Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh ninh bình, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 122 trang )



Luận văn
Phát triển du lịch sinh thái
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình,
thực trạng và giải pháp
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu cần thiết trong đời sống xã
hội. Về mặt kinh tế, du lịch đã trở thành một ngành quan trọng của nhiều
nước công nghiệp phát triển. Với một số quốc gia, du lịch được coi là một cứu
cánh để vực dậy nền kinh tế.
Tuy nhiên, do việc khai thác tài nguyên không hợp lý và thiếu khoa học
để phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội mà môi trường và tài nguyên du lịch
ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang phải chịu những tác
động tiêu cực, nó đã và đang trong quá trình cạn kiệt, suy thoái những tác
động tiêu cực của thiên tai ngày càng tăng và diễn ra ở nhiều nơi. Du lịch là
một ngành có mối liên hệ chặt chẽ với môi trường. Trong phát triển du lịch
môi trường là yếu tố quan trọng bậc nhất ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và
hoạt động, là nguồn động lực để thu hút khách du lịch. Cùng với sự phát triển
của đời sống kinh tế xã hội, du lịch cũng có những sự thay đổi để phục vụ nhu
cầu ngày càng đa dạng của con người. Một trong những loại hình du lịch mới
ra đời và chiếm được sự quan tâm ngày càng cao của xã hội là du lịch sinh
thái. Du lịch sinh thái chú trọng vào tài nguyên và nguồn lực địa phương, chú
trọng đến hoạt động bảo tồn và đảm bảo phát triển cộng đồng dân cư địa
phương điều này làm cho du lịch sinh thái trở nên hấp dẫn với các nước đang
phát triển. Du lịch sinh thái được xác định là loại hình du lịch đặc thù, là tiềm
năng thế mạnh của du lịch Việt Nam. Mặc dù vậy đến nay việc khai thác những
tiềm năng tài nguyên du lịch sinh thái còn ở mức sơ khai, tự phát. Trước đây và
thậm chí ngay cả thời điểm hiện tại, thuật ngữ du lịch sinh thái vẫn đang được


hiểu một cách “lờ mờ”, không rõ ràng. Người ta lạm dụng những từ mang ý
nghĩa vì môi trường như: “xanh - green”; tiền tố “sinh thái - eco” để ghép với
một danh từ khác như: Chương trình du lịch sinh thái - eco tour, lữ hành sinh
thái - eco travel, nghỉ hè sinh thái - ecovation và du lịch sinh thái - eco -
tuorism mà không hiểu (hoặc cố tình không hiểu) ý nghĩa đích thực của nó.
Ý tưởng của các nhà đầu tư, chủ kinh doanh trong lĩnh vực du lịch này là tích
cực. Nhưng kiến thức về môi trường sinh thái và cách thể hiện sự phục vụ của
họ đôi khi lại trái ngược với các nguyên tắc, đặc điểm trong phát triển du lịch
sinh thái.
Ninh Bình là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng cách thủ
đô Hà Nội không xa, có một tiềm năng to lớn để phát triển du lịch. Có thể nói,
ít có địa phương nào trên cả nước với diện tích đất không rộng, người không
đông nhưng lại tập trung nhiều nguồn tài nguyên du lịch có giá trị như Ninh
Bình: Khu di tích danh thắng Tam Cốc- Bích Động, Kinh đô cũ của hai triều
Đinh - Lê, Nhà thờ đá Phát Diệm, rừng quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn
thiên nhiên đất ngập nước Vân Long đã đạt đến mức độc đáo và quý hiếm.
Trong những năm qua, kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và du lịch nói
riêng đã có những tiến bộ đáng kể nhưng trên thực tế nó vẫn chưa tương xứng
với tiềm năng, thế mạnh hiện có của tỉnh. Một số chỉ tiêu về kinh tế: Như tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người còn ở mức thấp so với bình quân
chung của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm chạp, đặc biệt là các
chỉ tiêu về du lịch như: số lượng du khách, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
dịch vụ du lịch còn nhỏ bé. Hầu hết các hoạt động du lịch của tỉnh chỉ dừng
lại ở việc khai thác các nguồn tài nguyên tự nhiên sẵn có mà chưa có sự đầu
tư để phát triển bền vững. Hoạt động du lịch sinh thái bước đầu đã đi vào hoạt
động nhưng vẫn mang tính tự phát là chủ yếu, việc tổ chức các hoạt động du
lịch sinh thái đã bắt đầu bộc lộ những yếu kém, gây tác động xấu đến cảnh
quan, môi trường. Nguyên nhân là do các cấp, các ngành, đơn vị, cá nhân làm
du lịch chưa thật sự hiểu rõ về du lịch sinh thái và những lợi ích mà nó mang
lại, không chú trọng đầu tư (cả về cơ sở hạ tầng, nhân lực và kiến thức khoa

học), thiếu quy hoạch, chiến lược phát triển, hoặc quy hoạch chưa đồng bộ,
chưa tiến hành khảo sát kỹ lưỡng và toàn diện về tài nguyên du lịch tự nhiên
cũng như các điều kiện khác để phát triển DLST.
Với những tiềm năng sẵn có của tỉnh Ninh Bình việc chú trọng đầu tư
để phát triển kinh tế du lịch đặc biệt là phát triển DLST không chỉ mang lại
những hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế của tỉnh mà còn phù hợp với xu thế
phát triển của xã hội. Việc nghiên cứu, tìm ra những giải pháp để phát triển
DLST là cần thiết, không chỉ với lý luận mà còn có giá trị thực tiễn cao. Do
vậy tác giả chọn đề tài “Phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình, thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ
chuyên ngành Kinh tế phát triển của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học cả trong nước và quốc
tế nghiên cứu về du lịch và phát triển du lịch trong đó có du lịch Ninh Bình:
- “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình 1995-2010”,
Viện nghiên cứu chiến lược phát triển du lịch Việt Nam.
- Trần Đức Thanh, “Cơ sở khoa học trong việc thành lập các bản đồ
phục vụ quy hoạch du lịch cấp tỉnh ở Việt Nam (Lấy ví dụ ở Ninh Bình)”.
Luận án PTS, Hà Nội 1995- 170 trang.
- Vũ Tuấn Cảnh (Chủ trì) “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam”. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp nhà nước 1998-2000. (Tài liệu lưu trữ tại viện
nghiên cứu phát triển du lịch. Tổng cục du lịch Việt Nam.)
- Trần Quốc Nhật, “Quản lý nhà nước về du lịch trong giai đoạn phát
triển mới của nền kinh tế Việt Nam”, luận án thạc sỹ kinh tế,1996.
- Lê Thạc Cán “Đánh giá tác động môi trường - phương pháp luận,
kinh nghiệm thực tiễn.” Nxb KH và KT, Hà Nội 1994.
- Phạm Trung Lương “Đánh giá tác động môi trường trong phát triển
du lịch của Việt Nam”. Tuyển tập báo cáo hội thảo lần thứ nhất về “đánh giá
tác động môi trường” Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia,
Hà nội 6-7/6/1997.

- Phan Trung Lương, “Cơ sở khoa học phát triển du lịch sinh thái Việt
Nam.” Báo cáo đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội, 1998
- Kreg Lindberg và Dolnal E-Hawkins (1999), “du lịch sinh thái:
Hướng dẫn cho các nhà lập kế hoạch và quản lý”
- Tổng cục du lịch Việt Nam “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
giai đoạn 2001-2010” tháng 10/2001.
- Và một số công trình khoa học, bài viết khác.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu và các bài viết trên chỉ đề cập
đến vấn đề du lịch dưới các góc độ và phạm vi rộng hẹp khác nhau. Chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về phát triển du
lịch sinh thái ở Ninh Bình. Đề tài: “Phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình, thực trạng và giải pháp” không trùng lắp với bất cứ luận
văn hoặc đề tài khoa học nào đã công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
* Mục tiêu:
Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về du lịch sinh thái, đưa
ra những phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển
du lịch sinh thái ở Ninh Bình tương xứng với tiềm năng sẵn có của tỉnh.
* Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu và tổng hợp một số vấn đề lý luận cơ bản về du lịch sinh thái
+ Phân tích và đánh giá thực trạng của du lịch sinh thái trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình và kinh nghiệm phát triển du lịch sinh thái ở một số địa
phương trong nước và một số quốc gia trên thế giới.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch
sinh thái ở Ninh Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu Du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
- Luận văn tập trung nghiên cứu số liệu từ năm 1995 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng những quan
điểm cơ bản của Đảng, nhà nước về phát triển du lịch
- Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, so
sánh và phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Đóng góp của luận án
- Góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về du lịch sinh thái.
- Đánh giá tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái ở Ninh Bình từ đó đề
xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch sinh thái của tỉnh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan hoạch
định chính sách phát triển du lịch, đặc biệt phát triển du lịch sinh thái ở tỉnh
Ninh Bình và dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn có 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DU LỊCH SINH THÁI

1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA DU LỊCH SINH THÁI
1.1.1. Khái niệm về du lịch sinh thái
Cho đến nay, du lịch sinh thái đã và đang phát triển nhanh chóng ở
nhiều quốc gia trên thế giới và ngày càng thu hút được sự quan tâm rộng rãi
của các tầng lớp xã hội, đặc biệt là đối với những người có nhu cầu tham quan
du lịch và nghỉ ngơi. Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa
dạng sinh học và văn hóa cộng đồng; sự phát triển du lịch sinh thái đã và đang
mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội giải quyết việc làm, nâng
cao thu nhập quốc gia và thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương, nhất là
đối với vùng sâu, vùng xa, nơi có cảnh quan thiên nhiên, văn hóa hấp dẫn.
Mặt khác, DLST còn góp phần vào việc nâng cao dân trí và sức khoẻ cộng
đồng thông qua giáo dục môi trường, văn hóa, lịch sử và nghỉ ngơi giải trí. Là
loại hình du lịch có xu thế phát triển nhanh trên phạm vi toàn thế giới, ngày

càng chiếm được sự quan tâm của nhiều người, nhiều quốc gia bởi đây là loại
hình du lịch có trách nhiệm, có ảnh hưởng lớn đến việc “xanh hoá” ngành du
lịch thông qua các hoạt động nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, phát
triển phúc lợi cộng đồng và đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Do tạo được sự quan tâm của xã hội nên nhiều tổ chức, cá nhân tham
gia nghiên cứu về loại hình du lịch này, mỗi tổ chức cá nhân khi nghiên cứu
đều đưa ra những định nghĩa của riêng mình:
- Một trong những định nghĩa được coi là sớm về du lịch sinh thái mà
đến nay vẫn được nhiều người quan tâm là định nghĩa của Hội Du lịch Sinh
thái Quốc tế đưa ra năm 1991: “Du lịch Sinh thái là loại hình du lịch có trách
nhiệm đối với các vùng tự nhiên, bảo vệ môi trường và duy trì cuộc sống yên
bình của người dân địa phương” [12, tr.11].
Định nghĩa này đề cao trách nhiệm của du khách đối với khu vực mà họ
đến thăm đó là trách nhiệm giữ gìn, tôn tạo, tránh sự ảnh hưởng tiêu cực đến
môi trường tự nhiên, hệ sinh thái, và cả cuộc sống của cư dân địa phương.
- Theo quỹ bảo tồn động vật hoang dã (WWF - World Wild Fund): "Du
lịch sinh thái đề cập tới các hoạt động du lịch đi tới các khu vực thiên nhiên
hoang dã, gây tác động tối thiểu tới môi trường tự nhiên và cuộc sống của các
loài động thực vật hoang dã trong khi mang lại một số lợi ích kinh tế cho cộng
đồng địa phương và những người bản địa phục vụ tại đó" [12, tr.11].
Ở định nghĩa này cũng đề cập đến địa điểm có thể tổ chức các tuor du
lịch sinh thái, đó là các khu vực tự nhiên hoang dã, và điều quan trọng là giảm
thiểu những tác động tiêu cực tới môi trường tự nhiên và đặc biệt là mang lại
những lợi ích kinh tế cho cộng cư dân địa phương và những người bản địa
làm việc trực tiếp trong ngành du lịch.
- Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO - World Tourism Organisation):
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch được thực hiện tại những
khu vực tự nhiên còn ít bị can thiệp bởi con người, với mục đích để
chiêm ngưỡng, học hỏi về các loài động thực vật cư ngụ trong khu
vực đó, giúp giảm thiểu và tránh được các tác động tiêu cực tới khu

vực mà du khách đến thăm. Ngoài ra, DLST phải đóng góp vào
công tác bảo tồn những khu vực tự nhiên và phát triển những khu
vực cộng đồng lân cận một cách bền vững đồng thời phải nâng cao
được khả năng nhận thức về môi trường và công tác bảo tồn đối với
người dân bản địa và du khách đến thăm [12, tr.11].
Có thể nói đây là một định nghĩa đầy đủ nhất nội dung cũng như những
đặc điểm của DLST, đó là địa điểm để tổ chức được một tuor du lịch, mục
đích chuyến đi của du khách đặc biệt là việc giáo dục và nâng cao nhận thức
cho du khách cùng với nó là trách nhiệm của các tổ chức cũng như du khách
trong việc bảo tồn giữ gìn môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá để đảm
bảo cho sự phát triển bền vững ở những nơi mà du khách tới thăm quan.
Tại hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển DLST tháng 9-1999
tại Hà Nội: "Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn
hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát
triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương" [36, tr. ].
Có thể nói đây là một định nghĩa đầu tiên của Việt Nam về du lịch sinh
thái, nó mang đầy đủ những ý nghĩa và nội dung của loại hình du lịch này. Nó
được coi là cơ sở lý luận cho các nghiên cứu và ứng dụng thực tế việc phát
triển du lịch sinh thái ở Việt Nam.
Mặc dù có thể khác nhau về diễn đạt và cách thể hiện nhưng trong các
định nghĩa về DLST đều có sự thống nhất cao về nội dung ở bốn điểm:
Thứ nhất, phải được thực hiện trong môi trường tự nhiên còn hoang sơ
hoặc tương đối hoang sơ gắn với văn hoá bản địa.
Thứ hai, có khả năng hỗ trợ tích cực cho công tác bảo tồn các đặc tính
tự nhiên, văn hoá và xã hội.
Thứ ba, có tính giáo dục môi trường cao và có trách nhiệm với môi trường.
Thứ tư, phải mang lại lợi ích cho cư dân địa phương và có sự tham gia
của cộng đồng cư dân địa phương.
Ngày nay, người ra rất hay xử dụng thuật ngữ du lịch sinh thái để giới
thiệu, quảng bá cho các điểm du lịch, tuor du lịch bởi vậy khi xem xét, đánh

giá chúng ta cần phải dựa vào các đặc trưng của mỗi loại hình du lịch để có
thể phân biệt đúng về hoạt động du lịch đó là Du lịch sinh thái hay là du lịch
dựa vào thiên nhiên vì các loại hình này có hình thức tương đối giống nhau
nếu không hiểu rõ bản chất người ta sẽ dễ bị nhầm lẫn.
1.1.2. Phân biệt du lịch sinh thái với một số loại hình du lịch
tương tự
* Phân biệt DLST với DL tự nhiên (nature tourism):
Du lịch tự nhiên, theo tổ chức du lịch thế giới (WTO) là loại hình du
lịch với động cơ chính của khách du lịch là quan sát và cảm thụ tự nhiên.
Khái niệm du lịch tự nhiên cho thấy nó mang một ý nghĩa rất rộng bao
trùm cả DLST và các loại hình du lịch khác. Theo đó, bất cứ hoạt động du
lịch nào liên quan đến thiên nhiên đều được coi là du lịch tự nhiên. Kèm theo
đó không có yêu cầu mang tính trách nhiệm đối với cộng đồng dân cư địa
phương hoặc ràng buộc nào khác đối với tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
du lịch. DLST đòi hỏi tính trách nhiệm cao đối với môi trường và cộng đồng
cư dân địa phương.
* Phân biệt DLST với du lịch mạo hiểm (adventure tourism):
Theo tổ chức du lịch Quebec, Canada: du lịch mạo hiểm là hoạt động
thể chất ngoài trời hoặc các hoạt động kết hợp diễn ra tại một khu vực tự
nhiên nhất định (khu vực hoang dã, tách biệt hoặc đặc thù…). Những hoạt
động này thường có tính mạo hiểm và mức độ rủi ro tuỳ thuộc vào điều kiện
môi trường (sự cách ly, các tính chất địa lý…) bản chất của các hoạt động và
các phương tiện vận tải được sử dụng.
Khái niệm này cho thấy đây là loại hình du lịch đến với thiên nhiên.
Điểm chú ý là loại hình du lịch này không chú ý đến việc tìm hiểu về hệ sinh
thái mà khai thác tài nguyên thiên nhiên để phục vụ mục đích mạo hiểm,
chinh phục thiên nhiên, thậm chí sẵn sàng sử dụng các phương tiện kỹ thuật
hiện đại để hỗ trợ. Loại hình du lịch mạo hiểm nhằm chứng tỏ khả năng chinh
phục tự nhiên của con người, nó hoàn toàn khác với DLST vì DLST đi tìm sự
hoà hợp, cùng chung sống hài hoà giữa con người với thiên nhiên (các hệ sinh

thái có các loài động thực vật cùng cư ngụ trong đó)
* Phân biệt DLST với các loại hình du lịch có chọn lựa (alternative tourism):
Du lịch có chọn lựa là loại hình du lịch mới, được đưa ra nhằm thúc
đẩy sự trao đổi thông qua du lịch giữa các thành viên của các cộng đồng khác
nhau. Nó tìm kiếm sự hiểu biết, gắn kết và bình đẳng giữa các thành viên
tham gia trong đó.
Đây là một tập hợp các loại hình du lịch được đưa ra để phân biệt du
lịch đại trà (Du lịch truyền thống). Du lịch đại trà đã dần bộc lộ các tác hại
tiêu cực của nó tới văn hoá, xã hội và môi trường ở nơi đến du lịch. Các loại
hình du lịch lựa chọn ra đời một mặt nhằm thoả mãn đúng hơn các mong
muốn của người tiêu dùng du lịch trong bối cảnh toàn cầu hoá. Với ý nghĩa
này DLST thực chất là một trong những loại hình du lịch lựa chọn.
1.1.3. Đặc điểm của du lịch sinh thái
Mặc dù chưa có một khái niệm thống nhất về DLST. Nhưng trong nội
hàm của các khái niệm đều hàm chứa bốn đặc điểm cơ bản và sự khác biệt
của DLST với các loại hình du lịch khác. DLST không đơn giản chỉ là đưa ra
một loại sản phẩm mới của ngành du lịch mà hơn thế nữa nó là động lực của
sự phát triển, là một nhân tố để phát triển bền vững. DLST có những đặc điểm
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, DLST được thực hiện tại những nơi hoang sơ hoặc tương đối
hoang sơ và có môi trường tự nhiên đa dạng phong phú.
Bởi vì khách du lịch sinh thái khi thực hiện một chuyến đi họ mong
muốn trở về với những nơi có môi trường trong lành và chưa bị tác động
nhiều bởi con người ở đó họ được hoà mình với thiên nhiên để được khám
phá, được nghiên cứu tự nhiên và văn hoá bản địa và được thưởng thức bầu
không khí trong lành, thoát khỏi cuộc sống đầy áp lực của công việc và ô
nhiễm môi trường.
Những nơi có môi trường tự nhiên là những nơi có bề dày về sự hình
thành và phát triển của các hệ động thực vật và con người. Một vài ha rừng
thậm chí hàng ngàn ha rừng tự trồng cho dù có mang ý nghĩa tích cực như

“phủ xanh đất trống đồi trọc” cũng không thể nói có thể làm DLST được. Để
có thể làm được DLST phải là nơi có tài nguyên tự nhiên dồi dào mà cụ thể là
các hệ sinh thái được làm giàu bởi rất nhiều các loài động thực vật khác nhau.
Những yếu tố từ cây cối, nguồn nước, bầu khí quyển, đất đai cũng được tính
đến. Điểm chú ý ở đây là môi trường tự nhiên được đề cập phải là những nơi
còn tương đối nguyên sơ, chưa bị hoặc ít bị can thiệp bởi bàn tay con người.
Những tài nguyên đó được hiện hữu dưới hình thức là các vườn quốc gia, các
khu dự trữ thiên nhiên hay các khu vực văn hóa lịch sử có gắn với không gian
và tài nguyên thiên nhiên phong phú.
Rất nhiều thứ được con người làm ra trong thời đại khoa học - công
nghệ phát triển. Thậm chí con người có thể làm ra những rôbốt có khả năng
như người thật với mục đích phục vụ cho cuộc sống của họ. Nhưng hai chữ
“sinh thái” trong DLST đề ra một nguyên tắc bất dịch: “hãy để thiên nhiên
như nó vốn đã thế”, đó là quyết định thông minh nhất trong thỏa thuận cùng
tồn tại giữa con người và thế giới tự nhiên.
DLST không cho phép con người can thiệp vào các hệ sinh thái tự
nhiên, cho dù đó là những can thiệp mang lại lợi ích kinh tế-xã hội cho con
người và cho dù con người chấp nhận đền bù bằng vật chất cho những thiệt
hại mà họ định gây ra đối với tự nhiên
Như vậy, DLST thường được thực hiện ở các khu bảo tồn tự nhiên, các
vườn quốc gia, ở những nơi có mật độ dân số thấp và tài nguyên thiên nhiên
phong phú, ở những khu vực có giá trị cao về môi trường tự nhiên như: hệ
sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh học cao và cuộc sống hoang
dã phong phú.
Thứ hai, Du lịch sinh thái hỗ trợ tích cực cho công tác bảo tồn các đặc
tính tự nhiên, văn hóa, xã hội tại điểm thăm quan.
Các nhà kinh doanh DLST ngoài việc phải quan tâm nuôi dưỡng, quản
lý chặt chẽ nguồn tài nguyên để nó tồn tại và hấp dẫn du khách, họ phải đóng
góp tài chính cho chính quyền sở tại, những cơ quan quản lý các tài nguyên từ
những khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh du lịch của mình.

Những nguồn tài chính này làm tăng thêm ngân sách cho các khu vực nơi tổ
chức hoạt động DLST để bù đắp cho các khoản chi phí như: quản lý, trồng
thêm cây xanh, tôn tạo, trùng tu… Bên cạnh đó, những tiêu chí và đòi hỏi cao
hơn của DLST đối với công tác bảo vệ môi trường, giữ gìn các hệ sinh thái
khiến các nhà kinh doanh du lịch sinh thái phải chuẩn bị kỹ lưỡng và đưa ra
những yêu cầu cao hơn đối với những hướng dẫn viên và với các khách du
lịch mà mình phục vụ.
Du khách của loại hình DLST thường là những người yêu mến, thân
thiện với thiên nhiên, họ muốn đi du lịch là để được tìm hiểu và nghiên cứu
những nơi họ đến. Họ xác định nhu cầu du lịch của mình là tìm hiểu và
thưởng ngoạn các hệ sinh thái vì thế họ luôn cố gắng hạn chế việc xâm hại và
phá huỷ những tài nguyên quý hiếm cả về mặt hữu hình lẫn vô hình của môi
trường. Ý thức đúng đắn khi đi du lịch giúp du khách cân nhắc và suy nghĩ
trước mỗi hành động có khả năng tác động tới môi trường xung quanh. Do đó
trong và sau mỗi chuyến đi họ thường có những tổng hợp đánh giá của riêng
mình. Những hoạt động nghiên cứu, khám phá, tổng hợp của họ ít nhiều cũng
có những đóng góp và giúp ích cho công tác bảo tồn các đặc tính tự nhiên,
văn hoá, xã hội nơi họ đến thăm quan.
Những du khách, nhất là du khách nước ngoài khi đến thăm quan vườn
quốc gia Cúc Phương họ có thể nghiên cứu về loài bướm, về voọc quần đùi
trắng, về các loại thực vật điển hình của vườn như: chò chỉ. Kim giao… hay
du khách khi đi thăm quan các bản làng dân tộc (như bản Lác, Mai Châu -
Hoà Bình; chợ Tình Sapa…) việc họ đến thăm quan những nơi này thực sự
làm sống lại các làn điệu hát múa dân gian truyền thống của dân tộc Mường,
hay làm sống lại các ngành nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, nấu rượu
cần…bản thân họ cũng tham gia vào việc sưu tầm tư liệu, nghiên cứu thậm
chí xuất bản những cuốn sách có giá trị về các nền văn hoá đặc trưng nơi họ
đến thăm, đưa ra những sáng kiến bảo tồn và phát huy những nền văn hóa đó.
Các tổ chức, cá nhân sau khi tham gia vào các tour DLST họ được tận
mắt chứng kiến cảnh quan môi trường, tài nguyên thiên nhiên nơi họ đến

thăm và đặc biệt được giáo dục, được hiểu biết thêm về môi trường và tầm
quan trọng của hệ sinh thái họ có thể đóng góp các nguồn lực tài chính, hỗ trợ
về mặt kiến thức khoa học, kinh nghiệm quản lý cho các rừng quốc gia, các
khu dự trữ thiên nhiên phục vụ cho du lịch sinh thái.
Cư dân địa phương có thu nhập từ việc tham gia vào hoạt động du lịch
sinh thái từ đó sẽ hạn chế việc khai thác tài nguyên mang tính tiêu cực như:
săn bắn động vật quý hiếm, chặt cây đốn củi, phá rừng làm rẫy… gây ảnh
hưởng xấu tới các loài động, thực vật có giá trị về thẩm mỹ và kinh tế cũng
như môi trường sống xung quanh họ.
Tất cả những điều trên nói lên rằng DLST có khả năng hỗ trợ tích cực
cho công tác bảo tồn các đặc tính tự nhiên, văn hoá, xã hội tại điểm thăm quan.
Thứ ba, Các hoạt động mang tính giáo dục, giảng giải nâng cao nhận thức
về hệ sinh thái và môi trường sống là nội dung quan trọng của Du lịch sinh thái.
DLST là một phương tiện tốt để truyền đạt thông tin vì nó có khả năng
đưa con người tiếp cận trực tiếp và thấy rõ vai trò của thiên nhiên đối với đời
sống con người.
Một trong những đặc điểm nổi trội và khác với các hình thức du lịch
khác là DLST đẩy mạnh các hoạt động mang tính giáo dục về các hệ sinh thái
và môi trường sống. Các hoạt động giáo dục này bao gồm việc giảng giải về
lịch sử, nguồn gốc hình thành, tập quán sinh hoạt, mối quan hệ tương tác qua
lại giữa các loài động thực vật và vai trò của chúng trong thiên nhiên. DLST
hướng dẫn cách thức để những người làm du lịch và khách du lịch tiến hành
hoạt động du lịch đúng cách với thái độ trân trọng, giữ gìn và bảo vệ môi
trường sống. Các hoạt động giáo dục, chỉ dẫn cách thức du lịch đúng đắn mà
DLST thực hiện có thể bằng nhiều cách khác nhau: phương pháp hướng dẫn,
thuyết minh trực tiếp từ hướng dẫn viên tới khách du lịch, các tờ giới thiệu, tờ
bướm thông tin về du lịch, các mô hình, mô phỏng, các phương tiện nghe nhìn.
Thứ tư, Dựa vào việc khai thác tiềm năng tự nhiên và nhân văn du lịch
sinh thái mang lại lợi ích cho cộng đồng dân cư bản địa.
Khi du lịch phát triển và mở rộng, nhiều địa phương đã thoát khỏi cảnh

đói nghèo, người dân được tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, y tế, cơ sở hạ
tầng như: Điện thắp sáng, đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước và
thông tin liên lạc Nhưng những lợi ích được DLST mang lại mà những
người trong cuộc gồm cả cá nhân và tổ chức trước đó hầu như không có được.
Nếu như du lịch đại trà tập trung vào phát triển, mở rộng quy mô kinh
doanh của họ mà không quan tâm đúng mức đến vai trò và sự có mặt của người
dân bản địa trong việc triển khai các dự án và các chương trình du lịch tại
những nơi có tài nguyên thiên nhiên như rừng quốc gia, các khu dự trữ thiên
nhiên thì DLST đã khơi dậy và đánh thức những tiềm năng sẵn có này để mang
lại thu nhập đáng kể cho cư dân địa phương bằng các hoạt động dịch vụ du lịch
như: phục vụ lưu trú, ăn uống bán hàng lưu niệm và các dịch vụ bổ trợ khác.
Khi du lịch đại trà phát triển các khách sạn, nhà nghỉ mọc lên ngày
càng nhiều với mục đích mang về nhiều lợi nhuận, những vật liệu xây dựng
có mục đích chính đảm bảo độ bền vững, kinh tế mà không chú trọng đến
việc thân thiện với môi trường và đảm bảo cho phát triển bền vững thì ngược
lại DLST luôn quan tâm đến việc tôn tạo cảnh quan thiên nhiên và bảo vệ môi
trường sinh thái để phát triển bền vững chính những hoạt động này đảm bảo
cho hệ thống rừng cây, hệ động thực vật được bảo đảm, làm giảm thiểu sự tác
động của thiên nhiên đến đời sống của người dân bản địa như hạn chế được
xói mòn, lũ quét và những thiên tai địch hoạ khác.
Những người làm DLST đã nhận ra vấn đề, thấy được chính những
người dân bản địa, họ sinh ra và tồn tại cùng với các hệ sinh thái và môi
trường thiên nhiên xung quanh từ bao đời lại có được kiến thức truyền thống
văn hoá quý giá của cha ông họ để lại về thiên nhiên và môi trường xung
quanh, họ có văn hóa, phong tục tập quán riêng của dân tộc mình. Nếu chỉ
quan tâm đến thiên nhiên, bảo vệ và tôn tạo các giá trị tài nguyên để phát triển
du lịch mà không quan tâm đến lợi ích của người dân bản địa thì sẽ không có
được nền chính trị ổn định và kinh tế công bằng mà điều này lại chính là
những nhân tố và động lực quan trọng thúc đẩy phát triển DL.
Một biện pháp mà DLST góp phần mang lại các lợi ích kinh tế, phát

huy các giá trị văn hóa và xã hội của những người dân bản địa là: sử dụng
những người dân bản địa làm các dướng dẫn viên du lịch tại những khu
DLST. Khuyến khích người dân gìn giữ và phát triển những nghề truyền
thống của mình như dệt thổ cẩm, thêu ren, làm hàng thủ công mỹ nghệ, trồng
các loại cây đặc sản của địa phương… để khách du lịch được chiêm ngưỡng,
học hỏi và mua sắm các sản phẩm nơi họ đến thăm quan. Các lễ hội, phong
tục tập quán cần được gìn giữ và phát huy vì đó là những nét đặc trưng riêng
của vùng sinh thái du lịch, là điểm nhấn để thu hút khách tham quan. DLST
giúp người dân bản địa chủ động làm kinh tế cùng với việc gìn giữ bản sắc
văn hóa của mình bằng việc cung ứng dịch vụ lưu trú trong hành trình của
khách du lịch. Rất nhiều điểm DLST người ta tổ chức cho khách lưu trú ngay
trong nhà dân, du khách được ăn cùng mâm, ngủ cùng nhà với người dân địa
phương, thậm chí còn tham gia vào một số công đoạn sản xuất hàng hoá
truyền thống của địa phương, được thưởng thức các món ăn, tìm hiểu phong
tục, tập quán lối sống cũng như sinh hoạt của cư dân; tiêu chí của DLST là
khai thác tối đa nguyên liệu sẵn có tại địa phương để tạo ra dịch vụ và hàng
hóa phục vụ khách du lịch chính những nguyên liệu địa phương cùng với các
sản phẩm đặc thù là những nguyên nhân làm hấp dẫn du khách. Theo đó
DLST đã mang lại nhiều lợi ích cho người dân địa phương.
1.1.4. Du lịch sinh thái ở một số quốc gia trên thế giới và một
số loại hình du lịch sinh thái thịnh hành ở Việt Nam
* Du lịch sinh thái ở một số quốc gia trên thế giới:
Tuỳ vào điều kiện môi trường sinh thái của các quốc gia mà người ta
phát triển các loại hình DLST khác nhau, các loại hình du lịch sinh thái rất đa
dạng và phong phú:
- Ở Trung Quốc: Người ta phát triển loại hình DLST cho những người
quan tâm nghiên cứu khoa học, địa chất do các giáo sư môn khoa học địa chất
của các trường đại học hướng dẫn. Ngoài ra ngưòi ta còn tổ chức các hình
thức du lịch như ngồi bè đi dọc sông Trường Giang để khám phá và thưởng
ngoạn phong cảnh hai bên bờ sông.

- Tại Tanzania: Du lịch sinh thái được tổ chức dưới hình thức cho du
khách đi bộ trong 17 ngày, đoạn đường 240 km với sự hướng dẫn của người
dân địa phương dân tộc Massai để thăm quan thung lũng Otwai nổi tiếng với
thảo nguyên mênh mông xem voi, ngựa vằn, hươu, sư tử, hổ…
- Inđônêxia: Là một đất nước có địa hình đa dạng với trên 3.000 hòn
đảo lớn nhỏ. Nền văn hoá phong phú và đầy màu sắc riêng nó làm cho du lịch
đặc biệt là DLST ở quốc gia này rất phát triển. Có rất nhiều loại hình du lịch
sinh thái được áp dụng ở đây nhưng độc đáo hơn cả là loại hình DLST đi tìm
các bộ lạc bị lãng quên trong rừng sâu.
- Ở Mêhicô: là đất nước với nền văn hoá phong phú, đa sắc tộc, địa
hình tự nhiên, môi trường sinh thái đa dạng nhất là môi trường biển bởi thế
hình thức DLST lặn biển để thăm quan hang động rất được quan tâm và phát
triển ở quốc gia này.
- Ở Mông Cổ: Là một đất nước với địa hình sa mạc là chủ yếu, cuộc
sống du mục tạo ra một nền văn hoá riêng có ở Mông Cổ. Rất nhiều du khách
quan tâm đến du lịch ở quốc gia này ở đây người ta đưa ra loại hình DLST
độc đáo là săn bắn chim ưng cùng người du mục địa phương.
- Ở Braxin: nơi có nhiều hang động, và thiên nhiên nguyên sơ, những
vùng núi rừng, nông thôn với nền văn hoá độc đáo, điển hình. DLST rất phát
triển, công ty Aretic Edge Tour chuyên tổ chức các tour du lịch du lịch sinh
thái dựa vào thiên nhiên nhưng tích cực bảo vệ thiên nhiên. Họ đưa ra nguyên
tắc tổ chức: Không được sử dụng động thực vật tại điểm du lịch làm thức ăn;
Thực phẩm đem theo được đóng gói sẵn; Nước bẩn phải đổ ra xa nguồn nước
sạch; Rác đốt tại chỗ hoặc đem đi; Đi hàng một trên đường mòn; Không cắm
trại ở nơi tập trung các đoàn thú hoang; Dọn sạch nơi cắm trại trước khi đi.
* Một số loại hình du lịch sinh thái thịnh hành ở Việt Nam:
+ Tham quan miệt vườn: Mặc dù mới chỉ ở bước ban đầu của hình thức
DLST nhưng loại hình này đã thu hút đựơc nhiều khách du lịch trong và
ngoài nước. Thông thường khách du lịch tới đây được tổ chức thăm quan miệt
vườn với các hình thức như:

- Đi thuyền trên kênh rạch nghe đờn ca tài tử, ngắm các vườn cây,
thưởng thức các món ăn Nam Bộ, thăm chợ trên sông.
- Đi thuyền trên kênh rạch sau đó đổ bộ lên vườn, thăm vườn ngắm
cảnh và ăn quả tuỳ thích (miễn phí). Trong vườn có các nhà nghỉ dạng phỏng
sinh học.
- Nghỉ đêm ở các vườn với thời gian tương đối dài để cùng sống và
sinh hoạt với dân cư miệt vườn.
+ Thăm quan vườn chim: Những vườn chim ở Nam Bộ đã có từ lâu, diện
tích rộng, số lượng đàn chim lớn, thành phần phong phú có những loài quý hiếm
cần được bảo vệ. Nơi đây đã thu hút nhiều nhà khoa học và khách đến thăm quan.
Những vườn chim ở Miền Bắc ít và mới hình thành, thành phần đàn
chim không phung phú nhưng lại có lợi thế ở gần Hà Nội nên thu hút được
nhiều khách du lịch và nhà khoa học đến nghiên cứu.
+ Thăm bản làng dân tộc: Đây là nguồn tài nguyên nhân văn ở các khu
sinh thái tự nhiên. ở các làng bản dân tộc nét độc đáo thu hút khách du lịch trong
và ngoài nước đó là cộng đồng dân cư với vốn văn hoá truyền thống của họ như:
các món ăn đặc sản, kiến trúc nghệ thuật, lối sống, sinh hoạt lễ hội và văn hoá
dân gian…loại hình này rất hấp dẫn du khách nước ngoài; một số địa chỉ mà du
khách đặc biệt chú ý là: Bản của người Thái ở thung lũng Mai Châu - Hoà Bình,
Các bản dân tộc Giao, Thái, Nùng… ở vùng núi Tây Bắc như SaPa - Lao Cai,
Yên Bái, Điện Biên… và các buôn, sóc, ấp ở núi rừng Tây nguyên
+ Du lịch bằng thuyền: Sông nước Việt Nam rất đa dạng và phong phú
do đó việc tổ chức những loại hình du lịch hấp dẫn như là các tuor du lịch trên
sông nước Cửu Long, du ngoạn trên thuyền tại sông Hồng. Loại hình du lịch
này đang phát triển mạnh và thu hút nhiều du khách đặc biệt là du khách nước
ngoài khi đến thăm quan vùng sông nước miền Tây Nam bộ. Ở miền Bắc, các
công ty lữ hành của Hà Nội đã tổ chức tuor du lịch đi thuyền trên sông Hồng
thăm quan phong cảnh hai bên sông, trong chuyến đi du khách được tham gia
vào chương trình đi thăm quan và thưởng thức các điệu dân ca quan họ Bắc
Ninh, thăm làng gốm Bát Tràng, làng Mộc Đồng Kỵ… tour du lịch này hấp

dẫn du khách nhất là du khách nước ngoài khi đến thăm quan Việt Nam nói
chung và Hà Nội nói riêng vì trong cùng một tuor du lịch du khách có thể tham
gia vào nhiều hoạt động, thăm viếng khác nhau thoả mãn nhu cầu đa dạng khác
nhau: Thưởng thức văn hoá dân gian, nghiên cứu các làng cổ Việt Nam, mua
sắm hàng lưu niệm, thưởng thức các món ăn Việt Nam khi đi trên thuyền…
+ Du lịch trong rừng: Là hoạt động du lịch sinh thái được ưa thích ở
nhiều nước trên thế giới. ở nước ta đi bộ trong rừng là hoạt động chủ yếu kết
hợp với các mục đích tham gia nghiên cứu các khu bảo tồn thiên nhiên và
rừng nguyên sinh. Hiện nay loại hình này thường được phát triển cho du
khách đi thăm quan, đi dạo trong các khu rừng thông, trồng mới, và có thể là
các khu rừng Cao su…
+ Tham quan, nghiên cứu rừng nguyên sinh: Đây là loại hình du lịch
sinh thái phổ biến thu hút nhiều nhóm thị trường khách khác nhau. Đặc biệt là
các nhà nghiên cứu, học sinh sinh viên, khách du lịch nước ngoài. Những địa
điểm thu hút nhiều du khách là: Rừng quốc gia Cúc Phương, Cát Bà, Ba Vì ở
Miền Bắc; Cát Tiên ở miền nam; Bạch Mã ở Miền Trung…
+ Du lịch sinh thái biển: ở nước ta thời gian gần đây bắt đầu phát triển
một số loại hình du lịch sinh thái biển như lặn biển tại Nha Trang, đảo Phú
Quốc, thăm quan hang động trên biển ở Hạ Long, leo núi và thăm quan
nghiên cứu các vùng san hô…Đây cũng là loại hình du lịch mới ở nước ta và
thu hút du khách tham gia tương đối nhiều.
Đó chỉ là một số loại hình DLST tiêu biểu hiện có và đang được nhiều
du khách trong và ngoài nước quan tâm. Trên thực tế còn nhiều hình thức
khác đã và dang được các công ty lữ hành và du khách quan tâm và từng bước
đi vào khai thác.
1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
* Nhận thức của xã hội:
Trong lịch sử nhân loại, du lịch được ghi nhận như là một sở thích, một
hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành
một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống, văn hóa, xã hội ở các nước có

nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, để Du lịch nói chung và DLST nói riêng
được quan tâm và phát triển đúng với những những gì mà nó vốn có đưa lại
thì việc nhận thức và quan tâm đúng đắn là một vấn đề hết sức quan trọng.
Về mặt kinh tế, du lịch (trong đó có DLST) đã trở thành một trong
những ngành quan trọng của nhiều nước công nghiệp phát triển. Rất nhiều
quốc gia ngày nay coi phát triển du lịch là một ngành kinh tế quan trọng mang
lại nguồn thu chủ yếu cho ngân sách quốc gia vì thế chính quyền luôn quan
tâm đầu tư có chiến lược phát triển một cách khoa học vì thế nó ngày càng có
vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia.
Phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ
dưỡng, đồng thời nó góp phần nâng cao đời sống dân trí, tạo việc làm và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, cho nên hoạt động của DLST có mối quan
hệ tương tác đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Bản thân du
lịch mang lại rất nhiều lợi ích cho các địa phương đón khách.
Về mặt xã hội, việc phát triển du lịch trong đó có DLST tăng cường
giao lưu, trao đổi giữa các dân tộc, các quốc gia trên thế giới làm tăng cường
sự hiểu biết lẫn nhau.
Như vậy để du lịch thực sự góp phần vào việc bảo vệ thiên nhiên đòi
hỏi phải có sự suy nghĩ và hành động đúng không những của những người
làm du lịch mà còn là toàn xã hội. Nếu nhận thức của xã hội về DLST tốt thấy
rõ được tác dụng của nó thì mọi người sẽ đồng tâm thúc đẩy nó phát triển,
ngược lại nếu chưa nhìn nhận được hết giá trị của nó thì người ta sẽ không
ủng hộ thậm chí có thể gây khó khăn trong quá trình phát triển DLST.
Người dân, chính quyền địa phương và du khách cần phải nhìn thấy
những lợi ích của DLST có thể mang lại thông qua những hoạt động và những
cơ hội mà loại hình du lịch này tạo nên mà mục tiêu cơ bản của DLST là phát
triển bền vững. Nghĩa là: "Đảm bảo đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không
làm cản trở đến việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai" [26].
Để tạo điều kiện và kích thích loại hình du lịch này phát huy tác dụng
của nó. Ngoài những vấn đề lớn không thể không làm như quy hoạch, quản lý

sự phát triển DLST ở mức độ thích hợp, thì vấn đề giáo dục cộng đồng đóng
vai trò không kém phần quan trọng, góp phần hỗ trợ các mối quan hệ tích cực
hai chiều của DLST và bảo tồn tự nhiên cũng như DLST và cộng đồng địa
phương. Cần phải làm cho tất cả các thành phần trong xã hội nhất là cư dân địa
phương hiểu được những tác động tích cực của DLST đến địa phương đó là:
- Góp phần làm thay đổi chất lượng cuộc sống cộng đồng nhất là
những ai tham gia trực tiếp vào ngành này, trong đó bao gồm cả sự cải thiện
những dịch vụ xã hội như: y tế, nhà cửa, hệ thống giao thông, cấp - thoát
nước, điện năng,…
- Giúp cho việc bảo vệ và tôn tạo các di sản văn hóa lịch sử, làm tăng
niềm tự hào của địa phương vào ý thức cộng đồng.
- Góp phần làm tăng danh tiếng địa phương, giúp cho du khách khám
phá những ý tưởng mới, giá trị mới và cách sống mới.
- Tạo điều kiện giao lưu, hiểu biết lẫn nhau giữa các cộng đồng, các
quốc gia, phá vỡ ngăn cách về văn hóa và dân tộc thông qua quan hệ này.
- Du lịch sinh thái còn có tiềm năng mang lại lợi ích kinh tế cho nhân
dân địa phương.
Sẽ rất có tác dụng nếu như các đối tượng sau đây được tuyên truyền
hiểu biết và nhận thức sâu sắc về DLST: Những nhà lập kế hoạch và đầu tư;
Những các tổ chức quản lý ở các khu bảo tồn, khu dự trữ sinh quyển…; Các
cán bộ điều hành của các công ty du lịch; Các hướng dẫn viên du lịch, nhân
viên khách sạn, nhà hàng; Cư dân địa phương; Khách du lịch.
* Tài nguyên:
Du lịch là một ngành kinh tế có định hướng tài nguyên rõ rệt, DLST còn
có mối liên hệ mật thiết hơn bởi khi muốn thiết lập một chuyến đi điều quan
tâm đầu tiên của du khách đối với địa điểm mà họ có ý định tới thăm quan là
cảnh quan quan thiên nhiên tươi đẹp, môi trường trong lành, sự đa dạng, đặc
sắc của văn hoá truyền thống bản địa, nghành nghề truyền thống đó là những
điều kiện hết sức quan trọng để tạo nên sự hấp dẫn của một điểm DLST.
Tài nguyên của DLST gồm: tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn

hai yếu tố này gắn kết với nhau tạo nên sự hấp dẫn của DLST, cụ thể tài
nguyên của DLST bao gồm:
Cảnh quan thiên nhiên, vùng núi có phong cảnh đẹp, các hang động, di
tích lịch sử, di tích văn hoá, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của
con người, các di tích tự nhiên, các vùng khí hậu đặc biệt các điểm nước
khoáng, suối nước nóng, hệ sinh vật, các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên, các hệ sinh thái độc đáo, môi trường văn hóa bản địa… đó là các yếu tố
tạo ra sự hấp dẫn và hình thành các điểm du lịch, khu DLST. Môi trường, tài
nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn càng phong phú càng hấp dẫn càng
thu hút khách tham quan nhiều hơn.
Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức hoạt động, lãnh thổ
cũng như cơ cấu và chuyên môn của khu, điểm du lịch sinh thái. Với mỗi loại
tài nguyên có thể tổ chức loại hình du lịch với những đặc trưng riêng, loại
hình riêng để phục vụ các nhu cầu và mục đích khác nhau của du khách.
Quy mô hoạt động du lịch của một điểm, một khu, một vùng, một quốc
gia du lịch được xác định trên cơ sở khối lượng, chất lượng nguồn tài nguyên
du lịch. Tài nguyên là yếu tố cơ bản tạo ra sản phẩm của DLST và nó cũng
tham gia vào việc tạo ra tính mùa vụ trong hoạt động du lịch, quyết định tính
nhịp điệu của dòng khách, thị trường khách du lịch.
Tài nguyên du lịch được xem là tiền đề để phát triển du lịch sinh thái.
Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu
thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu. DLST, loại
hình du lịch gắn liền với thiên nhiên và môi trường nên nguồn tài nguyên lại
càng quan trọng hơn và cũng có nguy cơ thường xuyên bị đe doạ xâm hại và
tàn phá. Muốn phát triển DLST một cách bền vững thì một hoạt động mang
tính nguyên tắc là việc khai thác phải đi đôi với việc bảo vệ và nuôi dưỡng tài
nguyên, đảm bảo nguyên tắc sức chứa.
Một quốc gia, một khu vực được du khách quan tâm chỉ khi ở đó có
nguồn tài nguyên về du lịch phong phú, hệ động, thực vật đa dạng được bảo
tồn và phát triển, môi trường thiên nhiên trong lành, môi trường văn hóa xã

hội độc đáo. Vì vậy việc bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cho DLST có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì chính tài nguyên là cơ sở quan trọng để
phát triển các loại hình và là một bộ phận cấu thành quan trọng của các tổ
chức lãnh thổ du lịch.
* Dân cư và lao động trong lĩnh vực du lịch sinh thái:
Trong DLST, số lượng dân cư và chất lượng lao động ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động kinh doanh và quan trọng hơn là ảnh hưởng tới môi trường
sinh thái, hệ động thực vật. Hệ sinh thái, môi trường tự nhiên sẽ rất dễ bị phá
vỡ nếu mật độ dân cư quá đông, trình độ dân trí thấp.
Với DLST, sự tham gia của cư dân địa phương đóng một vai trò quan
trọng. Trong khi các đơn vị điều hành du lịch, các khách sạn và chính quyền
địa phương cố gắng tiếp thị sản phẩm du lịch của mình, trong đó có những nội
dung, hoạt động không phù hợp với nguyên tắc của DLST, người ta phớt lờ đi
khả năng quản lý tài nguyên thiên nhiên cũng như sự đóng góp của cư dân
bản địa đến hoạt động DLST. Hậu quả của cách làm này sẽ trở nên đáng lo
ngại. Các hình thức kinh doanh như vậy không chóng thì chày sẽ đi đến giai
đoạn thoái trào do không bảo vệ được cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh
thái. Trên thực tế mối quan hệ giữa người dân bản địa và các nguồn tài
nguyên thiên nhiên là một quan hệ gắn bó được thiết lập lâu đời. Ở nhiều nơi
người dân địa phương sử dụng tài nguyên thiên nhiên như phương tiện sống
hay một kế sinh nhai của mình và họ biết cách để bảo vệ, kiểm soát việc sử
dụng tài nguyên thiên nhiên để tránh đi tình trạng tàn phá tài nguyên.
Yếu tố quan trọng đối với một điểm DLST thành công hay không đó là
lao động làm việc trong các đơn vị này ngoài những kiến thức về chuyên môn
nghiệp vụ về du lịch đơn thuần, họ còn phải là các chuyên gia về môi trường,
sự hiểu biết sâu rộng về hệ động thực vật tại khu vực mà họ làm việc, giảng
giải thuyết minh cho khách tham quan.
Rõ ràng vai trò của dân cư và ngồn nhân lực là rất quan trọng, phải có
những chiến lược để quy hoạch dân cư và phát triển nguồn nhân lực một cách
khoa học có như vậy mới đảm bảo cho hoạt động DLST đi đúng hướng của nó.

* Môi trường luật pháp và cơ chế chính sách:
Xây dựng cơ chế, chính sách về quản lý một cách đồng bộ, khuyến
khích việc khai thác các tiềm năng DLST đặc biệt là ở các vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên thiên…phải được cụ thể hóa bằng các văn bản pháp lý, từ các cơ
quan quản lý nhà nước như: Bộ Nông nghiệp và phát triển tài nguyên, Bộ Tài
chính, Tổng cục Du lịch…Thực tế, mặc dù nhiều nước, nhiều quốc gia vùng
lãnh thổ có tiềm năng rất lớn về DLST nhưng sự nhìn nhận của các cấp lãnh
đạo, những nhà hoạch định chính sách và đầu tư chưa thật sự sâu sắc do đó
không có cơ chế, chính sách thích hợp để quy hoạch, tập trung đầu tư để phát
triển du lịch do đó đã làm lãng phí nguồn tài nguyên thậm chí có thể bị lãng
quên hoặc bị tàn phá do không có cơ quan đơn vị hay người quản lý các
nguồn tài nguyên đó.
Để DLST phát triển thì việc nhận ra thế mạnh và phát huy nó là một vấn
đề cần được quan tâm. Vấn đề này chỉ được giải quyết khi các nhà hoạch định
chính sách, các cấp quản lý nhận thức rõ và đưa ra cơ chế, chính sách hợp lý để
phát triển. DLST chỉ phát triển khi nó có được một cơ chế chính sách hợp lý và
pháp luật đồng bộ. Đó là nghiên cứu quy hoạch, đầu tư và khuyến khích đầu tư,
cơ chế xúc tiến quảng bá, cơ chế phối hợp và phân chia một cách hài hòa lợi
ích giữa người dân địa phương với các cơ quan quản lý, các công ty lữ hành.
Cơ chế mà qua đó hoạt động DLST tạo điều kiện cho người dân địa phương
bảo vệ môi trường, gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Cơ chế thuận lợi làm cho DLST phát triển tạo ra công ăn việc làm cho
cư dân địa phương và nâng cao đời sống của họ, có như vậy mới ngăn chặn
được tận gốc nạn chặt phá rừng và săn bắn của cư dân địa phương. Một cơ
chế, chính sách đúng sẽ vừa khuyến khích bảo tồn phát triển tài nguyên môi
trường vừa phát triển DLST một cách bền vững đảm bảo đời sống của cư dân
địa phương.
Để đạt được các mục tiêu phát triển, các cơ chế chính sách và luật pháp
cần được hướng tới là:
- Khuyến khích phát triển các nguồn lực du lịch về phương diện sức

hấp dẫn thiên nhiên cũng như các điểm lịch sử, khảo cổ và văn hóa, chú trọng
đến chất lượng cùng với hệ thống thông tin có hiệu quả và có nhận thức về
khả năng thu xếp nơi nghỉ cho du khách.
- Có sự điều phối để tạo ra sự hợp tác giữa tất cả các bên liên quan,
nhấn mạnh đến việc thúc đẩy tinh thần trách nhiệm đối với hệ sinh thái và
việc tổ chức các tour sẽ không gây thiệt hại hay huỷ hoại môi trường.
- Xây dựng nhận thức về loại hình du lịch mà có góp phần vào sự
nghiệp bảo tồn và có sự hoàn trả thích hợp cho hệ sinh thái.
- Triển khai lập kế hoạch, cải tiến và xây dựng nguyên tắc và quy định,
tổ chức, quản lý hiệu quả du lịch sinh thái, từ đó coá thể tạo nên sự hợp tác và
giúp đỡ lẫn nhau giữa Chính phủ, khối tư nhân và người dân địa phương.

×