Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Phân cấp quản lý ngân sách địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Bình- thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.97 KB, 81 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách Nhà nước (NSNN) là một bộ phận quan trọng trong lĩnh vực
tài chính đồng thời nó cũng là một công cụ tài chính quan trọng của một quốc
gia. Cùng với sự phân cấp quản lý kinh tế và hành chính thì NSNN cũng được
phân cấp quản lý. Phân cấp quản lý ngân sách là cần thiết, nó giúp quá trình
quản lý và phân bổ một cách hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực tài chính
khan hiếm của quốc gia, nó còn tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sự phát
triển hài hòa về kinh tế xã hội. Sự phân cấp có thể là khác nhau phụ thuộc vào
điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội của từng quốc gia.
Mỗi quốc gia đều có những vùng lãnh thổ khác nhau, mỗi địa phương
đều có từng vùng miền khác nhau. Việc phân chia dân cư theo đơn vị hành
chính, lãnh thổ vùng miền, hình thành các cấp hành chính là đặc trưng của
Nhà nước. Do đó, để góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển,
cần thiết phải phân cấp quản lý NSNN giữa các cấp ngân sách ở địa phương,
là giải pháp quan trọng vừa động viên được các nguồn thu tiềm tàng, vừa tạo
cơ chế để các nguồn tài chính được sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, đáp ứng yêu
cầu thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, vừa tạo quyền tự chủ cho
các cấp chính quyền địa phương. Nguồn thu ngân sách là có hạn, trong khi
nhu cầu chi tiêu thì lớn, do vậy phân cấp quản lý ngân sách đòi hỏi phải thực
hiện đúng theo các quy định của pháp luật về NSNN.
Ngoài những thành tựu đạt được, thực tiễn cho thấy cơ chế phân cấp
quản lý ngân sách ở địa phương vẫn còn tồn tại những bất cập cần phải được
hoàn thiện, nhằm đảm bảo tính độc lập của ngân sách các cấp, tăng tính chủ
động của các cấp chính quyền ở địa phương trong khai thác các nguồn thu tại
chỗ và bố trí chi tiêu hợp lý.
2
Với mong muốn tìm những định hướng, giải pháp thích hợp để tháo gỡ
những vướng mắc của cơ chế phân cấp quản lý ngân sách, góp phần vào sự
phát triển của nền tài chính quốc gia và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội


của địa phương trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tôi xin lựa chọn đề
tài “Phân cấp quản lý ngân sách địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Bình-
thực trạng và giải pháp” làm luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa và làm rõ hơn các vấn đề lý luận về phân cấp quản lý
NSNN. Thông qua việc phân tích đánh giá thực trạng phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi ngân sách địa phương (NSĐP) trên địa bàn tỉnh Thái Bình để rút
ra những thành công, tồn tại và làm rõ nguyên nhân.
Đề xuất một hệ thống quan điểm các giải pháp nhằm xây dựng khung
lý luận cơ bản cần thiết về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, đáp ứng yêu cầu quản lý NSĐP
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy cải cách hành chính công,
tạo điều kiện thu hút đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng NSĐP, góp phần thực
hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và cơ chế
chính sách pháp luật cũng như thực tiễn có liên quan đến phân cấp quản lý
NSĐP trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là xem xét về phương thức, cơ chế nội
dung phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách của tỉnh Thái
Bình trong hai thời kỳ ổn định ngân sách 2004 – 2006 và 2007 – 2011, đặc
biệt là kể từ khi luật NSNN sửa đổi (năm 2002) có hiệu lực thi hành từ 2004
đến nay, từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế
3
phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giai đoạn 2011 -2015 và những năm tiếp
theo.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Về mặt lý luận: Luận văn đã hệ thống hóa, phân tích các quan điểm, ý
nghĩa vai trò, nội dung của NSNN, bản chất của phân cấp quản lý NSNN và
những nhân tố ảnh hưởng. Từ đó đề xuất các giải pháp, nguyên tác cần quán

triệt trong quá trình hoach định chính sách phân cấp quản lý NSNN, đặc biệt
là các vấn đè liên quan đến phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp
ngân sách ở địa phương.
Về ý nghĩa thực tiễn: Thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng cơ
chế, chính sách hiện hành trong phân cấp quản lý NSNN mà trọng tâm là cơ
chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSĐP trên địa bàn tỉnh Thái Bình để
làm sáng tỏ những ưu điểm hạn chế, tồn tại vướng mắc để rút ra bài học kinh
nghiệm, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể với những bước đi thích hợp để
hướng tới thực hiện cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp
NSĐP trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hôi
nhập quốc tế.
5. Kết cấu luận văn
Nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý NSNN.
Chương 2: Thực trạng phân cấp quản lý NSĐP trên địa bàn tỉnh Thái
Bình trong thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý NSĐP trên
địa bàn tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
NSNN là khâu quan trọng nhất giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài
chính công. NSNN là một hệ thống bao gồm các cấp ngân sách phù hợp với
hệ thống chính quyền Nhà nước các cấp.
Trong thực tiễn, khái niệm ngân sách thường để chỉ tổng số thu và chi

của một đơn vị trong một thời gian nhất định. Một bảng tính toán các chi phí
để thực hiện một kế hoạch hoặc một chương trình cho một mục đích nhất định
của chủ thể nào đó. Nếu chủ thể đó là Nhà nước thì được gọi là NSNN.
Theo Điều 1, Luật NSNN được Quốc hội khoá XI nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 2, năm 2002 thì:
“Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Với khái niệm trên, có thể hiểu NSNN trên các khía cạnh:
Thứ nhất, NSNN là kế hoạch tài chính vĩ mô trong các kế hoạch tài
chính của nhà nước để quản lý cấc hoạt động kinh tế, xã hội, nó có vị trí quan
trọng góp phần định hướng phát triển sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới,
thúc đầy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
5
Thứ hai, xét về mặt thực thể, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất
của nhà nước. Nguồn hình thành của quỹ ngân sách là từ tổng sản phẩm quốc
nội và từ các nguồn tài chính khác. Mục đích sử dụng quỹ ngân sách là duy trì
sự tồn tại, đảm bảo hoạt động, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước.
Thứ ba, NSNN là khâu chủ đạo trong hệ thống các khâu tài chính, vì
NSNN do nhà nước nắm giữ, chi phối và là công cụ để nhà nước kiểm soát vĩ
mô và cân đối vĩ mô. Việc sử dụng ngân sách có ý nghĩa quốc gia, với phạm
vi tác động rộng lớn và được sử dụng chủ yếu cho các nhu cầu có tính chất
toàn xã hội.
Thu NSNN là hoạt động tạo lập quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà
nước là quỹ NSNN. Thực chất đây là quá trình Nhà nước sử dụng các quyền
lực có được của mình để động viên, phân phối một bộ phận nguồn lực của xã
hội dưới dạng tiền tệ về tay Nhà nước hình thành nên quỹ NSNN.
Nguồn thu là nơi tạo ra số thu, nơi chứa số thu. Như trên đã nói thu
NSNN là một quá trình tác động của Nhà nước thì nguồn thu chính là đối

tượng của quá trình thu đó. Nguồn thu thể hiện các nguồn tài chính được huy
động vào NSNN.
Chi NSNN là quá trình nhà nước, tổ chức, đơn vị có liên quan tiến hành
phân phối, sử dụng quỹ NSNN do quá trình thu tạo lập nên để đảm bảo điều
kiện vật chất cho Nhà nước, nhằm duy trì sự tồn tại hoạt động bình thường
của bộ máy nhà nước, phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà xã hội
giao phó cho Nhà nước.
Căn cứ vào biểu hiện bên ngoài thì NSNN là một bản dự toán thu, chi
bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một
năm hoặc một số năm. Hàng năm Chính phủ dự toán các khoản thu vào quỹ
6
NSNN, đồng thời dự toán các khoản chi cho sự nghiệp kinh tế, chính trị, an
ninh, quốc phòng, quản lý hành chính… từ quỹ NSNN và bảng dự toán này
phải được Quốc hội phê chuẩn.
Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ
tiền tệ của Nhà nước. Trong quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội, nguồn
tài chính luôn vận động giữa một bên là Nhà nước một bên là các chủ thể kinh
tế tế xã hội. Đằng sau các hoạt động đó chứa đựng các mối quan hệ giữa Nhà
nước với các chủ thể khác, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước chuyển dịch của một bộ phận thu nhập bằng tiền của các
chủ thể đó thành thu nhập của Nhà nước và Nhà nước chuyển dịch thu nhập
đó đến các chủ thể được thụ hưởng để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của
Nhà nước.
1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN
1.2.1. Khái niệm về phân cấp quản lý NSNN
Hệ thống chính quyền nhà nước được tổ chức thành nhiều cấp và mỗi
cấp đều được phân giao những nhiệm vụ nhất định. Để thực hiện những
nhiệm vụ đó, mỗi cấp lại được phan giao những quyền hạn cụ thể về nhân sự,
kinh tế, hành chính và ngân sách. Việc hình thành hệ thống NSNN gồm nhiều
cấp thì việc phân cấp NSNN là một tất yếu khách quan. Bởi vì mỗi cấp NSNN

đều có nhiệm vụ thu, chi mang tính độc lập. Trong việc tổ chức quản lý tài
chính nhà nước nếu cơ chế phân cấp quản lý NSNN được thiết lập phù hợp thì
tình hình quản lý tài chính và NSNN sẽ được cải thiện góp phần thúc đẩy sự
phát triển ổn định của nền kinh tế xã hội.
Sự phân giao về ngân sách cho các cấp chính quyền làm nảy sinh khái
niệm về phân cấp quản lý ngân sách. Có thể hiểu về phân cấp quản lý NSNN
như sau:
7
Phân cấp quản lý NSNN là việc phân định phạm vi trách nhiệm, quyền
hạn của các cấp chính quyền nhà nước từ Trung Ương tới địa phương trong
quá trình tổ chức tạo lập và sử dụng NSNN phục vụ cho việc thực thi chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Phân cấp quản lý NSNN chỉ xảy ra khi ở đó có nhiều cấp ngân sách,
phân cấp ngân sách thể hiện mối quan hệ giữa các cấp chính quyền địa
phương.
1.2.2. Nội dung phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp quản lý NSNN là việc xử lý các mối quan hệ giữa các cấp
chính quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương trong hoạt động của
NSNN, từ đó cho phép hình thành một cơ chế phân chia chia ranh gới quyền
lực về quản lý ngân sách nhà nước giữa các cấp chính quyền. Vì vậy nội
dung phân cấp quản lý NSNN về cơ bản bao gồm 3 nội dung chủ yếu sau:
Một là, phân cấp ban hành chế độ chính sách, tiêu chuẩn, định mức:
Trong quản lý NSNN, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức có vai
trò vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là một trong những căn cứ quan
trọng để xây dựng dự toán, phân bổ ngân sách và kiểm soát chi tiêu, mà còn là
một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng quản lý và điều hành ngân
sách của cấp chính quyền
Thông qua việc phân cấp nhằm làm rõ vấn đề cơ quan nhà nước nào có
thẩm quyền ban hành ra các chế độ, chính sách, định mức tiêu chuẩn, phạm
vi, mức độ của mỗi cấp chính quyền, cơ sở pháp lý này được dựa trên hiến

pháp hoặc các đạo luật tổ chức hành chính, từ đó định ra hành lang pháp lý
cho việc chuyển giao các thẩm quyền gắn với trách nhiệm tương ứng với
quyền lực đã được phân cấp, đảm bảo tính ổn định, tính pháp lý, không gây
sự rối loạn trong phân cấp nhà nước.
8
Theo quy định của luật NSNN, về cơ bản, nhà nước Trung ương giữ
vai trò quyết định các loại thu như thuế, phí, lệ phí, vay nợ và các chế độ, tiêu
chuẩn, định mức chi tiêu thực hiện thống nhất trong cả nước.
Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh quyết định một số chế độ thu phí
gắn với quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên, gắn với chức năng quản lý
hành chính nhà nước của chính quyền địa phương và các khoản đóng góp của
nhân dân theo quy định của pháp luật. Việc huy động vốn để xây dựng kết
cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh, được quyết định chế độ chi
ngân sách phù hợp với đặc điểm của địa phương. Riêng chế độ chi có tính
chất tiền lương, tiền công, phụ cấp, trước khi quyết định phải có ý kiến của
các bộ ngành, lĩnh vực.
Hai là, phân cấp về mặt vật chất, tức là phân cấp về nguồn thu và
nhiệm vụ chi:
Có thể nói đây luôn là vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, gây nhiều
bất đồng nhất trong quá trình xây dựng và triển khai các đề án phân cấp quản
lý ngân sách. Sự khó khăn này bắt nguồn từ sự phát triển không đồng đều
giữa các địa phương, sự khác biệt về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
giữa các vùng miền trong cả nước.
Ngân sách Trung ương hưởng các khoản thu tập trung quan trọng
không gắn trực tiếp với công tác quản lý của địa phương như: Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, thu từ dầu thô…hoặc không đủ căn cứ chính xác để
phân chia như: Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn
ngành, đồng thời đảm bảo nhiệm vụ chi cho các hoạt động có tính chất, nhiệm
vụ chiến lược quan trọng của Quốc gia như: Chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế –
xã hội , chi quốc phòng an ninh, chi giáo dục, y tế, chi đảm bảo xã hội do

9
Trung ương quản lý…và hỗ trợ các địa phương chưa cân đối được thu, chi
ngân sách.
NSĐP được phân cấp nguồn thu để bảo đảm chủ động thực hiện những
nhiệm vụ được giao gắn trực tiếp với công tác quản lý tại địa phương như:
Thuế nhà đất, thuế môn bài, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao.
Nhiệm vụ chi NSĐP gắn liền với nhiệm vụ quản lý kinh tế – xã hội ,
quốc phòng, an ninh, an ninh do địa phương trực tiếp quản lý, việc đẩy mạnh
phân cấp quản lý ngân sách trong điều kiện tự nhiên xã hội và trình độ quản
lý ở các vùng miền khác nhau, là động lực quan trọng để khơi dậy các khả
năng của địa phương, xử lý kịp thời các nhiệm vụ của nhà nước trên phạm vi
từng địa phương.
Ngân sách cấp trên thực hiện nhiệm vụ bổ sung cho ngân sách cấp
dưới, dưới hai hình thức: Bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu.
Nội dung phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp
được quy định cụ thể tại điều 31, 32, 33, 34 luật NSNN năm 2002. Trong đó
quy định nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách của địa phương như sau:
Nguồn thu NSĐP gồm:
- Các khoản thu NSĐP hưởng 100% theo cơ chế phân cấp hiện tại, các
khoản thu mà NSĐP được hưởng 100% gồm các khoản thu như: Thuế, phí, lệ
phí và các khoản thu nộp ngân sách khác, cụ thể:
+ Thu từ thuế: Thuế nhà đất, thuế tài nguyên (không kể thuế tài nguyên
hoạt động dầu khí); thuế môn bài; thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
thuế sử dụng đất nông nghiệp.
10
+ Thu từ phí và lệ phí: Lệ phí trước bạ, phần nộp ngân sách theo quy
định của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí do các cơ quan đơn vị thuộc địa
phương tổ chức thu, không kể phí xăng dầu.
+ Các khoản thu ngoài thuế: Tiền sử dụng đất, tiền cho thuê đất, thuê

mặt nước, không kể tiền thuê mặt nước thu từ hoạt động dầu khí; tiền đền bù
thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất, tiền cho thuê và bán nhà ở thuộc sở hữu
nhà nước, thu nhập từ vốn góp của NSĐP, tiền thu hồi vốn của NSĐP tại các
cơ sở kinh tế, thu từ quỹ dự trữ của cấp tỉnh, viện trợ không hoàn lại của các
tổ chức cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương theo quy định của
pháp luật, thu từ quỹ đất công ích và hoa lợi công sản khác, phần nộp ngân
sách theo quy định của pháp luật từ các khoản thu sự nghiệp của các đơn vị
do địa phương quản lý .
+ Các khoản thu khác: Huy động từ tổ chức cá nhân theo quy định của
pháp luật, đóng góp của tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước, thu từ đầu
tư xây dựng các công tình thiết kế hạ tầng, thu kết dư NSĐP, các khoản thu
phạt, tịch thu và thu ngân sách, thu bổ sung từ ngân sách cấp trên, thu chuyển
nguồn từ năm trước chuyển sang.
Các khoản thu chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách Trung ương (NSTW)
và NSĐP, các khoản thu chung cả NSTW và NSĐP cùng hưởng theo tỷ lệ %
gồm 05 loại chủ yếu. Đây là những khoản có số thu lớn, có tính đàn hồi cao,
nhạy cảm với hoạt động kinh tế, có tính điều tiết cao, cụ thể là:
+ Thuế giá trị gia tăng không kể thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu.
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp
hạch toán toàn ngành.
+ Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
11
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá tiêu thụ trong nước.
+ Phí xăng dầu.
- Thu bổ sung từ ngân sách Trung ương.
- Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo
quy định (tại khoản 03 điều 08 của luật NSNN).
Nhiệm vụ chi NSĐP gồm:
- Chi đầu tư phát triển :
+ Đầu tư xây dưng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội do

địa phương quản lý.
+ Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tài chính của nhà nước theo quy định của pháp luật .
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
- Chi thường xuyên:
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội,
văn hoá thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công
nghệ, môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý.
+ Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội (phần giao cho ĐP).
+ Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt
Nam và tổ chức chính trị, xã hội ở địa phương.
+ Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị, xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội,tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật.
+ Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương
quản lý.
12
+ Chương trình Quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý
+ Trợ giá theo chính sách của nhà nước.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
+ Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư.
- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh.
- Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
NSĐP được sử dụng nguồn thu hưởng 100%, số thu được phân chia
theo tỷ lệ % đối với các khoản thu phân chia và số bổ sung cân đối từ ngân
sách cấp trên để cân đối thu, chi ngân sách cấp mình, bảo đảm các nhiệm vụ
kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh được giao.
Tỷ lệ % phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp chính quyền
địa phương do HĐND cấp tỉnh quyết định. Các khoản thu phân chia giữa
ngân sách các cấp chính quyền địa phương gồm:
+ Các khoản thu NSĐP được hưởng 100%.

+ Các khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP, phần NSĐP được
hưởng.
- Số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới ở
địa phương được xác định theo nguyên tắc xác định số chênh lệch giữa số chi
và nguồn thu ngân sách các cấp dưới (thu 100% và phần được hưởng theo tỷ
lệ % từ các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách chính quyền địa
phương).
Ba là, phân cấp về quản lý chu trình ngân sách, tức là phân công, phân
định trách nhiệm, quyền hạn trong lập, chấp hành và quyết toán NSNN.
13
Phân cấp quản lý NSNN thể hiện mối quan hệ giữa các cấp chính
quyền nhà nước trong một chu trình NSNN gồm tất cả các chính quyền nhà
nước trong một chu trình NSNN gồm tất cả các khâu: lập ngân sách, duyệt
thông qua tới chấp hành, quyết toán, thanh tra, kiểm tra ngân sách. Yêu cầu
của nội dung này đặt ra là giải quyết mối quan hệ về mức độ tham gia, điều
hành và kiểm soát của các cơ quan quyền lực, cơ quan quản lý nhà nước và
các cơ quan chuyên môn trong từng khâu quản lý ngân sách.
HĐND các cấp có quyền hạn, trách nhiệm trong việc quyết định dự
toán NSĐP, phân bổ dự toán chi cho các sở, ban ngành theo từng lĩnh vực cụ
thể, quyết định bổ sung từ ngân sách cấp mình cho ngân sách cấp dưới, phê
chuẩn quyết toán ngân sách. Ngoài ra HĐND cấp tỉnh còn có nhiệm vụ :
+ Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân
sách ở địa phương.
+ Quyết định tỷ lệ % phân chia ngân sách giữa các cấp chính quyền địa
phương, đối với phần NSĐP được hưởng từ các khoản thu phân chia giữa
NSTW với NSĐP và các khoản thu có phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa
phương.
Ngoài ra việc tổ chức lập ngân sách ở các địa phương được phân cấp
cho Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy
định cụ thể cho từng cấp ở địa phương. Thảo luận về dự toán với cơ quan tài

chính chỉ thực hiện vào năm thời kỳ đầu ổn định ngân sách, các năm tiếp theo
chỉ thực hiện khi địa phương có đề nghị.
1.2.3. Mục tiêu của phân cấp quản lý NSNN
Một là, phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền các cấp, nhằm phục vụ tốt nhất nhiệm vụ phát triển
kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng, xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy nền kinh
14
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển, thúc đẩy hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực, đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính.
Hai là, tạo ra sự đồng bộ thống nhất trong hệ thống thể chế, văn bản
quy phạm pháp luật gắn với đổi mới cơ chế và đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các đơn vị cơ sở. Đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất
về nguồn lực để đảm bảo khả năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế ở từng địa phương.
Ba là, làm rõ quyền hạn và trách nhiệm, nguồn lực và nhiệm vụ của các
cấp chính quyền trong quản lý sử dụng NSNN, giải quyết tốt mối quan hệ tài
chính giữa các ngành và các địa bàn lãnh thổ. Khắc phục những chồng chéo
hoặc thiếu sót trong từng nội dung quản lý.
Bốn là, tạo ra mối liên kết đồng thuận giữa các cơ quan quản lý tài
chính, cơ quan kế hoạch đầu tư và các ngành liên quan với chính quyền các
cấp trong quản lý NSNN.
1.2.4. Vai trò phân cấp quản lý NSNN
Một là, đối với quản lý hành chính nhà nước: việc phân cấp quản lý
NSNN là công cụ cần thiết khách quan để phục vụ cho việc phân cấp quản lý
hành chính và có tác động quan trọng đến hiệu quả của quản lý hành chính từ
Trung ương đến địa phương.
NSNN cung cấp phương tiện tài chính cho các cấp chính quyền nhà
nước từ Trung ương đến địa phương hoạt động. tuy nhiên phân cấp quản lý
NSNN không phụ thuộc hoàn toàn vào phân cấp hành chính mà nó có tính
độc lập tương đối trong việc thực hiện mục tiêu phân phối hợp lý nguồn lực

quốc gia. Một cơ chế phân cấp quản lý ngân sách hợp lý sẽ tạo điều kiện giúp
chính quyền nhà nước thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình.
15
Ngược lại, phân cấp không hợp lý sẽ gây cản trở, khó khăn đối với quá trình
quản lý của các cấp hành chính nhà nước.
Hai là, đối với điều hành vĩ mô nền kinh tế: phân cấp quản lý NSNN
hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì phát triển
hoạt động của các cấp, chính quyền nhà nước từ Trung ương đến địa phương
mà còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng địa
phương trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hóa NSNN tốt hơn,
điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như mối quan hệ giữa
các cấp ngân sách để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô NSNN.
Cơ chế phân cấp quản lý NSNN có tác động quan trong đến hoạt động
điều hành vĩ mô nền kinh tế của nhà nước thông qua chính sách tài khóa, vì
mức độ phân cấp giữa Trung ương và địa phương có tác động lớn đối với mục
tiêu điều chỉnh kinh tế bằng chính sách tài khóa của nhà nước. Chính sách tài
khóa là công cụ quan trọng nhất trong tay nhà nước để điều hành kinh tế vĩ
mô. Chủ trương và định hướng thu, chi NSNN theo hướng “nới lỏng, hay thắt
chặt” là những biện pháp cốt yếu của Chính phủ để ứng phó với những diễn
biến của nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng, ổn định và phát
triển bền vững. Nếu mức độ phân cấp tập trung về phía Trung ương lớn thì
quá trình điều chỉnh được thực thi nhanh hơn và ngược lại nếu mức độ phân
cấp tập trung về phía địa phương nhiều hơn sẽ dẫn đến thời gian điều chỉnh
chậm hơn bởi vì khi địa phương được phân cấp mạnh thì quyền hạn trong thu,
chi NSĐP được mở rộng và linh hoạt hơn. Chính vì vậy cần xây dựng một
phương án phân cấp hợp lý để vừa đảm bảo thực hiện được mục tiêu của
chính sách tài khóa vừa tránh được việc tập trung quá cao.
1.2.5. Nguyên tắc cơ bản trong phân cấp quản lý NSNN
16
Để đảm bảo phân cấp quản lý NSNN đem lại kết quả tốt cần quán triệt

đầy đủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng,
anh ninh của Nhà nước và năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn.
Chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền về quản lý nhà nước do
hiến pháp quy định trong từng thời kỳ. Ngân sách là công cụ không thể thiếu
được của các cấp trong việc thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, phân cấp quản lý ngân
sách phải phù hợp, nhằm đảm bảo điều kiện vật chất để thực thi nhiệm vụ một
cách hiệu quả. Mặt khác, năng lực quản lý của các cấp chính quyền cũng là
một nhân tố cần được xem xét kỹ càng trước khi thực hiện phân cấp mạnh
cho địa phương. Điều này sẽ hạn chế những tác động tiêu cực trong tiến trình
phân cấp. Cần nâng cao năng lực của các cấp chính quyền trong quản lý
nguồn lực công trước khi phân cấp mạnh cho họ.
Phân cấp quản lý ngân sách của các cấp chính quyền không tách rời
phân cấp quản lý kinh tế xã hội. Mỗi đơn vị hành chính có chức năng và
nhiệm vụ quản lý kinh tế xã hội theo phân cấp phù hợp với đặc điểm của mỗi
cấp chính quyền. Do đó cần phải xem xét về chức năng thực tế và quy mô,
nhiệm vụ từng cấp hành chính để có quyết định phân thành một cấp ngân sách
hay chỉ là một đơn vị dự toán. Phân cấp quản lý ngân sách phải gắn với mô
hình tổ chức bộ máy nhà nước, phải phù hợp và tương ứng với mô hình tổ
chức các cơ quan công quyền, gắn với thực trạng nền kinh tế và phải được
đánh giá trên các khía cạnh chủ yếu như cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề,
tốc độ tăng trưởng, năng suất, hiệu quả thu nhập và phân phối thu nhập…
thực trạng kinh tế của địa phương sẽ quyết định đến nguồn lực tài chính ở địa
phương đó. Phân cấp nguồn lực tài chính ở mỗi địa phương phải quan hệ chặt
chẽ với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn. Vì vậy phân cấp quản
17
lý ngân sách phải phù hợp, nhằm đảm bảo điều kiện vật chất để thực thi
nhiệm vụ một cách hiệu quả.
Thứ hai: Đảm bảo vai trò chủ đạo của Trung ương và vị trí độc lập của
NSĐP trong hệ thống NSNN thống nhất.

Đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW là một đòi hỏi khách quan, bắt
nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền trung ương trong việc cung cấp những
hàng hóa và dịch vụ công cộng có tính chất quốc gia. Hơn nữa, nó còn có vai
trò điều tiết, điều hòa đảm bảo công bằng giữa các địa phương.
Ngân sách trung ương tập trung đại bộ phận nguồn thu của quốc gia và
thực hiện các khoản chi chủ yếu của quốc gia.
Các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có tác động
đến cả nước, các chương trình, dự án quốc gia, các chính sách xã hội quan
trọng, điều phối hoạt động kinh tế vĩ mô của đất nước, bảo đảm quốc phòng,
an ninh, đối ngoại và hỗ trợ những địa phương chưa cần đối được thu, chi
ngân sách đều do NSTWđảm bảo.
NSĐP được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện những
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã
hội trong phạm vi quản lý ở địa phương mình.
Vị trí độc lập tương đối của nó được thể hiện qua cả ba khâu của chu
trình ngân sách: lập, chấp hành và quyết toán ngân sách. Trong phạm vi phân
chia nguồn thu, nhiệm vụ chi được ổn định từ ba đến năm năm, các địa
phương được chủ động tìm các biện pháp tăng thu hợp pháp để phát triển kinh
tế - xã hội, tăng khả năng tự cân đối ngân sách.
Thứ ba: Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp quản lý NSNN.
18
Để giảm bớt khoảng cách giàu ngèo giữa các vùng, các địa phương
trong quá trình phân cấp cần được sử dụng phương pháp điều hoà ngân sách
tức là quá trình điều hoà phân phối lại nguồn tài chính trong phạm vi hệ thống
ngân sách chính quyền, chuyển một phần thu của ngân sách cấp trên cho ngân
sách cấp dưới. Thông qua phương pháp bổ sung cân đối và bổ sung có mục
tiêu, đây là hai phương pháp tài trợ mà chính quyến cấp trên thường sở dụng
đối với chính quyền cấp dưới.
Ngoài ra, việc thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng, miền qua
chi ngân sách cấp trên và đầu tư hạ tầng cơ sở kinh tế xã hội cũng được sử

dụng như biện pháp bổ trợ cho hai phương thức trên.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN
1.3.1. Nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế phân cấp NSNN
1.31.1. Bối cảnh và xu thế phát triển kinh tế xã hội ở địa phương
Trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương không
có sự biến động lớn thì nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN ổn định, khi nền kinh
tế, chính trị, xã hội bất ổn định thì nguồn thu NSNN trên địa bàn bị ảnh
hưởng, nhiệm vụ chi cho phát triển kinh tế, chi cho đảm bảo an ninh quốc
phòng và giải quyết các vấn đề xã hội phải thay đổi theo chiều hướng khác.
Khi nền kinh tế càng phát triển khả năng tích luỹ của nền kinh tế càng lớn,
khả năng chi cho đầu tư phát triển càng cao. Như vậy cơ chế phân cấp quản lý
nhà nước cũng vì thế mà thay đổi cho phù hợp.
Trong điều kiện hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới đang là nhân tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý
NSNN ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Bởi lẽ sự tác động của toàn cầu hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm thay đổi chức năng nhiệm vụ của nhà nước
19
trong thời kỳ mới. Trong thời kỳ hội nhập, nhà nước không can thiệp sâu sắc
và trực tiếp vào nền kinh tế mà chỉ đóng vai trò người cầm cân nảy mực, tạo
môi trường hành lang pháp lý cho nền kinh tế ở tầm vĩ mô, việc đầu tư trực
tiếp cho nền kinh tế bằng nguồn vốn NSNN chỉ tập trung ở những khâu trọng
yếu không có khả năng thu hồi vốn và đáp ứng các nhu cầu phúc lợi xã hội.
Vì vậy đây là nhân tố gây ảnh hưởng tới phân cấp quản lý NSNN.
1.3.1.2. Tính chất cung cấp hàng hoá công cộng
Hàng hoá công cộng được hiểu là các hàng hoá, dịch vụ mà việc sử
dụng nó của các chủ thể này không làm cản trở tới việc sử dụng các chủ thể
khác. Có thể nói đó là các hàng hoá mà tất cả mọi người đều có thể sử dụng
và lợi ích từ việc sử dụng đó đối với bất kỳ chủ thể nào cũng hoàn toàn độc
lập với các chủ thể khác cùng sử dụng.

Trong quản lý hành chính nhà nước, chính quyền nhà nước các cấp vừa
phải đảm bảo chức năng quản lý vừa phải đảm bảo chức năng phục vụ công
cộng cho xã hội. Phần lớn các hàng hoá công cộng đều được cung cấp bởi khu
vực công (chính quyền nhà nước ở trung ương và địa phương).
Hàng hoá công cộng được cung cấp ở phạm vi quốc gia như: Quốc
phòng, an ninh, phát thanh truyền hình trung ương; ở phạm vi địa phương như
phát thanh, truyền hình, đường giao thông, khu vui chơi giải trí thể thao của
các cấp chính quyền địa phương…
Đây là yếu tố căn bản khi phân giao quyền hạn và trách nhiệm giữa các
cấp trong bộ máy chính quyền giữa trung ương và địa phương trong việc cung
cấp hàng hoá công cộng. Điều kiện vật chất để thực thi nhiệm vụ đòi hỏi phải
phân chia nguồn lực từ NSNN, đây chính là tiền đề để phân cấp nguồn thu,
nhiêml vụ chi cho từng cấp chính quyền địa phương.
1.3.1.3. Đặc điểm tự nhiên, xã hội ở địa phương
20
Đây là một nhân tố có tính đặc thù mà cần được quan tâm. Tính đặc thù
đó thường được biểu hiện ở những đặc điểm tự nhiên về địa hình, vùng có tài
nguyên, có địa thế hay có điều kiện xã hội đặc biệt. Ở những vùng, những địa
phương này có thể coi là một đối tượng đặc biệt của cơ chế phân cấp dẫn tới
những nội dung phân cấp đặc thù cho phù hợp.
Sự đa dạng về mặt xã hội tạo ra sự khác biệt về nhu cầu, sở thích đối
với hàng hóa dịch vụ công do mức thu nhập tạo ra. Khi sự khác biệt nảy sinh
thì đòi hỏi cơ chế phân cấp phù hợp sẽ mang lại hiệu quả hơn.
1.3.1.4. Mức độ phân cấp về quản lý hành chính – kinh tế - xã hội
giữa các cấp chính quyền
Việc tổ chức bộ máy nhà nước theo các đơn vị hành chính lãnh thổ nảy
sinh yêu cầu hình thành những cấp NSNN tương ứng với từng cấp hành chính
đó. Tuy nhiên đây mới chỉ là điều kiện cần, bởi vì có nhiều cách khác nhau
trong việc chuyển giao một bộ phận trong tổng thể các nguồn tài chính cho
việc thực hiện các nhiệm vụ của mỗi đơn vị hành chính.

1.3.2. Sự cần thiết phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp quản lý NSNN là một nội dung trong cơ chế quản lý ngân
sách nhằm quản lý thống nhất hệ thống NSNN bằng việc phân công trách
nhiệm gắn với quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp trong
việc thực hiện thu chi NSNN phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Phân cấp quản lý NSNN thực chất là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp
chính quyền trong việc sử dụng NSNN. Cụ thể là:
+ Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong
việc ban hành các chính sách chế độ thu chi quản lý ngân sách.
21
+ Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ
chi, nguồn thu và cân đối ngân sách giữa các cấp chính quyền.
Phân cấp quản lý NSNN là yêu cầu khách quan, bởi mỗi quốc gia đều
có những vùng lãnh thổ khác nhau. Việc phân chia dân cư theo đơn vị hành
chính lãnh thổ, hình thành các cấp hành chính là đặc trưng của Nhà nước. Do
đó, để quốc gia phát triển, cần thiết phải phân cấp quản lý NSNN, vừa đáp
ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, vừa tạo quyền tự
chủ cho các cấp chính quyền địa phương.
Phân cấp quản lý NSNN cho các cấp chính quyền là giải pháp vừa động
viên được các nguồn thu tiềm tàng, vừa tạo cơ chế để các nguồn tài chính
được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Nguồn thu ngân sách là có hạn, trong khi
nhu cầu chi tiêu thì lớn, do vậy phân cấp quản lý ngân sách đòi hỏi phải thực
hiện theo đúng các quy định của pháp luật về NSNN.
Phân cấp được xem như một phương thức để tăng tính dân chủ, linh
hoạt, hiệu quả và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc cung cấp
các hàng hóa và dịch vụ công cộng.
Tóm lại, qua nghiên cứu chương này, luận văn rút ra một số vấn đề chủ
yếu sau đây:
Phân cấp quản lý NSNN là một nội dung quan trọng trong cơ chế phân
cấp quản lý ngân sách của các cấp chính quyền địa phương. Qua phân cấp

nhằm quản lý ngân sách một cách hiệu quả, tiết kiệm, phát huy vai trò và
chức năng của NSNN với tư cách là phương tiện vật chất để đảm bảo cho bộ
máy Nhà nước hoạt động liên tục và hiệu quả, đồng thời là công cụ điều tiết
vĩ mô nền kinh tế - xã hội.
Phân cấp quản lý NSNN là tất yếu khách quan, bởi mỗi quốc gia đều có
những vùng lãnh thổ khác nhau, mỗi địa phương đều có từng vùng miền khác
22
nhau. Việc phân chia dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ, vùng miền đã
hình thành các cấp hành chính đặc trưng của Nhà nước. Do vậy, để góp phần
thúc đẩy kinh tế xã hội địa phương phát triển, cần thiết phải phân cấp quản lý
ngân sách, mà yếu tố quan trọng là cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
NSNN. Đây là giải pháp quan trọng để động viên được các nguồn thu tiềm
tàng, vừa tạo ra cơ chế để sử dụng các nguồn tài chính tiết kiệm, hiệu quả, đáp
ứng yêu cầu thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, tạo quyền tự chủ
cho các cấp chính quyền. Cơ sở xây dựng cơ chế phân cấp quản lý ngân sách
ở địa phương là mô hình tổ chức bộ máy hành chính, phù hợp với phân cấp
quản lý kinh tế xã hội và trình độ năng lực của mỗi cấp chính quyền.
Các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN là phải bảo đảm sự tăng cường
giữa hệ thống ngân sách với hệ thống hành chính, đảm bảo vai trò chủ đạo
của ngân sách cấp trên, phát huy tính năng động sáng tạo của ngân sách cấp
dưới; đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính quốc gia; bảo đảm tính công
bằng, hiệu quả, khách quan trong toàn hệ thống.
Từ nhận thức nhu trên đã có cơ sở đề ra các nguyên tắc, các yêu cầu
trong việc xây dựng cơ chế phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Thái
Bình một cách khách quan. Từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp, hiệu quả,
thực tế nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp hiện hành.
23
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSĐP TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THÁI BÌNH TRONG THỜI GIAN QUA

2.1. VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA TỈNH THÁI BÌNH
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Tỉnh Thái Bình nằm ở phía đông nam đồng bằng châu thổ sông Hồng,
diện tích tự nhiên 1.546 km² (năm 2003).
Địa hình khá bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ cao phổ biến từ
1-2 m trên mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam.
Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa nhiều từ
tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm
sau, hàng năm đón nhận một lượng mưa lớn (1.700-2.200mm), lại là vùng bị
chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chỉ lưu của sông Hồng, trước khi chạy
ra biển.
Thái Bình được bao bọc bởi ba dòng sông lớn: Phía tây và tây nam là
sông Hồng, giáp hai tỉnh Hà Nam và Nam Định; phía bắc là sông Luộc, giáp
hai tỉnh Hưng Yên và Hải Hương; phía đông là sông Hóa, giáp thành phố Hải
Phòng; phía đông là biển Đông với 52 km bờ biển trong vịnh Bắc Bộ. Cùng
với ba con sông lớn bao quanh, được thông nguồn với gần 70 km con sông
lớn nhỏ. Với vị trí đó, Thái Bình là một vùng đất phì nhiêu được phù sa hệ
thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp.
Ngoài nguồn tài nguyên đất – nước, tài nguyên thiên nhiên chủ yếu của
Thái Bình gồm có: khí đốt, nước khoáng, than.
24
Dân số tỉnh Thái Bình là 1.902.400 người với mật độ dân số 1.195
người/km². Thành phần dân số: nông thôn (90.1%) và thành thị (9.9%).
Thái Bình có 287 đơn vị cấp xã gồm 10 phường, 9 thị trấn và 268 xã.
Thái Bình được chia thành 7 huyện và 1 thành phố trực thuộc.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội
Thái Bình nằm cách thủ đô Hà Nội 100km về hướng đông nam, trong
vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế: Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh.

Trước đây Thái Bình hầu như bị cô lập hoàn toàn bởi sông nước, giao
thông liên tỉnh chủ yếu phải sử dụng hệ thống phà, thuyền. Từ khi hệ thống
quốc lộ 10 được nâng cấp, giao thông giữa Thái Bình và các tỉnh khác trở nên
dễ dàng hơn, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế.
Nền kinh tế của tỉnh có mức tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng GDP
phát triển qua các thời kì. Về cơ cấu kinh tế thì trong thời gian qua đã có sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỉ trọng của khu vực 1 (nông
- lâm - ngư nghiệp), tăng dần tỉ trọng khu vực 2 (công nghiệp - xây dựng) và
khu vực 3 (dịch vụ).
Một số chỉ tiêu kinh tế (giai đoạn 2006-2010):
- Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2010 đạt gần 12.500 tỉ đồng
(chỉ số giá năm 1994), nhịp độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2006 - 2010 bình
quân 11%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,3% so với năm 2009 là tỉnh có
tốc độ tăng trưởng cao ở khu vực đồng bằng sông Hồng.
- Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ phấn
đấu năm 2015: 24.7% - 40.3 % - 35%.
25
- GDP bình quân năm 2010 là 16.8 triệu/người , phấn đấu năm 2015 là
43 triệu /người.
- Giá trị sản xuât công nghiệp 2010 ước đạt trên 20.000 tỷ. Hiện nay
các khu công nghiệp trên toàn tỉnh thu hút được 127 dự án, đã có 102 dự án
hoàn thành đầu tư đi vào sản xuất với tổng số vốn thực hiện đầu tư là 4.280,3
tỉ đồng thu hút 31.514 lao động.
- Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn năm 2009 là 310 triệu USD, năm
2010 là 430 triệu USD, dự kiến năm 2015 là 818 triệu USD.
- Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tới 2010 là 27.550 tỉ đồng
- Thu ngân sách năm 2010 đạt 2043 tỷ đồng, ước tính năm 2011 thu
2.500 tỷ đồng.
- Thành lập khu kinh tế biển tại 2 huyện Tiền Hải và Thái Thụy rộng
30.000 ha, phấn đấu năm 2020 Thái Bình trở thành tỉnh công nghiệp.

- Trung tâm thương mại Thái Bình Dream tọa lạc tại vị trí trung tâm
của tỉnh Thái Bình (ngã tư An Tập - Số 355 Lý Bôn, TP Thái Bình) bao gồm
khách sạn Thái Bình Dream đủ chuẩn 3 sao và siêu thị Gmart (nơi mua sắm
sầm uất nhất Thái Bình) thuộc Geleximco Thái Bình.
- Trung tâm điện lực Thái Bình tại xã Mỹ Lộc - Huyện Thái Thụy với
vốn đầu tư 2.1 tỉ USD, diện tích 254ha. Dự án có công suất 1800 MW, dự
kiến nhà máy 1 sẽ hoàn thành vào năm 2013 - 2014 và nhà máy 2 hoàn thành
vào năm 2015.
- Tập đoàn dầu khí quốc gia sẽ triển khai 15 dự án thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau trên địa bàn Thái Bình: dự án trung tâm điện lực, dự án khoan thăm
dò dầu khí, dự án xây dựng kho xăng dầu tại xã Hoà Bình - Vũ Thư quy mô
chứa 6000m³, dự án xây dựng hệ thống trạm kinh doanh nhiên liệu, dự án xây

×