Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền được sống, quyền được sung sướng và quyền tự do”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.43 KB, 9 trang )

Đề tài: Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền được sống, quyền được sung
sướng và quyền tự do”. Liên hệ thực tiễn tình hình Việt Nam hiện nay.
* * *
Bài Làm.
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII( tháng 6-1991) đã đánh dấu một
cột mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng
đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam từ việc vận dụng kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống cũng như
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cụ thể: “Những tư tưởng quan điểm về sức
mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về quốc phòng toàn dân,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển kinh tế và văn hóa xã hội,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, về đạo đức
cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư…”
1
. Nhưng quan điểm tư
tưởng được coi là cốt lõi của vấn đề giải phóng cách mạng dân tộc được Bác chỉ
ra đó là tư tưởng về vấn đề dân tộc thông qua luận điểm: “Tất cả các dân tộc
sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền được sống, quyền được sung
sướng và quyền được tự do.”
Dân tộc là vấn đề rộng lớn. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài
lịch sử. Từ những hình thức cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình
thành nên các cộng đồng dân tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản
chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các
nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, vấn đề dân tộc
trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa, độc lập, tự do của các
dân tộc trở thành vấn đề thời đại. Mác-Ănghen không đi sâu giải quyết vấn đề
dân tộc vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng
tư sản. Trong giai đoạn quốc tế chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở


thành một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới. Mác - Ănghen và Lênin
đã nêu những quan điểm biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo
cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của
các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nhưng trong điều kiện từ
đầu thế kỷ XX trở đi, cần vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin
1
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
1
cho phù hợp với thực tiễn, chính Hồ Chí Minh là người đáp ứng yêu cầu đó.
Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến trong tư tưởng của mình được thể
hiện tập trung chủ yếu ở các nội dung về quyền dân tộc, quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp, và quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Về quyền dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều
bình đẳng, tức độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp
của giặc ngoại xâm lên sự tự do độc lập, được kết tinh, hun đúc từ tinh thần
nồng nàn yêu nước của người dân nước Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với
một người dân mất nước, cái quí nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của
nhân dân. Quan điểm tất cả dân tộc trên thế giới đều bình đẳng của Hồ Chí
Minh được thể hiện rõ trong hành động và trong rất nhiều bài nói, bài viết của
mình, song rõ nhất và tập trung nhất là ở “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1945. Mở đầu bản Tuyên ngôn, Hồ
Chí Minh đã trích 1 đoạn của bản Tuyên ngôn năm 1776 của Mỹ nói về quyền
bình đẳng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người nhận định đây là
lời bất hủ, suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.”
Đồng thời Bác còn trích dẫn Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
Cách mạng tư sản Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra có quyền tự do và bình

đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng”. Người khẳng
định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Từ những tinh hoa của dân
tộc và thế giới, từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao
thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng xó quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Hồ Chí Minh
là người đã sử dụng Tuyên ngôn tư sản để đấu tranh cho lợi ích của dân tộc
mình, biến quyền tự do, bình đẳng, hạnh phúc cá nhân theo kiểu tư sản thành
quyền bình đẳng của cả dân tộc Việt Nam, của các dân tộc trên thế giới, không
phân biệt màu da, chủng tộc. Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang
tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính nhân văn sâu sắc. Độc lập
dân tộc phải là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn. Một dân tộc không những có
quyền bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới mà còn phải được hưởng nền
độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn. Chỉ khi nào được hưởng độc lập thật sự thì
dân tộc đó mới thật sự bình đẳng. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn theo Hồ
Chí Minh có nghĩa là dân tộc đó có đầy đủ chủ quyền quốc gia về chính trị, kinh
2
tế, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia Việt Nam phải
do người Việt Nam giải quyết. Mọi sự ủng hộ giúp đỡ Việt Nam đấu tranh
giành độc lập tự do đều được nhân dân Việt Nam hoan nghênh ghi nhớ song
nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệt thô bạo nào. Và giá trị
đích thực của độc lập dân tộc phải được thể hiện bằng quyền tự do hạnh phúc
của nhân dân, mà theo Người, độc lập dân tộc là đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng độc lập dân tộc, khát vọng độc lập dân
tộc của Người được thể hiện ở tinh thần “thà hy sinh tất cả”, “dù phải đốt cháy
cả dãy Trường Sơn” và vượt lên tất cả là tinh thần “không có gì quí hơn độc lập
tự do.” Dù có phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho được độc lập.
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song
người cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc
trong hoà bình chân chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã
dẫn dắt nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại

bang.Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ
sống của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ
của dân tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó,
Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam
mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc
địa trong thế kỷ XX”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và
giải phóng dân tộc cần được tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một
vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng
vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo Người, chỉ đứng trên lập trường của
giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân
tộc. Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh
tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường của cách mạng
vô sản. Người viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự
nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít
thắng lợi trong một nước nào đó…”
1
Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan
điểm sai trái của một số đảng cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá
về vai trò, vị trí cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa. Người đưa ra dư
luận điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời
1
Sđd, t.1, tr.469.
3
biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế
giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi
của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và

đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới. Trên cơ sở những
quan điểm cơ bản của Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc với
giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm mới và sáng tạo, góp phần bổ
sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin. Theo Người, ở các nước
thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Người phân
tích, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hoá giai cấp ở nước ta
và nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn chưa đến mức đối kháng
quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ
nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ, giữa
công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này không thể giải quyết vấn đề
giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phương Tây
được, mà chỉ có thể giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền lợi
dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Năm 1924, từ sự phân tích
đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đông, Hồ Chí Minh khẳng định:
Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực
lớn của đất nước”
1
. Hồ Chí Minh kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc
tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng
sản Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy
sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”
2
. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh
của chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính,
coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy,
không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân
tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa,

ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã hình thành đường
lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, gắn bó
thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Trong bài “Cuộc kháng chiến” viết đầu những năm 20 của thế kỷ
1
Sđd, t.1, tr.466,467.
2
Sđd, t.10, tr.128.
4
XX, nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới”
1
. Tiếp đó, ngay trong Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam
tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai
đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng
dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản (tức là cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “ chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”
2
.Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó
thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phản ánh quy luật
khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản,
vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục
tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà
không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn
chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh

phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập
rồi, thì phải tiến lên Chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội là dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước
hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc mình
đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự
do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Là một chiến sỹ quốc tế chân
chính, xuất phát từ quan điểm trên, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân
tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do
độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy. Bác ủng hộ
nhiệt tình cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia. Chủ trương “ giúp bạn là tự
giúp mình”, phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào
thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần
dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Giành độc
1
Sđd, t.4, tr.4, 480.
2
Sđd, t.1, tr.469.
5
lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con người. Xuất phát
từ chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nòi, Hồ Chí Minh luôn luôn gắn
liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản chính vì
cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân mà còn giải phóng
mọi giai cấp và tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp. Bác đã nói
rằng: “Giành độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội,

làm cho dân giàu, nước mạnh làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung
sướng, tự do”. Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng
lên, trở thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Khi chưa giành
được độc lập, Người thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói “dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”. Nhưng sau đó
Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”
1
. Do đó, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải
phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Hồ
Chí minh viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “Căn cứ trên quyền lợi chung,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với
chính phủ nước nào trong quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền
quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ
thế giới.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học
đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể
hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho
tất cả các dân tộc, tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người luôn luôn gắn chặt, hòa quyện với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng này không chỉ có giá trị trong lịch sử Cách mạng Việt Nam mà còn có
ý nghĩa to lớn đối với Cách mạng thế giới trong thời đại ngày nay.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có
1

Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Nà Nội, 1986, tr.31.
6
thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm
sai lầm nóng vội, chủ quan, nhất quán, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã
xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ
và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong
những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc
phục có hiệu quả cả về phương diện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động
thực tiễn về vấn đề này. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường
lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc
với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta. Văn kiện của
Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các giai cấp,
các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn
kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh
đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Thực tiễn hiện nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và
thách thức to lớn đòi hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua.
Để làm được điều đó chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về
mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới
vững bước tiến lên, giành những thắng lợi mới. Trước hết, trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng và giữ vững độc lập dân tộc. Lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữa nước của ông cha ta từ ngàn xưa cũng như sự
nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng sảnViệt Nam đứng đầu là Hồ Chí
Minh khởi xướng từ 1930 đến nay được ghi lại bằng máu và nước mắt. Thế mới

thấy được ý nghĩa của độc lập dân tộc, mới thấu hiểu được tư tưởng bất hủ
“Không có gì quí hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh. Trong xu thế toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát
triển mà không gắn với những mối quan hệ đa dạng và đa phương với các quốc
gia khác trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng nằm trong xu thế ấy. Ngoài
những lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết, nước ta đang đứng trước rất nhiều
nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. Đó là những nguy cơ lệ
thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính trị, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá
dân tộc, tiếp thu một nền văn hoá lai bản sắc. Bên cạnh những nguy cơ mang
7
tính hệ quả của toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn
phải đối mặt với âm mưu diễn biến hoà bình. Các thế lực thù địch trong và
ngoài nước đang núp dưới những chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc
tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta ( Sự biến động Tây Nguyên
2/2001 và 4/2004, gần đây là cuộc biểu tình ở Tây Bắc Bộ). Trước những nguy
cơ ấy, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ
đất nước. Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền
thống, đất đai, tài nguyên… để xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất nước
từng bước bắt kịp các nước phát triển. Đất nước phát triển, nền kinh tế hùng
mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân
tộc, làm dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Độc lập dân tộc phải được
xem là cái bất biến trong sự thiên biến vạn hoá của nền kinh tế thế giới đang
phát triển với xu thế toàn cầu hoá; bản sắc văn hoá Việt Nam cũng phải được
xem là cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá thế giới, tiếp thu những cái
hay, cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không mất đi cái gốc, cái chất Việt Nam trong
mỗi con người. Đó cũng là cách để giữ vững độc lập dân tộc theo đúng nghĩa
của nó.
Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù
mất tất cả, “hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí

Minh, ngày nay đường lối của Đảng và Nhà nước ta thể hiện rõ sự quan tâm,
không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và
phát huy tinh hoa của dân tộc với truyền thống “lấy dân làm gốc” (Dân vi bản
quốc gia trường thọ), ngày nay, đảng và nhà nước đã xác định rõ phát triển kinh
tế phải toàn diện theo chủ trương “Phát triển kinh tế theo hướng vĩ mô đồng thời
phải bảo đảm an sinh xã hội”, dân giàu thì nước mới mạnh. Ngày trước Hồ Chí
Minh đã không ngừng giáo dục cán bộ, đảng viên phải luôn luôn có tinh thần
“vì dân phục vụ”. Người nói: “ Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên
nền nhân dân” Chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là
cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc, vì theo Người, dân như nước,
chở thuyền cũng là nước mà lật thuyền cũng là nước. Dân giàu thì nước mạnh,
mà nước mạnh thì độc lập dân tộc còn. Chủ trương diệt giặc đói và giặc dốt của
Người năm 1945 về cơ bản chính là nền tảng của việc chăm lo và nâng cao đời
sống cho người dân về vật chất cũng như tinh thần. Đảng và nhà nước đã thực
hiện rất tốt mục tiêu giảm hộ nghèo và xóa mù chữ, tỉ lệ biết chữ của cả nước là
90-95% nếu so với những năm 60, 70 của thế kỉ trước là 30-35% thì nó đã nói
lên sự tiến bộ rõ rệt về nhận thức mọi người. Đặc biệt tỉ lệ hộ nghèo đã giảm
8
một cách mạnh mẽ chỉ còn 7-10% hoàn thành sớm nhiệm vụ xóa đói giảm
nghèo mà chính phủ đã ban hành, được tổ chức liên hợp quốc đánh giá cao là
một trong hai nước hoàn thành sớm mục tiêu thiên niên kỉ. Và suy cho cùng,
mục tiêu của độc lập dân tộc, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là tự do, ấm no,
hạnh phúc của nhân dân; và dĩ nhiên là dân được ấm no tự do hạnh phúc sẽ ra
sức bảo vệ nền độc lập vốn mang lại những điều tốt đẹp đó. Như vậy, chăm lo,
không ngững nâng cao đời sống nhân dân vừa là mục tiêu vừa là cách thiết thực
nhất để bảo vệ độc lập dân tộc theo đúng tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ.
Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, chúng ta càng phải phát
huy chủ nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự
lực tự cường của mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu

nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất
khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn. Những phẩm chất tốt
đẹp ấy đã được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng
Miền nam thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Ngày nay,
truyền thống quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục khơi
dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó
khăn thách thức, vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.

9

×