Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Tìm hiểu khả năng thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.96 KB, 45 trang )

Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Đây là lần đầu tiên em làm quen và thực hiện một đề tài nghiên cứu
khoa học nên còn rất nhiều bỡ ngỡ, nhưng em đã hoàn thành tốt nhiệm vụ
nghiên cứu của mình. Đấy là nhờ sự giúp đỡ của Ban giám hiệu, các thầy cô
giáo trong trường Cao đẳng sư phạm TW nói chung và các thầy cô giáo
trong tổ bộ môn nói riêng, cùng Ban giám hiệu, giáo viên và học sinh của
hai trường THCS Quang Trung - Thạch Hạ - TP Hà Tĩnh và trường THCS
Nguyễn Du - Nguyễn Du – TP Hà Tĩnh. Đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ,
hướng dẫn tận tình chu đáo của thầy giáo Vũ Dương Công - trưởng khoa Mỹ
thuật truờng Cao đẳng sư phạm TW đã giúp đỡ em hoàn thành bài tập tốt
nghiệp với đề tài: “Tìm hiểu khả năng thể hiện đường nét, hình mảng
trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9”.
Em hi vọng đây sẽ là những kinh nghiệm thực tế, những đóng góp
nhỏ của bản thân giúp cho việc phát triển khả năng thể hiện đường nét, hình
mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9, trong quá trình dạy - học
của giáo viên và học sinh ở các trường THCS hiện nay.
Đây là lần đầu tiên em làm quen và mạnh dạn nghiên cứu một đề tài
khoa học, mặt khác do kinh nghiệm và khả năng tìm hiểu thực tế còn nhiều
hạn chế và do thời gian còn hạn hẹp nên đề tài khó có thể tránh khỏi những
thiếu sót ngoài sự mong đợi. Do đó, để đề tài được hoàn thiện hơn em kính
mong nhận được sự bổ sung và ý kiến đóng góp chân thành, quý báu từ phía
các thầy cô và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Tĩnh, ngày 30 tháng 01 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Thị Nhung (16/08/1990)
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
1
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG


1. Lý do chọn đề tài:
Mỹ thuật hiểu nôm na là "nghệ thuật của cái đẹp" ("mỹ", theo tiếng
Hán-Việt, nghĩa là "đẹp"). Đây là từ dùng để chỉ các loại nghệ thuật tạo hình
chủ yếu. Theo cách nhìn khác, từ "mỹ thuật" (đẹp + nghệ thuật) chỉ cái đẹp
do con người hoặc thiên nhiên tạo ra mà mắt người nhìn thấy được. Vì lý do
này người ta còn dùng từ "nghệ thuật thị giác" để nói về mỹ thuật. Ví dụ: vẻ
đẹp của một bức tranh, giá trị mỹ thuật của một công trình kiến trúc. Có
nhiều cấp độ thưởng thức cái đẹp, phụ thuộc vào sự hiểu biết, khiếu thẩm
mỹ và ý thích của riêng từng người. Do đó, quan niệm về mỹ thuật cũng
chưa nhất quán theo một chuẩn mực nào. Đôi khi ta còn gặp thuật ngữ "mỹ
thuật" trên sân khấu và trong cuộc sống hằng ngày. Từ "mỹ thuật" còn được
dùng khi phân biệt những ngành lớn của hội hoạ: mỹ thuật ứng dụng, mỹ
thuật công nghiệp, mỹ thuật trang trí ; mỗi ngành có một đặc thù riêng về
kỹ thuật thể hiện và giá trị sử dụng. Trên thế giới, và ở cả Việt Nam, những
người hoạt động trong ngành thường chỉ thừa nhận khái niệm mỹ thuật theo
nghĩa hàn lâm và có sự phân biệt rõ rệt giữa mỹ thuật với thủ công mỹ nghệ
và mỹ thuật ứng dụng, và dơn giản hơn:mỹ thuật là những đường nét được
con người tự quy ước với nhau theo cảm nhận được sử dụng để biểu lộ thế
giới thực tại gián tiếp qua một chất liệu nào đó theo một cách riêng của mỗi
người cho là đẹp.
Bộ môn Mỹ thuật ở bậc THCS cũng vậy, là một bộ môn không thể
thiếu được trong phân phối chương trình phổ cập giáo dục cho học sinh.
Trong thực tiễn hiện nay, việc dạy và học môn Mỹ thuật ở một số trường
vẫn còn bị coi nhẹ, giáo viên nhận thức chưa sâu về môn học, còn cho rằng
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
2
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
đây là môn học phụ không phải là môn thi vì vậy từ chỉ đạo đến đầu tư cho
môn học còn chưa nhiều, còn nhiều trường chưa có giáo viên chuyên trách,
giáo viên văn hoá phải dạy kiêm nhiệm. Mục đích giáo dục của môn Mỹ

thuật ở trường THCS là giúp học sinh phát triển toàn diện về trí tuệ, thể chất,
cảm xúc, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con
người trong xã hội hiện nay và việc nghiên cứu thực trạng này đã đem lại
hiệu quả cho môn Mỹ thuật ở trường THCS. Nếu trong quá trình giáo dục ở
các trường phổ thông không có bộ môn Mỹ thuật thì học sinh sẽ không được
phát triển một cách toàn diện. Vì việc dạy và học môn Mỹ thuật không phải
là đào tạo cho các em học sinh trở thành những hoạ sĩ chuyên nghiệp mà
mục đích của dạy học Mỹ thuật là tạo điều kiện cho các em được tiếp xúc,
làm quen, thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên và cảm nhận được vẻ đẹp của
các tác phẩm nghệ thuật. Qua đó các em biết vận dụng vào thực tiễn cuộc
sống hằng ngày. Chính vì vậy việc dạy học Mỹ thuật ở các trường THCS là
rất cần thiết, góp phần vào hình thành phẩm chất tốt đẹp của người lao động
trong thời kỳ mới. Người lao động có tri thức, dám nghĩ dám làm thì lao
động mới đạt năng suất, hiệu quả cao, đặc biệt là nghệ thuật.
Môn học Mỹ thuật ở trường THCS được dạy và học thông qua các
phân môn khác nhau như: vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh và thường thức
mỹ thuật. Trong mỗi một phân môn lại có vai trò và ý nghĩa khác nhau để
cung cấp kiến thức cho học sinh. Riêng hoạt động tạo hình là hoạt động
quan trọng trong các hoạt động giáo dục, bởi môn học Mỹ thuật nhằm cung
cấp cho học sinh kiến thức về thẩm mỹ góp phần phát triển năng khiếu về
mỹ thuật. Vì vậy, phân môn Vẽ theo mẫu góp phần rèn luyện tư duy hình
tượng, từ óc quan sát tới khả năng nhận biết những cái đẹp, hoàn mỹ của
cuộc sống. Từ đó biết trân trọng những di sản văn hoá của dân tộc mình.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
3
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
Phân môn Vẽ theo mẫu là một phân môn khó học và nó mang tính
chất chắt lọc về hình vẽ rất nhiều, bản thân của môn học mang tính khô khan
nên nhiều học sinh chán nản khi học. Vẽ theo mẫu còn được gọi là vẽ tả
thực, ở các trường đào tạo chuyên nghiệp vẽ theo mẫu được gọi là hình hoạ.

Hình hoạ là môn học nghiên cứu sâu về cấu trúc, tỉ lệ hình dáng người, đồ
vật một cách cơ bản giúp cho người học có cơ sở để vận dụng trong sáng tác
tranh, tượng. ở trường phổ thông nói chung, tiểu học nói riêng vẽ theo mẫu
là một phân môn trong môn Mĩ thuật. Tên gọi vẽ theo mẫu biểu hiện mức độ
của nội dung nhằm cung cấp cho học sinh một số hiểu biết về Mĩ thuật, góp
phần hình thành thị hiếu thẩm mĩ, giúp các em có thể vận dụng vào đời sống
hàng ngày. Vẽ theo mẫu là mô tả những đặc điểm về hình dáng, cấu trúc của
đồ vật, con người bằng đường nét, hình khối,đậm nhạt, màu sắc trên mặt
phẳng của giấy vẽ.
Với học sinh THCS thì các em đã được làm quen với những bài vẽ
theo mẫu ngay ở bậc tiểu học, nhưng yêu cầu của bài Vẽ theo mẫu ở cấp
THCS đòi hỏi cao hơn về kiến thức và kĩ năng thể hiện. Đặc biệt là phân
môn Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9. Trong trường hợp này đòi hỏi ở người
giáo viên phải biết cách vận dụng và kết hợp các phương pháp dạy học,
truyền đạt kiến thức của mình cho học sinh giúp các em nắm bắt vững kiến
thức. Phân môn Vẽ theo mẫu hình thành ở người học kĩ năng: Quan sát: hiểu
được vẻ đẹp của đồ vật, con người qua đặc điểm hình dáng, ước lượng tỉ lệ;
Sắp xếp bố cục hình vẽ trên giấy; Vẽ hình; Vẽ đậm nhạt , vẽ màu. Bài vẽ
theo mẫu được đánh giá là đẹp không phải là sự sao chép thật giống mẫu
như ảnh chụp mà nó thể hiện được cảm xúc của người vẽ qua bút pháp diễn
tả. Trong đấy đường nét và hình mảng là hai ngôn ngữ chính. Thể hiện được
đường nét, hình mảng đẹp thì bài vẽ theo mẫu mới đẹp.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
4
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
Để cho học sinh hiểu được vấn đề này và hứng thú học bộ môn Mỹ
thuật nói chung và phân môn Vẽ theo mẫu nói riêng đòi hỏi người giáo viên
phải chuẩn bị kiến thức chuyên môn của mình thật tốt, tìm tòi, kết hợp các
thủ pháp gây hứng thú, lôi cuốn cho học sinh trong tiết học như: có thể cho
học sinh chơi một số trò chơi để các em có thể nhận dạng được vật mẫu và

nắm bắt rõ được đặc điểm riêng biệt của từng vật mẫu. Trong tình hình hiện
nay nhiều giáo viên đã nắm bắt được vai trò quan trọng của mình, họ đã thay
đổi các phương pháp dạy học để truyền đạt kiến thức cho học sinh ngày càng
hoàn thiện hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn tồn tại những nhược điểm từ
phía giáo viên và học sinh như học sinh chưa tích cực tự giác trong học tập,
chưa phát huy được khả năng sáng tạo của mình. Một số giáo viên vẫn chưa
nhận thức đúng đắn về phương pháp đổi mới dạy học, chưa biết cách tạo
hứng thú cho họ sinh và kiến thức chuyên môn chưa đạt yêu cầu vì vậy ảnh
hưởng rất lớn đến bài vẽ của học sinh.
Là sinh viên học chuyên ngành Mỹ thuật chuẩn bị ra trường làm một
giáo viên giảng dạy môn mỹ thuật ở trường THCS, và đã từng được đi thực
tập. Thông qua các tiết thực giảng và dự giờ, em rất muốn học sinh nắm
vững kiến thức và có đam mê với môn học. Được nhận những ý kiến đóng
góp từ phía các thầy cô và các bạn sinh viên nên em đã hiểu được tầm quan
trọng của bộ môn Mỹ thuật và phân môn Vẽ theo mẫu, đặc biệt là khả năng
tìm hiểu và đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao việc thể hiện đường
nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9 được tốt hơn.
Xuất phát từ thực tiễn đấy, em đã chọn đề tài : “Tìm hiểu khả năng
thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9” để
làm bài tập tôt nghiệp. Từ đấy nâng cao nghiệp vụ cho bản thân và các giáo
viên khác, giúp cho học sinh THCS học môn Mỹ thuật nói chung và phân
môn Vẽ theo mẫu nói riêng đạt kết quả cao.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
5
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
- Tiến hành tìm hiểu đánh giá khả năng thể hiện đường nét, hình mảng
trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9.
- Cung cấp cho học sinh một lượng kiến thức cơ bản nhất định, giúp các

em hiểu được cái đẹp của đường nét, hình mảng, đậm nhạt, ánh sáng, màu
sắc, bố cục trong bài Vẽ theo mẫu, đồng thời hoàn thành được các bài tập
lý thuyết và thực hành.
- Nhằm phát triển khả năng tư duy hình tượng, óc quan sát và trình độ thể
hiện một bài vẽ theo mẫu. Và đề ra những giải pháp để nâng cao khả năng
thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu:
+ Các tiết dạy Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9 trường THCS Quang Trung
và trường THCS Nguyễn Du.
+ Giáo viên dạy Mỹ thuật và học sinh lớp 9 hai trường THCS Quang
Trung và THCS Nguyễn Du.
- Đối tượng nghiên cứu:
Khả năng thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học
sinh lớp 9.
4. Giả thuyết khoa học:
Nếu khả năng thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu
của học sinh 9 tốt thì sẽ nâng cao được chất lượng dạy và học bộ môn Mỹ
thuật nói chung và phân môn Vẽ theo mẫu nói riêng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
6
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
- Nhiệm vụ thứ nhất: Nghiên cứu cơ sở lý luận có liên quan đến vấn đề
khả năng thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh
lớp 9 trong giờ học.
- Nhiệm vụ thứ hai: Điều tra, đánh giá thực trạng khả năng thể hiện
đường nét, hình mảng của học sinh lớp 9 trong bài Vẽ theo mẫu.
- Nhiệm vụ thứ ba: Phân tích, đánh giá kết quả điều tra để tìm ra các
nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng thể hiện đường

nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu khả năng thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo
mẫu của học sinh lớp 9 ở hai trường THCS Quang Trung và THCS Nguyễn
Du ở TP Hà Tĩnh – Hà Tĩnh. Tổng số là 300 học sinh.
Thời gian thực hiện từ ngày 1 tháng 1 đến hết ngày 9 tháng 2 năm 2012.
7. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
+ Đọc các đề tài có liên quan đến vấn đề khả năng thể hiện đường nét,
hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9 trong giờ Mỹ thuật.
+ Phân tích hệ thống khái quát hoá các tài liệu thống kê, các quan niệm
khác nhau về sự thể hiênh đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của
học sinh lớp 9.
+ Trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm để nghiên cứu, xây dựng các chỉ
tiêu đánh giá khả năng thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu
của học sinh lớp 9.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát: Quan sát, tìm hiểu thể hiện đường nét, hình
mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
7
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
+ Phương pháp điều tra: Gửi phiếu điều tra cho giáo viên dạy các lớp 9.
Điều tra bằng trò chuyện, trao đổi phiếu điều tra.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục: Kế hoạch giáo
án, tổ chức hoạt động tìm hiểu khả năng thể hiện đường nét, hình mảng
trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9 bằng các tranh vẽ của học sinh.
- Phương pháp xử lý dữ liệu thu được:
Phương pháp sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu điều tra dựa vào kết

quả thu được chia sản phẩm thành ba mức độ khác nhau:
+ Mức độ 1: Có sự tìm tòi sáng tạo.
+ Mức độ 2: Hướng tới sự cảm nhận sáng tạo.
+ Mức độ 3: Không có sự tìm tòi sáng tạo.
8. Đóng góp mới của đề tài:
Đề tài này góp phần bồi dưỡng cho giáo viên mỹ thuật một kiến thức
dồi dào về đường nét, hình mảng trong bài VTM. Tìm hiểu đề tài này tạo
điều kiện cho người giáo viên mỹ thuật một hứng thú với nghề nghiệp, hiểu
được tâm lý của học sinh đối với môn mỹ thuật. Đặc biệt là khả năng thể
hiện đường nét, hình mảng của học sinh trong bài VTM. Giúp các em có
nhận thức về đường nét, hình mảng để tạo hứng thú trong học tập môn mỹ
thuật, cụ thể là phân môn VTM. Ngoài ra còn giúp các em có những tác
phẩm mỹ thuật trong và ngoài nước. Nghiên cứu đề tài này còn để xác định
trách nhiệm của người giáo viên trong việc giảng dạy môn mỹ thuật.
9. Kế hoạch thực hiện:
- Từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 8 tháng 1: Xác định đề tài, xây dựng đề
cương.
- Từ ngày 9 tháng 1 đến ngày 25 tháng 1: Nghiên cứu cơ sở lý luận. Dự
giờ, gửi phiếu điều tra, thu thập dữ liệu.
- Từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2: Viết công trình nghiên cứu.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
8
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
- Từ ngày 2 tháng 2 đến ngày 9 tháng 2: Duyệt bài. Đánh máy hoàn
thiện. Nộp bài.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
9
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương I:

HỆ THỐNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích dạy học môn mỹ thuật ở trường THCS:
Môn mỹ thuật ở trường THCS không nhằm đào tạo họa sĩ hay những
người chuyên làm nghề mỹ thuật mà môn mỹ thuật ở trường THCS nhằm
giáo dục khả năng cảm thụ, cảm xúc thẩm mỹ và bồi dưỡng thị hiếu thẩm
mỹ cho học sinh. Nhằm chủ yếu tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm
quen, thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp và vận dụng hiểu biết của mình
về cái đẹp vào học tập và sinh hoạt hằng ngày. Góp phần xây dựng con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cụ thể sau này.
Mục đích dạy học môn mỹ thuật ở trường phổ thông nói chung và ở
trường THCS nói riêng, góp phần nâng cao năng lực quan sát, khả năng tư
duy hình tượng, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp làm việc khoa học, góp
phần xây dựng môi trường thẩm mỹ cho xã hội. Mọi người đều hướng tới
cái đẹp, biết tạo ra cái đẹp, thưởng thức cái đẹp.
Môn mỹ thuật ở trường THCS giáo dục thẩm mỹ cho học sinh thông
qua ngôn ngữ tạo hình, vẻ đẹp của bố cục, của trang trí, hình tượng màu sắc,
đường nét, bồi dưỡng phương pháp làm việc khoa học nhằm hình thành ở
học sinh phẩm chất lao động mới đáp ứng đòi hỏi của xã hội phát triển ngày
càng cao.
Học sinh nhận thức sâu sắc hơn về vẻ đẹp và giá trị của nền mỹ thuật
ông cha để lại. Giúp học sinh tiếp thu có hiệu quả hơn trí thức ở các môn học
khác, vì các môn học có liên quan móc nối với nhau.
Hơn nữa định hướng cho một số bộ phận nhỏ học sinh học tiếp ngành mỹ
thuật, hay tạo điều kiện cho một số học sinh thi vào các trường chuyên
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
10
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
ngành có liên quan đến mỹ thuật sau này như: mỹ thuật, kiến trúc, thời trang,
xây dựng
2. Đặc điểm của môn mỹ thuật:

Trong nhà trường phổ thông trung học nói chung và trường THCS nói
riêng bao gồm có rất nhiều môn học, đặc điểm của các môn học rất khác
nhau. Nếu như việc dạy môn tự nhiên-xã hội ở trường không nhằm đào tạo
học sinh trở thành những nhà chuyên môn thì việc dạy môn mỹ thuật cũng
không nhằm mục đích đào tạo học sinh thành những nhà nghệ sĩ. Cùng với
các môn học khác, môn mỹ thuật cung cấp cho học sinh những kiến thức
giáo dục về cảm xúc, thẩm mỹ, tập cho các em biết nhìn và tìm ra cái đẹp,
tiếp đến đó là bồi dưỡng cảm xúc thảm mỹ.
Đối với các em học sinh, học môn mỹ thuật là một trò chơi có sức hấp
dẫn kì lạ. Hầu như học sinh nào cũng đều thích vẽ những bức tranh đầy sáng
tạo của các em làm chúng ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Hình
tượng và màu sắc trong tranh của các em rất đa dạng và phong phú, hầu như
hình ảnh và màu sắc trong bài vẽ tranh của các em rất đẹp và tươi sáng.
Không phải em nào cũng vẽ đẹp, mà các em chưa cảm nhận hết cách thể
hiện và sự tinh tế còn hạn chế, tính liệt kê các hình ảnh chưa được cao, màu
sắc còn mờ nhạt hoặc quá tối. Vì sự thể hiện bài vẽ khác nhau như vậy
không phải em nào cũng thíh vẽ và biết vẽ. Như vậy các em cần được các
thầy cô chỉ bảo, có sự nhạy bén những phương pháp phù hợp giúp các em
học và nắm được kiến thức một cách có hiệu quả tốt nhất.
Theo quy luật phát triển của tự nhiên thì một khi đời sống vật chất của
xã hội được nâng cao thì nhu cầu về thẩm mỹ ngày càng phát triển, chính vì
thế trong chương trình giáo dục mới mục tiêu giáo dục đặt ra đó là phải làm
sao để học sinh biết cảm nhận, biết tạo ra cái đẹp đã được đưa lên ngang
hàng với mục tiêu khác.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
11
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
3. Đặc điểm ngôn ngữ hoạt động mỹ thuật chung của học sinh THCS
lớp 9:
Học sinh THCS tuổi 15 là lứa tuổi ham thích môn nghệ thuật nói

chung, hoạt động môn mỹ thuật nói riêng. Một số học sinh THCS có nhu
cầu thưởng thức các tác phẩm hội họa, điêu khắc, công trình kiến trúc, xây
dựng, thời trang… Một số bộ phận cần có kiến thức mỹ thuật cho những
ngành nghề của mình nay mai như: Xây dựng, kiến trúc, sư phạm mỹ thuật,
thời trang.
Chương trình học ở THCS về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội cùng
với những kinh nghiệm sống của học sinh đảm bảo cho các em tiếp thu được
kiến thức mỹ thuật, sẽ giúp các em học và cách nhìn tư duy của các em về
môn mỹ thuật tốt hơn, nó sẽ tạo điều kiện cho các em học các môn khoa học
tự nhiên, xã hội có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên ở THCS, học sinh học môn mỹ thuật chưa có nề nếp ngay từ
bậc tiểu học đã bị cuốn hút vào các môn học chính, cơ sở vật chất cho bộ
môn mỹ thuật còn thiếu thốn và nghèo nàn, môi trường còn hạn hẹp, đều có
những hạn chế bất cập đến chất lượng học của môn mỹ thuật.
Ở bài VTM rất được các em học sinh THCS, đặc biệt là lứa tuổi 15
thích thú, tuy lứa tuổi này sắp sửa qua bậc THCS lên THPT, các em phải chú
trọng đến các môn chính như các môn tự nhiên, xã hội, nhưng việc học môn
mỹ thuật vẫn gây sự hứng thú cho các em, nó không gây sự gò bó và suy
nghĩ nhiều hơn các môn khác, mà nó là môn các em có thể vẽ những gì mình
thích trong đời sống hằng ngày, những gì mà các em mơ ước, nhất là ở các
tiết học VTM, các em được vẽ những đồ dùng, vật dụng trong cuộc sống,
những thứ mình thích và cách thể hiện đường nét, hình mảng cũng vậy.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
12
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
Tuy nhiên về hình tượng còn có những thiếu sót, chưa có nhiều kỹ
năng về dựng hình và hiểu biết về đặc điểm của đồ vật, tượng nên tranh của
các em vẽ con chưa chính xác.
Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình chung của học sinh THCS:
- Bố cục: Bố cục bài vẽ chặt chẽ, hình vẽ tự do rõ ràng hơn, có mảng

chính, mảng phụ, nhiều chi tiết phù hợp với đề tài, sát với mẫu.
- Hình mảng: Hình vẽ trong tranh số lượng nhiều hơn, có nhiều mảng khối
chi tiết, hình ngày càng giống mẫu.
- Đường nét: Nét vẽ mạch lạc, rõ ràng hơn so với lứa tuổi tiểu học.
- Đậm nhạt: Các em biết cách thể hiện đậm nhạt, sáng tối giống với mẫu,
biết điều chỉnh ánh sáng phù hợp với chất của mẫu.
4. Đặc điểm tâm lý của lứa tuổi học sinh THCS lớp 9:
Lứa tuổi học sinh THCS bao gồm những em có độ tuổi từ 11 đến 15
tuổi, đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9, lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu
niên, nó có vị trí đặc biệt trong sự phát triển của các em. Thời kỳ phát triển
tâm lý của học sinh lớp 9, đây là thời kỳ chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi
trưởng thành, nội dung cơ bản của sự khác biệt ở lứa tuổi học sinh THCS
với các em lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về các mặt:
trí tuệ, đạo đức, sự xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành do kết
quả biến đổi của cơ thể, có sự tự ý thức các kiểu quan hệ với người lớn, với
bạn bè và các hoạt động hoạt tập và hoạt động xã hội. Như vậy,sự phát triển
tâm lý của học sinh THCS là rất phức tạp.
Đối với tâm lý của học sinh lớp 9, đây là giai đoạn chuyển giao giữa
trẻ em thành người lớn, tất cả các yếu tố như: thể chất, tinh thần, trí tuệ,
nhân cách đều có những bước phát triển mạnh mẽ, tâm lý phát triển không
ổn định, các em thường có tính bốc đồng theo bạn bè, ương bướng, khó bảo,
nhiều em không chú trọng đến việc học tập và không ý thức được tầm quan
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
13
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
trọng của kiến thức do thầy cô truyền đạt, các em bắt đầu chú ý đến việc ăn
mặc, đầu tóc làm sao cho đúng mốt. Vì vậy, chúng ta thấy rằng để nắm bắt
được tâm lý của các em trong giờ học là rất khó, tâm hồn các em trong sáng,
ngây thơ trong tất cả các mối quan hệ, hầu như các em đều không ý thức
được điều đó, dẫn đến việc ảnh hưởng tới học tập, kết quả học tập không

cao.
Tâm lý của học sinh lớp 9 với việc thể hiện đường nét, hình mảng trong
bài VTM, việc học của các em hầu hết các môn học rất là nhiều kiến thức
nặng nề, các em chưa biết cách phân bổ thời gian cho các môn học ssao cho
hợp lý. Đây là tình trạng chung của các em trong độ tuổi THCS. Trong thực
tế, để biết rõ điều đó tôi đã gửi phiếu điều tra cho giáo viên và đánh giá bài
vẽ của các em. Qua đó đã thu được nhiều ý kiến phản hùăt các thầy cô và
các em học sinh, ta thấy được rằng các em chưa đầu tư được thời gian vào
việc học, nhiều em cho rằng bộ môn MT là môn học không cần thiết, các em
lơ là trong việc học và làm bài như kiểu đối phó, chưa chuẩn bị đồ dùng cho
các tiết học. Bên cạnh đó, một số học sinh rất thích học môn MT, các em
phân chia thời gian hợp lý cho tất cả các môn học, đặc biệt là môn MT. Việc
học sinh không hăng say khi học môn MT có nhiều yếu tố tác động đến tâm
lý học sinh như: gia đình, xã hội, trình độ của giáo viên, cơ sở vật chất…
Tóm lại, đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 9 là lứa bướng bỉnh tuổi khó
bảo với sự phát triển mạnh mẽ về tâm lý, biểu hiện tình cảm rõ rang, sự yêu,
sự ghét, đồng thời có sự biểu hiện của e thẹn, ngại ngùng ảnh hưởng đến kết
quả bài vẽ các em rất nhiều. Trong quá trình làm bài, các em thường che bài
vẽ của mình không để thầy cô nhìn thấy đồng thời các em có cảm giác mình
đã lớn, mình sẽ làm được, sẽ vẽ được nhưng khi bắt tay vào quá trình vẽ thì
các em không thể hiện được ý tưởng của mình.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
14
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
Sự phát triển thể chất, tâm lý, trí tuệ mạnh mẽ nhưng không đồng đều,
đa phần các em còn bỡ ngỡ, vụng về trong khi vẽ bài, điều chỉnh hình vẽ, nét
bút không theo suy nghĩ của bản thân và lứa tuổi còn ở tuổi ăn, ngủ, ham
thích vui chơi hoạt động. Vì vậy để thu hút các em vào vẽ bài là rất cần thiết
giúp các em thể hiện được bài vẽ và yêu thích môn học hơn.
5. Đặc điểm của học sinh lớp 9 với việc thể hiện đường nét, hình mảng

trong bài Vẽ theo mẫu.
Học sinh lớp 9 các em đã được phát triển hầu hết về các mặt như nhân
cách, tâm lý, đạo đức và trí tuệ. Nếu như ở cấp 1 các em nhận thức theo kiểu
lý tính, ở cuối tiểu học các em thường tưởng tượng cho các bài vẽ của mình
và tái tạo những hình ảnh đó bắt đầu hoàn thiện thành những hình ảnh mới,
tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển, ở đây ta chủ yếu quan tâm là khả
năng thể hiện đường nét, hình mảng trong bài VTM, ở những đoạn bài dưới
các em cảm nhận đường nét, hình mảng hầu hết các em chưa biết phân tích
các giác độ đó với nhau, tất cả những hiện tượng, hình ảnh và sự việc được
đưa vào trong tranh đều gắn liền với các xung đột tình cảm yêu-ghét, những
hình ảnh gần gũi được các em thể hiện rất phong phú.
Với học sinh lớp 9, các em đã có sự cảm nhận về yếu tố đường nét,
hình mảng rõ ràng, các em biết so sánh các giác độ của từng vật mẫu và thể
hiện vào bài vẽ một cách sang tạo, đạt hiệu quả cao.
6. Vai trò, ý nghĩa của khả năng thể hiện đường nét, hình mảng trong
bài Vẽ theo mẫu.
Vai trò và ý nghĩa của khả năng thể hiện đường nét, hình mảng trong
bài VTM, đây là yếu tố vô cùng quan trọng, làm thế nào cho học sinh cảm
nhận và thể hiện được yếu tố đó vào bài VTM? Đây là việc làm cần thiết và
được làm liên tục nhằm tạo ra các phương pháp mới để học sinh có hứng thú
sáng tạo trong bài vẽ của mình, nhưng đổi mới và vận dụng như thế nào là
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
15
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
một vấn đề được đặt ra cho những ai làm giáo viên MT ở bậc THCS, vì vậy
mỗi giáo viên phải tìm và vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp để áp
dụng vào từng bài dạy sao cho học sinh nắm bắt, thể hiện được mục đích của
bài vẽ, đặc biệt là phân môn VTM. Yếu tố đường nét, hình mảng có vai trò
quan trọng, để thu được những bài có kết quả từ phía học sinh, chúng ta phải
truyền đạt kiến thức làm sao cho học sinh hiểu được vai trò và ý nghĩa của

việc thể hiện đường nét, hình mảng là rất quan trọng trong bài VTM, đồng
thời vận dụng đúng lúc, đúng chỗ các phương pháp thì mới thu được kết quả
như mình mong muốn.
7. Yêu cầu của việc thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo
mẫu.
Trong quá trình học tập ở trường CĐSP TW và 3 tuần thực tập giảng
dạy ở trường THCS tôi đã rút ra một số yêu cầu trong bài VTM của học sinh
lớp 9. Trước tiên, chúng ta phải nghiên cứu tài liệu để tìm hiểu và nắm vững
lý luận dạy học môn MT, từ đó có nhận thức đúng đắn về đổi mới phương
pháp dạy MT nói chung và đổi mới phương pháp dạy VTM nói riêng.
Dạy và học phải bám sát mục tiêu bài học, xác định và thực hiện đúng mục
tiêu bài dạy, đảm bảo phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Chưong trình và mục tiêu cần có sự thống nhất, những nội dung dạy
trong sách giáo viên phải được nghiên cứu và sử dụng một cách linh hoạt
phù hợp với thực tế đối tượng học sinh, từng trường, từng địa phương.
Giáo viên muốn truyền đạt để học sinh cảm nhận và thể hiện được yếu
tố đường nét hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu, chúng ta phải quan tâm tới
đối tượng học sinh từng lớp và phối hợp các phương pháp dạy học khác
nhau sao cho chúng bổ trợ cho nhau trong cả hoạt động dạy và hoạt động
học, tạo điều kiện để học sinh tích cực hoạt động, sáng tạo là chủ yếu. Với
tiết học hoạt động quan sát, phân tích và thực hành là chủ yếu.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
16
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
Yêu cầu của việc thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo
mẫu của học sinh lớp 9 là học sinh phải thể hiện được các yếu tố yêu cầu của
một bài Vẽ theo mẫu theo tiêu chuẩn Mỹ thuật lớp 9 đã đề ra, bài vẽ của các
em phải đạt các yếu tố về hình, về mảng, về màu sắc, ánh sáng, bố cục và
chất liệu, từ đó các em hiểu được yêu cầu của bài vẽ và xác định đúng mục
đích thì việc thể hiện đường nét, hình mảng sẽ đạt hiệu quả cao.

8. Những yếu tố ảnh hưởng đến bài vẽ theo mẫu của học sinh.
a. Yếu tố khách quan.
- Môi trường: Nhắc đến môi trường, chúng ta có môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta chỉ
bàn về yếu tố tác động chủ yếu là môi trường tự nhiện. Trong một bai vẽ, sự
tác động của môi trường là không thể phủ nhận, khi thời tiết đẹp ánh sáng
phù hợp sẽ cho ta cảm nhận và quan sát mẫu một cách trung thực, rõ ràng và
ngược lại. Một bài vẽ tốt là bài vẽ phải kết hợp được sự chính xác của mẫu,
sự nhạy cảm của tâm hồn, sự biến đổi linh hoạt của môi trường, ví dụ như:
Chúng ta vẽ bài Vẽ theo mẫu vào một ngày có thời tiết đẹp, phù hợp cùng
với một tinh thần thoải mái, chúng ta sẽ nhìn vật mẫu một cách rõ ràng, hình
khối và các mảng đậm nhạt của vật mẫu cũng được thể hiện hết vẻ đẹp của
mình thì điều tất yếu thì chúng ta sẽ có một bài vẽ thật đẹp, còn không thì
ngược lại, vì vậy môi trường là yếu tố có ảnh hưởng đến bài vẽ rât nhiều.
- Gia đình: Là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy, tâm lý của
học sinh. Gia đình còn là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng và quá trình hình
thành nhân cách của trẻ. Do vậy, sự mong muốn từ phía nhà trường là sự kết
hợp của gia đình với nhà trường để giáo dục các em phát triển toàn diện về
nhân cách, trí tuệ, vì khi gia đình không quan tâm nhiều thì các em sẽ không
có đầy đủ đồ dùng học tập trong môn này. Vậy gia đình cũng là yếu tố rất
quan trọng ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
17
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
- Xã hội: Bên ngoài sự giáo dục của gia đình, thì môi trường xã hội
xung quanh các em là một yếu tố quan trọng giúp các em phát triển nhân
cách một cách toàn diện, những ảnh hưởng của xã hội là điều khó có thể phủ
nhận.
- Cơ sở vật chất: Để dạy và học môn Mỹ thuật thì các dụng cụ vẽ,
sách vở, chất liệu vẽ…là những phương tiện cơ bản để giáo viên giảng dạy

và học sinh thực hành, nếu như điều kiện học tập này không có hoặc bị thiếu
sẽ dẫn đến việc học của các em không có hiệu quả, nhất là khi yêu cầu của
môn học là việc thực hành nhiều. Vì thế sự cần thiết của của cơ sở vật chất
trong quá trình dạy và học là yếu tố không thể thiếu trong phân môn Vẽ theo
mẫu.
- Năng lực của giáo viện: Người giáo viên phải là người có khả năng
định hướng, truyền đạt kiến thức cho học sinh. Là một giáo viên Mỹ thuật
chúng ta cần phải linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động dạy và học, kịp
thời phát hiện và bồi dưỡng cho từng đối tượng học sinh khác nhau. Ngoài
ra, chúng ta cũng cần tự học hỏi đồng nghiệp, bạn bè để nâng cao kiến thức
và chuyên môn nghiệp vụ.
b. Yếu tố chủ quan.
Khả năng và tố chất của học sinh: Trong giai đoạn hiện nay, học sinh
chúng ta đã được sống trong một môi trường hiện đại và hội nhập. Các em
có nhiều cơ hội hơn để nâng cao kiến thức của mình và nhiều em đã bộc lộ
được khả năng, năng khiếu của mình. Những học sinh được học trong môi
trường và điều kiện thuận thì năng khiếu của các em sẽ được phát triển và
kết quả học tập sẽ cao hơn.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
18
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
Chương II:
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG THỂ HIỆN ĐƯỜNG NÉT HÌNH MẢNG
TRONG BÀI VẼ THEO MẪU CỦA HỌC SINH LỚP 9
1. Vài nét về trường THCS Quang Trung và trường THCS Nguyễn Du.
Trong đề tài đề cập nghiên cứu trên hai trường thuộc địa bàn Tp Hà
Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Đấy là:
- Trường THCS Quang Trung - Thạnh Hạ - Tp Hà Tĩnh – Hà Tĩnh.
- Trường THCS Nguyễn Du - Nguyễn Du – Tp Hà Tĩnh – Hà TĨnh.
Trường THCS Quang Trung( Trước đây là trường THCS Hạ Môn),

được thành lập vào năm 1985, trường có địa bàn nằm ngay trung tâm xã
Thạch Hạ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại và học tập của giáo iên và
học sinh.
Tổng số lớp học là 16 lớp
Tổng số học sinh là: 545 học sinh
Gồm: Lớp 6: 4 lớp: 140 học sinh
Lớp 7: 4 lớp : 130 học sinh
Lớp 8: 4 lớp: 135 học sinh
Lớp 9: 4 lớp: 140 học sinh
Trường có: Ban giám hiệu có 2 người, giáo viên có 38 thầy cô, bảo vệ
và lao công có 2 người.
Về trình độ chuyên môn:
- Đại học: 20 người
- Cao Đẳng: 20 người
Về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, nhưng vẫn chưa có đủ phòng học
riêng cho môn Mỹ thuật.
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
19
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
Trường THCS Nguyễn Du được thành lập vào năm 1980. trường có
địa điểm nằm ngay trung tâm phường Nguyễn Du, khu vực đông dân cư
thuận tiện cho việc học sinh học tập và giáo viên giảng dạy.
Tổng số lớp học là 16 lớp.
Tổng số học sinh: 630 học sinh
Gồm: Lớp 6: 4 lớp: 160 học sinh
Lớp 7: 4 lớp: 155 học sinh
Lớp 8: 4 lớp: 155 học sinh
Lớp 9: 4 lớp: 160 học sinh
Trường có: Ban giám hiệu là 2 người, giáo viên có 40 người, lao
công, bảo vệ có 2 người.

Về trình độ chuyên môn:
- Đại học: 30 người
- Cao đẳng: 12 người
Cơ sở vật chất trong trường đầy đủ, có máy chiếu, phòng học riêng
cho môn Mỹ thuật. Đủ điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học.
Hai trường đều thuộc địa bàn Tp Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Mỗi trường
đều có 2 giáo viên dạy môn Mỹ Thuật. Cả 2 trường đều có địa bạn thuận lợi
như ở trung tâm dân cư đông đúc, gần chợ và bệnh viện.
Giáo viên dạy môn Mỹ Thuật đểu là giáo viên trẻ vừa ra trường vì
thực tế môn Mỹ Thuật cũng mới được đưa vào giảng dạy trong những năm
gần đây tại hai trường này. Học sinh ở đây hiếu học, gia đình có điều kiện và
rất quan tâm đến việc học của các em. Học sinh đi học đông và đầy đủ.
Môn Mỹ thuật được đưa về giảng dạy ở hai trường, qua tìm hiểu được
biết các em học sinh đều rất hứng thú học bộ môn Mỹ Thuật. Đặc biệt là
trong các tiết học vẽ theo mẫu. Tuy nhiên môn Mỹ Thuật vừa đựoc đưa vào
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
20
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
nhà trường và chỉ là môn phụ, mà csác em học sinh thì chủ yếu chú tâm vào
các môn học chính chứ chưa chú ý đến môn này nhiều.
Mặc dù vậy, có điều kiện dạy học đầy đủ, có mayc chiếu, một trường
có phòng học Mỹ thuật riêng nên các tiết học Mỹ thuật rất sinh đông, học
sinh hứng thú học và có kết quả tốt.
2. Khái quát hoá về môn Mỹ thuật ở lớp 9.
Chương trình Mỹ thuật ở lớp 9 gồm 4 phân môn:
- Vẽ theo mẫu: 5 tiết
- Vẽ tranh: 4 tiết
- Vẽ trang trí: 5 tiết
- Thường thức Mỹ thuật: 4 tiết
- Trưng bày kết quả học tập: 1 tiết

Tổng cộng: 19 tiết/1năm
Chương trình Mỹ thuật 9 theo Bộ giáo dục phân bố chỉ học một học
kỳ. Phân môn vẽ theo mẫu gồm có:
- Tĩnh vật (Lọ hoc và quả - vẽ hình)
- Tĩnh vật (Lọ hoa và quả - vẽ màu)
- Vẽ tượng chân dung (Tượng thạch cao - vẽ hình)
- Vẽ tượng chân dung ( Tượng thạch cao - vẽ màu)
a. Nhận thức của giáo viên về đường nét, đường mảng.
- Tầm quan trọng của môn Mỹ thuật qua tìm hiểu thực tế:
Có nhiều giáo viên nhận thức đùng đắn rằng; Mỹ thuật là môn học sáng tạo,
phát triển tư duy, hình tượng và trí tưởng tượng, tình yêu cái đẹp và ý thức
hành động theo cái đẹp vì thế rất có ích cho cá em học sinh và góp phần
quan tọng trong việc phát trển toàn diện cho các em cả về thể chất lẫn tinh
thần, song thực tế dạy học môn Mỹ thuật còn nhiều khó khăn, bất cập. Trước
đây Mỹ thuật ở trong trường học chỉ được coi là môn học phụ không được
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
21
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
chú trọng. Giáo viên có khi chưa được đào tạo đúng chuyên ngành, đồ dùng
dạy học còn thiều thốn nên chưa đạt hiệu quả cao trong các tiết học, từ năm
2004, Bộ giáo dục đã thay đổi chương trình học bằng cải cách Sách giáo
khoa ở THCS có riêng Sách giáo khoa Mỹ thuật cho nên cả giáo viên và học
sinh đã chú tọng vào môn học hơn.
- Tầm quan trọng của việc tìm hiểu thực trạng khả năng thể hiện
đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo mẫu của học sinh lớp 9:
Qua việc tìm hiều bài vẽ của học sinh, tôi thấy đây là một vấn đề rất cần
thiết, yêu cầu người giáo viên phải có một kiến thức phong phú và hiểu biết
rộng về vấn đề đường nét, hình mảng để hướng dẫn học sinh học tốt hơn
môn Vẽ theo mẫu ở lớp 9.
b. Nhận thức của học sinh về đường nét, hình mảng.

Mỹ thuật ở trường THCS chủ yếu là giáo dục thẩm mỹ tạo điều kiện
cho học sinh tiếp xúc, làm quen và thưởng thức vẻ đẹp của tự nhiên, của các
tác phẩm nghệ thuật. Từ khi bắt đầu đưa Mỹ thuật vào trường THCS, học
sinh cũng rất hứng thú với môn học này. Tuy nhiên các em học sinh vẫn bị
chi phối, ảnh hưởng bởi các môn học chính. Các em vẫn cho rằng môn Mỹ
thuật không phải là môn chính nên các em vẫn sao lãng việc học tập của
môn Mỹ thuật. Vì vậy việc giảng dạy môn Mỹ thuật ở cấp THCS vẫn còn
gặp khó khăn.
Các em học sinh lớp 9 đã có những cảm nhận khác nhau về đường
nét, hình mảng. Mỗi học sinh lại có sự cảm nhận khác nhau và thể hiện các
yếu tố trong bài vẽ cũng khác nhau, vì thế bài vẽ của các em rất phong phú
và đa dạng, đặc biệt qua việc tỉm hiểu tình hình học môn Mỹ thuật ở 2
trường THCS Quang Trung và THCS Nguyễn Du đã cho ta thấy sự chênh
lệch đó. Nhận thức của các em lớp 9 ở hai trường là khác nhau, điều đó được
thể hiện trong bài vẽ của các em, rất nhiều yếu tổ ảnh hưởng đến nhận thức
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
22
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
của học sinh về việc thể hiện đường nét, hình mảng trong bài vẽ của mình.
Khi các em đa nhận thức được vấn đề thì các em có cách khắc phục, từ đó
thể hiện bài tốt hơn.
3. Một số biện pháp dạy môn Mỹ Thuật.
Một số phương pháp giáo viên ở 2 trường đã sử dụng:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp vấn đáp
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp gợi mở.
- Phương pháp luyện tập.
- Phương pháp dạy học theo cặp, nhóm.
Mức độ sử dụng: Sử dụng thường xuyên.

4. Nghiên cứu thực trạng:
a. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu khả năng thể hiện đường nét, hình mảng trong bài Vẽ theo
mẫu của học sinh lớp 9, kết hợp việc trung cầu ý kiến của giáo viên về việc
dạy Mỹ thuật của giáo viên Mỹ thuật, tìm ra nguyên nhân trực tiếp ảnh
hưởng đến bài vẽ của học sinh và từ đó có biện pháp khắc phục tình trạng.
b. Cách nghiên cứu.
Nghiên cứu bằng cách dự giờ, gửi phiếu điều tra cho giáo viên ở
trường và giáo viên bộ môn Mỹ thuật, đánh giá từ bài vẽ của học sinh.
5. Nghiên cứu, đánh giá từ bài vẽ của học sinh.
Sau khi nghiên cứu, đánh. Tôi thu được kết quả từ học sinh như sau:
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
23
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
24
Trường CĐSP Trung Ương Bài tập thực tập tốt nghiệp
SV: Nguyễn Thị Nhung(16/08/90) Lớp: 10CĐLT_MT
25

×