép, than
đá…)cho ngành thép đồng thời nhà nước có nhiều chính sách bảo hộ do đó
các nhà cung cấp khó có thể liên kết nâng giá phôi thép và giá than cho ngành
thép. Tuy nhiên giá thép trong nước lại phụ thuộc rất nhiều vào giá phôi thép
trên thế giới do lượng phôi thép nhập khẩu chiếm hơn 60% lượng phôi dùng
trong sản xuất thép.
Nguyên liệu cho quá trình sản xuất thép chủ yếu là than, quặng sắt, dầu
khí đang trong tình trạng giá cả tăng nhanh và tương lai sẽ xảy ra khan hiếm
dẫn đến giá thép trong nước sẽ phụ thuộc rất nhiều vào giá nguyên vật liệu
trên thế giới. Đồng thời giá điện tăng nhanh sẽ làm tăng chi phí cho ngành.
Khách hàng: Sản phẩm của ngành thép là thép do đó đối tượng dịch vụ của
ngành thép khá đa dạng. Đồng thời sản phẩm của ngành đóng vai trò thiết yếu cho
sự phát triển của ngành khác nên khách hàng buộc phải mua khi có nhu cầu.
Khác hàng của ngành phân tán lớn, do đó các đại lý phân phối dễ dàng tăng
giá bán trong trường hợp khan hiếm thép và giá nguyên vật liệu thế giới tăng.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Nền kinh tế trong nước đang tăng
trưởng mạnh do đó tốc độ phát triển của ngành cao hứa hẹn mang lại nhiều lợi
nhuận cho nhà đầu tư.
Được sự bảo hộ của nhà nước nên rào cản thoát ra khỏi ngành cao nên
nhiều doanh nghiệp tuy hiệu quả sản xuất thấp nhưng vẫn tồn tại.
Là ngành mới đồng thời sự phân tán cao nên sẽ xảy ra tình trạng cạnh
tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp trong ngành . Thị phần tiêu thụ sẽ dễ bị
mất trong tay các đối thủ ngành.
Sản phẩm thay thế: Với đặc tính chịu lực chịu nhiệt cao, kết cấu bên
vững nên sắt thép ngày càng được ưa chuộng trên thị trường do đó các
nguyên liệu thay thế khác như gỗ, nhựa sẽ khó thay thế được cho thép.
16

PHẦN 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH THÉP VIỆT NAM
3.1 Đối với toàn ngành thép
Thép là vật liệu xây dựng chủ yếu của ngành công nghiệp, có vai trò
quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong
những năm qua, ngành thép đã có nhiều cố gắng khai thác, cải tạo và mở rộng
những cơ sở sản xuất cũ và liên doanh với nước ngoài, tăng năng lực sản xuất
và sản lượng thép hằng năm với tốc độ khá nhanh. Tuy nhiên so với nhu cầu
của đất nước thì mức sản xuất hiện nay còn rất thấp, do vậy phát triển ngành
thép nhanh và bền vững là một yêu cầu khách quan , cấp bách và có ý nghĩa
chiến lược.
Để đạt được các mục tiêu mà ngành thép đã đặt ra trong thời kì mới và
nâng cao khả năng cạnh tranh, đủ sức hội nhập kinh tế quốc tế ngành thép cần
thực hiện một số giải pháp như: Ngành thép sẽ phải phát triển cân đối giữa hạ
nguồn bao gồm các công đoạn như cán, kéo và gia công sau cán với thượng
nguồn bao gồm khai thác quặng sắt, sản xuất gang,sản xuất phôi thép. Từng
bước tiến tới đáp ứng phần lớn phôi thép cho nhu cầu cán thép trong nước .
Kết hợp chặt chẽ và hài hòa giữa việc phát triển sản xuất, đa dạng hóa sản
phẩm và khai thác sử dụng hợp lý có hiệu quả nguồn tài nguyên trong nước.
Phát triển có chọn lọc một số sản phẩm thép chất lượng cao và thép đặc thù
trên cơ sở tiềm lực về vốn và công nghệ.Ngành thép cũng phải chú trọng các
dự án thượng nguồn, sản xuất phôi thép bằng lò điện, trước mắt dùng nguyên
liệu trong nước và xuất khẩu.
3.1.1: Đầu tư một tầm nhìn lâu dài, nâng cao tính cạnh tranh của
sản phẩm
Các Mác đã từng nói:”Tiêu thụ là bước nhảy nguy hiểm của hàng hóa,
nếu bước nhảy đó không thành công thì kẻ bị té mang thương tích không phải
là hàng hóa mà chính là người sản xuất ra hàng hóa đó- doanh nghiệp”. Để
tránh cho mình khỏi” bước nhảy nguy hiểm” này, mỗi doanh nghiệp sản xuất

thép cần phải biết nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình, nhất là trong
giai đoạn hội nhập hiện nay
a, Chiến lược về sản phẩm
Vào thời điểm hiện tại ngành thép Việt Nam đang dư thừa các sản phẩm
thép xây dựng, thiếu các sản phẩm thép đặc chủng và nguồn phôi thép nguyên
liệu. Đối với các doanh nghiệp riêng lẻ, tùy theo khả năng tài chính thực tế và
chiến lược phát triển của mình mà cần đề ra kế hoạch sản phẩm thích hợp
Các doanh nghiệp lớn cần xây dựng các dự án đầu tư có chiều sâu để
phát triển và nâng cao năng suất các sản phẩm đem lại lợi nhuận cao của
mình. Ví dụ như công ty gang thép Thái Nguyên đã đầu tư mạnh và giờ đã tự
17
túc hoàn toàn về phôi, Công ty thép Miền Nam đầu tư sản xuất thép cacbon
chất lượng cao và thép hợp kim trong các lò luyện hiện đại. Với các doanh
nghiệp đã có đủ thế và lực như hai công ty trên thì việc đầu tư tăng cường sản
xuất phôi thép trong tương lai gần sẽ có các sản phẩm thép cao cấp là một
hướng đi đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của ngành thép thế
giới. Trong khi đó các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện để chuyển hướng các
loại sản phẩm cũ là thép thông thường, thép xây dựng thì có thể phát triển sản
phẩm theo hướng : chọn những sản phẩm thép dài mà doanh nghiệp có thế
mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng các sản phẩm đó để có thể
cạnh tranh với các sản phẩm khác cùng loại đang có mặt trên thị trường và
tìm hướng xuất khẩu ra nước ngoài. Như vậy các doanh nghiệp trong nước
cần chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng giảm tỉ trọng các sản phẩm thép
thiếu tính cạnh tranh trên thị trường tăng dần sản lượng những sản phẩm có
chất lượng cao, thị trường ổn định.
Nhìn chung tất cả các doanh nghiệp sản xuất thép đều cần nhận thức rõ
tầm quan trọng trong việc xây dựng một chiến lược sản phẩm phù hợp với
nhu cầu thị trường dựa trên nội lực thực có của mình. Do đó, các doanh
nghiệp cần phải khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh quốc gia trong lựa chọn
sản phẩm kinh doanh, chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm

mới, hiện đại hóa khâu thiết kế sản phẩm. lựa chọn hệ thống quản lý chất
lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng
sản phẩm.
Đồng thời, các doanh nghiệp phải tìm các giảm các chi phí đầu vào và
các chi phí trung gian khác để hạ giá thành, nâng cao lợi nhuận và có đủ khả
năng bán hàng ra với mức giá cạnh tranh
- Nguyên liệu đầu vào sao cho đảm bảo về số lượng, chất lượng giá cả
cạnh tranh quốc tế trong điều kiện tự do hóa thương mại hội nhập kinh tế
quốc tế có vai trò hết sức quan trọng.Việt Nam tuy giàu tài nguyên nhưng
chất lượng còn kém, điều kiện khai thác còn khó khăn, chủng loại chưa phải
đã đủ để cung cấp cho cả ngành thép nên hàng năm ngành thép vẫn phải nhập
khẩu một lượng lớn nguyên liệu đầu vào. Vì vậy, các công ty nói riêng và
ngành thép nói chung cần có sự quan tâm nhất định đến khâu này. Đầu tư cho
công tác thăm dò bổ sung một số điểm quặng sắt ở các vùng núi phía Bắc:
Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên…nhằm cung cấp nguyên liệu cho các nhà
máy. Bên cạnh đó cần tìm kiếm thăm dò các điểm quặng ở các vùng lân cận
các nhà máy thép lớn khác.Nghiên cứu, tìm kiếm những biện pháp tích cực để
cải tiến chất lượng quặng khai thác được thông qua các viện nghiên cứu trong
nước hoặc học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia sản xuất thép phát triển. Đối
với những nguyên liệu mà trong nước không có hoặc rất ít thì phải nhập khẩu,
nghiên cứu nắm bắt thị trường để có nguồn cung cấp nguyên liệu với giá phải
chăng và chất lượng đảm bảo. Đẩy mạnh công tác phá vỡ tàu thuyền cũ và
18
thu gom phế liệu sắt thép vụn. Lập công văn đề nghị nhà nước hỗ trợ các biện
pháp đẩy mạnh sản xuất phôi trong nước cũng như thuận tiện hóa, khuyến
khích khâu nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất thép.
- Các chi phí trung gian khác như vận chuyển, chi phí điện năng,chi phí
nhân công .Do đó, để hạ thấp các chi phí này cần phải xây dựng các nhà máy
gần các thị trường có nhu cầu tiêu thụ lớn như các thành phố lớn, các khu đô
thị để giảm thiểu các chi phí về vận chuyển, phí cầu đường hoặc gần các cảng

biển để tiện cho việc nhập khẩu nguồn nguyên liệu hay xuất khẩu hàng hóa.
Cải tạo các cảng cũ và cho xây dựng mới các cảng nước sâu hoặc cảng
chuyên dùng để có thề tiếp nhận tàu có công suất lớn.Hiện nay,một số dự án
xây dựng nhà máy luyện thép mới ở cảng Cái Lân( Quảng Linh) và Phú
Mỹ( Bà Rịa- Vũng Tàu) cũng là vì muốn hạ thấp các chi phí vận chuyển.Sử
dụng các loại máy móc tốt, có chi phí khấu hao tài sản cố định thấp ít tốn điện
năng và các nguồn nguyên liệu khác như than, dầu…Khuyến khích các phát
minh sáng chế , ứng dụng khoa học kĩ thuật phát sinh trong quá trình sản xuất
nhằm tiết kiệm các chi phí trung gian nói trên. Ngày nay chi phí về điện cho
sản xuất thép rất tốn kém bởi giá điện phục vụ cho sản xuất ở Việt Nam cao,
cần tìm kiếm và sử dụng các nguồn nguyên liệu thay thế khác như năng
lượng mặt trời hay khí gas. Đồng thời, kiến nghị với Chính phủ về việc hỗ trợ
cho ngành sản xuất thép trong nước về giá mua điện, than, gas, quặng sắt…
Các doanh nghiệp cũng cần chú ý luôn tìm mọi cách để sản phẩm của
mình có tính khác biệt , độc đáo hay dễ nhận biết ở một số điểm nào đó so với
sản phẩm cùng loại của các công ty khác ( như kiểu dáng sản phẩm, biểu
tượng hoặc tên công ty in trên sản phẩm bán ra…)Hiện nay các doanh nghiệp
thép cần sớm áp dụng các tiêu chuấn chất lượng ISO trong quá trình sản xuất
để sản phẩm thép của mình dễ dàng hơn trong tiêu thụ và xuất khẩu.Như một
số liên doanh thép Vinakyoei, VPS, Nhà Bè đã được cấp chứng chỉ ISO
9002. Các đơn vị thành viên và các đơn vị liên doanh với tổng công ty thép
Việt Nam đều có nhãn mác riêng trên sản phẩm và đã đăng kí với cơ quan
quản lý Nhà nước bảo hộ về sở hữu công nghiệp.
b, Chiến lược marketing
Đối với ngành thép Việt Nam hiện nay, đồng thời với việc đầu tư đổi mới sản
xuất làm đa dạng hóa sản phẩm thì công tác đưa sản phẩm đến tận tay người người
tiêu dùng là vô cùng quan trọng. Đây cũng chính là giải pháp làm tăng khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường nội địa cũng như thế giới.Chiến lược
marketing bao gồm việc làm tốt công tác thị trường , tạo được một đội ngũ những
người phát triển thị trường nhanh nhạy rộng khắp và luôn đề ra được những kế

hoạch phát triển thị trường ; phát triển mạnh lưới tiêu thụ; nâng cao chất lượng hoạt
động của hệ thống phân phối ; nắm bắt và phản ứng nhanh nhạy trước các thay đổi
của đối thủ cạnh tranh trên thị trường . Cụ thể, trong thời gian tới các công ty trong
lĩnh vực sản xuất thép cần chú trọng tới các công việc sau:
19
Nghiên cứu đầu tư hiện đại hóa các trung tâm bán thép, chợ thép ở các
khu vực truyền thống như tại các đô thị lớn hoặc các cảng biển…Các trung
tâm này sẽ là đầu mối bán buôn cho khách hàng từ tỉnh về lấy thép phân phối
cho các hệ thống bán lẻ
Đầu tư trang thiết bị cần thiết cho các cửa hàng bán thép lớn để có điều
kiện dịch vụ tốt nhằm thu hút khách hàng tiêu dùng các sản phẩm của Việt
Nam. Tuy chất lượng có thua kém so với nước ngoài song dịch vụ lại tốt
hơn.Luôn tạo ra tâm lý so sánh làm nổi bật ưu thế của các sản phẩm thép nội
địa so với hàng nhập ngoại. Đây cũng chính là yếu tố quan trọng để thúc đẩy
ngành thép phát triển hơn nữa.
Đầu tư trang thiết bị vận tải ( hoặc thành lập các công ty cổ phần dịch
vụ vận tải với các cổ đông chủ yếu là các cán bộ , công nhân viên trong đơn
vị) để làm tốt công tác dịch vụ thép từ nhà máy đến kho, đến khách hàng.
Tăng cường công tác tiêu chuẩn hóa dịch vụ và quản lý chất lượng sản
phẩm trong quá trình tiêu thụ và bảo quản nâng cao năng suất chất lượng dịch
vụ.Triển khai áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9002 cho các doanh
nghiệp lưu thông VSC cũng như các đơn vị lưu thông khác.
Đầu tư cho quảng cáo, thông tin chi tiết của sản phẩm đến người tiêu
dùng là rất cần thiết. Tổ chức hội chợ, các buổi gặp mặt đại lý,khách hàng…
nhằm giới thiệu về các mặt hàng , giúp người có nhu cầu tiêu thụ thép nắm
bắt được thông tin về giá cả , dịch vụ của công ty. Để làm tốt công tác này
cần phải có sự giúp sức của công tác thu thập, quản lý và xử lý thông tin như
lập các phòng ban chuyên về marketing, giao tế công chúng…Đây chính là
cầu nối quan trọng giữa nhà sản xuất, nhà phân phối và người tiêu dùng. Lập
các trang web cập nhật và quảng cáo mạnh trên mạng các thông tin về sản

phẩm và danh tiếng của công ty.
c, Chiến lược đổi mới công nghệ
Thực trạng trang thiết bị kĩ thuật trong nhà máy thép Việt Nam nói
chung hiện nay đều được đầu tư từ vài chục năm trước nên đều cũ, lạc hậu,
công suất quá nhỏ, hiệu quả thấp không có sức cạnh tranh. Trình độ công
nghệ và mức đồng bộ, tiên tiến của trang thiết bị đều thua kém các nước
khác.Vì vậy, đây là vấn đề cấp bách buộc ngành thép phải có biện pháp cải
tiến, nâng cấp các thiết bị
Xây dựng kế hoạch để từng bước đổi mới dây chuyền công nghệ, thay
thế dần công nghệ cũ bằng công nghệ mới để tăng năng suất, hạ giá thành sản
phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa.Với các công ty mà khả năng tài chính
còn nhiều hạn chế ,trước tiên nên lựa chọn các khâu quan trọng trong dây
chuyền sản xuất có ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả sản phẩm để tiến hành
hiện đại hóa trước.
Đảm bảo thiết bị đồng bộ hiện đại, đạt trình độ chung trên thế giới, giá
cả hợp lý, kèm theo chuyển giao công nghệ đầy đủ, dễ nắm bắt, dễ sử dụng
20
Có thể nhập và sử dụng một số thiết bị đã qua sử dụng theo đúng quy
định của Bộ khoa học công nghệ và môi trường để tiết kiệm vốn đầu tư song
vẫn đảm bảo chỉ tiêu kĩ thuật tiên tiến.
Song song với đầu tư nâng cấp trang thiết bị hiện đại là phải tiến hành
các biện pháp bảo vệ môi trường. Phải có những biện pháp tích cực để làm
sao vừa đảm bảo sự bắt nhịp trình độ khoa học kĩ thuật, vừa không ảnh hưởng
đến môi trường sinh thái.
d, Chiến lược con người
Cần nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh , điều hành quản lý doanh
nghiệp nhất là của giám đốc và đội ngũ cán bộ quản lý khác. Nâng cao trình
độ tay nghề cũng như trình độ và kiến thức về khoa học kĩ thuật, công nghệ
thông tin của đội ngũ kĩ thuật viên và người lao động như khuyến khích hình
thức đưa đi đào tạo ở nước ngoài và mới chuyên gia kèm cặp bổ túc tại nhà

máy.Con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển ngành thép, vì vậy
công tác đào tạo cần được quan tâm trên hết
Chú trọng đến những sáng kiến cải tiến của người lao động ở các khâu
khác nhau trong hoạt đông của doanh nghiệp. Đồng thời, cần có các biện pháp
khuyến khích lao động làm việc tốt hơn
Đối với các cơ sở cũ đang dư thừa nhiều lao động, cần có biện pháp sắp
xếp lại, tinh giảm biên chế, tiến hành đào tạo bổ túc và nâng cao trình độ cho
số lao động còn trong dây chuyền.Mở thêm ngành nghề để thu hút số lao
động dôi dư, đồng thời vẫn phải tuyển dụng lao động trẻ, khỏe đã qua đào tạo
để thay thế dần lớp cán bộ, công nhân lớn tuổi.
e, Chiến lược vốn
Vốn là vấn đề quan tâm của các ngành nói chung và ngành thép nói
riêng.Các doanh nghiệp sản xuất thép của Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều
những doanh nghiệp quốc doanh , vốn phần lớn do nhà nước cấp vì vậy các
doanh nghiệp này đều rơi vào tình trạng khó khăn trong vấn đề tự chủ về
vốn.Các doanh nghiệp tư nhân hay liên doanh thì cũng trong tình trạng nguồn
vốn huy động được thấp
Do vậy, trên cơ sở chiến lược kinh doanh dài hạn và các mục tiêu trước mắt
mà mỗi công ty trong ngành thép cần xây dựng chiến lược huy động vốn cho
mình. Với việc xây dựng được các phương án kinh doanh khả thi, các công ty
thép có thể huy động được nguồn vốn kinh doanh ngắn và trung hạn từ các ngân
hàng thương mại.Bên cạnh đó, các công ty này có thể phát triển theo hướng liên
doanh liên kết để tận dụng được nguồn vốn từ bên ngoài. Trong tương lai, cổ
phần hóa, phát hành cổ phiếu, trái phiếu là một hướng đi mở đầy triển vọng để
huy động được nguồn vốn giá rẻ và ổn định, giúp doanh nghiệp sản xuất thép
thực hiện những dự án kinh doanh lớn đòi hỏi thời gian dài.
21
f, Chiến lược trong hội nhập kinh tế quốc tế
Khi Việt Nam hội nhập mạnh hơn vào nền kinh tế quốc tế, ngành thép
của ta nói chung sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và rủi ro tiềm ẩn. Do

vậy, cần lập ra các cơ quan hoặc các phòng thông tin chuyên nghiên cứu
những cam kết hội nhập cụ thể có ảnh hưởng đến ngành thép của ta ,từ đó sẽ
có thể tìm ra những cách ứng phó kịp thời.Tại cơ quan đại diện thương mại
của ta tại các nước ngoài như các xúc tiến thương mại,nên lập riêng các bộ
phận chuyên trách hoặc các phòng ban nghiên cứu về thị trường xuất nhập
khẩu nhằm mở rộng quan hệ làm ăn.Việc nắm bắt được các thông tin thị
trường thép tại các quốc gia ASEAN là đặc biệt quan trọng. Do đó, ngành
thép cần đại diện cho các doanh nghiệp trong nước mở các trung tâm thông
tin hoặc nghiên cứu thị trường tại các quốc gia đó. Với những thông tin quý
giá thu nhập được và được cung cấp cập nhật thường xuyên tin rằng các
doanh nghiệp sản xuất thép của ta sẽ dễ dàng hơn trong việc tìm cách ứng phó
với sự cạnh tranh từ các nước trong khối, đề ra được những biện pháp thâm
nhập thị trường nước ngoài hiệu quả.
3.1.2, Tiến tới hợp tác, liên kết với nhau để tạo thế và lực cho ngành
thép Việt Nam
Ngành thép là một ngành công nghiệp nặng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời
gian thu hồi vốn kéo dài từ 10-15 năm. Trong khi đó, ngành thép Việt Nam là
ngành kinh tế nhiều thành phần bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty
cổ phần, công ty tư nhân…Đương nhiên là việc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp nay là không thể tránh khỏi và có thể nói cạnh tranh chính là động lực để
phát triển không chỉ trong ngành sản xuất thép mà còn trong các ngành kinh tế
khác …Tuy nhiên các doanh nghiệp trong ngành thép cần luôn ý thức được rằng
cạnh tranh và hợp tác là hai nội dung tuy có nội hàm khác nhau nhưng lại có
quan hệ rất mật thiêt với nhau .Trong môi trường cạnh tranh quốc tế hiện nay,để
giành giật được thị trường tiêu thụ, nhiều trường hợp các doanh nghiệp phải hợp
sức lại mới đủ năng lực cạnh tranh để cùng tồn tại và phát triển.Đặc biệt giải
pháp hợp tác này rất thích hợp trong môi trường cạnh tranh quốc tế hiện nay.Do
đó , cần phải có một số hướng đi như sau:
-Thống nhất giá chung hoặc khung giá dao động chung cho các sản

phẩm thép cùng loại, chống sự chênh lệch giá dẫn đến sự thiệt hại chung khi
cuộc chiến giá cả giữa các doanh nghiệp nổ ra.
-Nghiên cứu và tiến tới sáp nhập hoặc liên kết chặt chẽ giữa hai hoặc
nhiều công ty nhằm tạo ra những tập đoàn kinh tế mạnh trong lĩnh vực sản
xuất thép tại Việt Nam.Bằng cách này, các doanh nghiệp có thể tận dụng
được vốn, công nghệ, trình độ quản lý của nhau đông thời đẩy mạnh được sản
xuất, nâng cao danh tiếng và thương hiệu.
22
3.2, Đối với Nhà Nước
Ngành thép là một ngành công nghiệp nặng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời
gian thu hồi vốn kéo dài hàng chục năm. Trong thời gian đó khấu hao tài sản
cố định và chi phí lãi vay chiếm từ 10-30% giá thành sản xuất, do đó ngành
thép rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước về nhiều mặt để có thể phát triển vững
mạnh khi phải đối mặt với những thách thức mà quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế mang lại.
3.2.1, Cải cách cơ chế
Nhà nước cần khẳng định chiến lược ưu tiên phát triển ngành thép và tạo
điều kiện cho việc triển khai ngay một số dự án , tận dụng cơ hội về thị
trường hiện đang có của ngành thép.
Ưu tiên dành vốn đầu tư cho Tổng công ty thép Việt Nam để Tổng công
ty phát triển hơn và có đủ sức giữ vai trò chủ đạo trong ngành thép. Đồng
thời, tạo điều kiện thích hợp nhằm thúc đẩy sự hình thành một số doanh
nghiệp hùng mạnh hoặc các tập đoàn kinh tế lớn có khả năng cạnh tranh toàn
cầu trong ngành thép
Nhà nước sớm ban hành chính sách cụ thể riêng cho ngành thép, tạo điều
kiện để thực hiện quy hoạch phát triển ngành thép.Chính sách đầu tư tài
chính, quản lý thị trường,quản lý chất lượng sản phẩm …và các chính sách xã
hội liên quan đến ngành thép cần được liên tục đổi mới theo hướng thuận lợi
và thuận tiện hóa.
Nhà nước cần cho phép triển khai sớm công tác chuẩn bị để xây dựng

Nhà máy thép liên hợp khép kín có quy mô lớn.
Đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, đề
nghị Nhà nước có các biện pháp hữu hiệu ngăn chặn làm hàng giả, hàng kém
chất lượng, nhái nhãn mác…Cần xem lại mức thuế nhập khẩu nguyên vật liệu
đang khá cao để tránh cho các doanh nghiệp không tự chủ về phôi thép.
Đẩy nhanh chương trình cải cách doanh nghiệp sản xuất thép thuộc khu
vực Nhà nước theo hướng kiên quyết giải thể những doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quả , máy móc lạc hậu hoặc cổ phần hóa, cho thuê , bán khoán để
Nhà nước có điều kiện tập trung vốn vào một số doanh nghiệp kinh doanh tốt.
3.2.2, Các biện pháp về quản lý nhập khẩu
Từ năm 1998 trở lại đây, sau khi chính phủ ban hành nghị định
57/1998/NĐ-CP xóa bỏ hoàn toàn các quy định về các điều kiện kinh doanh,
xuất nhập khẩu cho mọi thành phần kinh tế thì tất cả các doanh nghiệp nếu có
đăng kí ngành nghề sản xuất và kinh doanh thép thì đều có thể tham gia xuất
nhập khẩu trực tiếp. Nhưng mặt trái của chính sách trên là làm cho sản phẩm
thép của nước ta sản xuất tràn lan với chất lượng trung bình , không cạnh
tranh được với hàng nước ngoài . Đến nay để bảo hộ cho ngành thép trong
nước chính phủ đang áp dụng một số biện pháp để quản lý nhập khẩu
23
Nhà nước khuyến khích nhập khẩu những chủng loại thép trong nước
chưa sản xuất được bằng cách không đánh thuế hay đánh với mức thuế thấp,
còn với những chủng loại thép trong nước đã sản xuất được thì đánh với mức
thuế cao.Nhà nước đặc biệt quan tâm đến các biện pháp kích thích sản xuất
thép thay thế hàng nhập khẩu thông qua biện pháp đầu tư hoặc dành những ưu
đãi nhất định cho ngành thép
Giảm thuế VAT cho các sản phẩm thép cũng là biện pháp trực tiếp làm
giảm giá thành của thép nhằm hạn chế hàng hóa từ nước ngoài vào. Trong thời
gian tới, bên cạnh việc tiếp tục bảo hộ ngành thép , Nhà nước cần nghiên cứu và
học hỏi thêm một số biện pháp quản lý và nhập khẩu tinh vi mà một số quốc gia
trên thế giới đang áp dụng nhất là trong điều kiện hội nhập hiện nay.

3.2.3, Chính sách thuế
Trong hơn một thập kỉ qua, Việt Nam có nhiều chuyển biến lớn cả về
cục diện kinh tế lẫm chính trị: chuyển từ nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hôi chủ nghĩa . Việt Nam dần mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới.
Hàng hóa từ nước ngoài vào , những ảnh hưởng của việc tham gia thị trường
tự do ASEAN , hay việc là thành viên của tổ chức thương mại thế giới(WTO)
cũng đã ảnh hưởng ít nhiều đến các ngành sản xuất nói chung và ngành sản
xuất thép nói riêng.Chính sách thuế trong thời gian qua đã có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của ngành thép, giúp ngành thép nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình.Tuy nhiên, ngành thép của nước ta sẽ phải chịu ảnh
hưởng của hiệp định tự do hóa khu vực ASEAN.Các hàng rào thuế quan sẽ bị
dỡ bỏ , thuế suất nhập khẩu sẽ giảm chỉ còn dưới 20% hoặc đến 5%. Và sản
phẩm thép của khối ASEAN đã bắt đầu cạnh tranh trên thị trường. Để bảo hộ
cho sản xuất thép trong nước, cơ chế xuất nhập khẩu thời kì này sẽ phải linh
hoạt hơn, vẫn phải đánh thuế cao đối với những sản phẩm từ nước ngoài khối
ASEAN từ 10-30% tùy theo chủng loại thép cho đến năm 2015 sau đó sẽ
giảm dần
Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp tục có những chính sách bảo vệ sản xuất
thép trong nước bằng các chính sách thuế hợp lý : thuế VAT, thuế thu nhập
công ty, thuế nhập khẩu các sản phẩm thép, đồng thời có những chính sách hỗ
trợ xuất khẩu thép trong khuôn khổ mà các cam kết quốc tế liên quan đến hội
nhập cho phép.
3.2.4, Giải pháp đầu tư
Trong giai đoạn tới, nhiệm vụ của ngành thép là đầu tư cả về sơ sở vật
chất kĩ thuật , con người nên vốn đầu tư cần là rất lớn.Giai đoạn 2006-2010,
đầu tư trực tiếp 5 dự án, trọng tâm là Nhà máy liên hợp và mở Thạch khê nhu
cầu vốn đầu tư đến 2790 triệu USD, trong đó chủ yếu là vốn do Tổng công ty
thép Việt Nam tự thu xếp và vốn hỗ trợ của Nhà nước.Do đó, Nhà nước cần
có biện pháp quản lý chặt chẽ về đầu tư xây dựng các Nhà máy thép mới

24

×