Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.87 KB, 16 trang )

BÀI 5. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã kết hợp chặt chẽ giữa nhận
thức lý luận và hoạt động, tổng kết thực tiễn, xác lập nên một hệ thống các quan
điểm, tư tưởng về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều
kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu với các đặc
điểm văn hóa truyền thống phương Đông.
Việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đội tiền phong,
bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc trở thành người tổ chức và lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam là một
cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh về lý luận và tổ chức thực tiễn đối với cách mạng
Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức sáng rõ
thêm về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân là người sáng tạo nên lịch sử,
động lực của các cuộc cách mạng, mà còn phát hiện được rằng sức mạnh của quần
chúng chỉ có thể phát huy đầy đủ, đúng đắn khi có sự lãnh đạo của một "đảng cách
mệnh" chân chính.
Trên ý nghĩa đó, Người cho rằng: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Cách
mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thì thuyền mới chạy”.
Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai
cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn
kết “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng, bao
giờ Đảng cũng “tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt
đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp,
của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.


1
Đây là nhận thức hoàn toàn mới, vào đầu thế kỷ XX chưa có nhà hoạt động
cách mạng nào trước Hồ Chí Minh đạt được. Chính từ nhận thức đó, trong quá trình
chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã định hướng đúng đắn cho sự vận động của
hai quá trình:
Một là, đưa phong trào yêu nước chuyển dần từ lập trường quốc gia sang
khuynh hướng mácxít, rồi từ khuynh hướng mácxít chuyển sang lập trường cộng sản.
Hai là, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát sang trình độ
tự giác. Nhân tố đóng vai trò quyết định bảo đảm sự chuyển biến về chất của phong
trào công nhân và phong trào yêu nước là chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua vai trò
truyền bá có hệ thống của Hồ Chí Minh. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, đó cũng chính là con đường
mà Hồ Chí Minh đã trải nghiệm và cũng là con đường tiến triển của dân tộc ta đầu
thế kỷ XX.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sau này, Người đã khái quát:
"Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã
dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930". Điều này thể
hiện hai mặt gắn bó với nhau rất chặt chẽ ở Hồ Chí Minh là phải nắm vững quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, để vận dụng
sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam - “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng
của dân tộc Việt Nam”
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công một đảng vô sản kiểu mới Đảng Cộng
sản Việt Nam. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng (2 - 1951), Người khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng
của dân tộc Việt Nam”. Khi miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ

nghĩa, năm 1961, Người nhắc lại luận điểm này: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng
thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Luận điểm nêu trên đã chỉ đạo cách thức tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng
sản Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất giai cấp công nhân, mà còn gắn bó máu
2
thịt với dân tộc. Mọi hoạt động của Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phụng sự
giai cấp, phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt
Nam được nhân dân thừa nhận và gọi trìu mến, gần gũi là “Đảng ta”. Đó là một cội
nguồn sức mạnh của Đảng.
Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc, song
không có nghĩa là “Đảng toàn dân”, không mang bản chất giai cấp, mà đó là Đảng
mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta thể hiện
ở chỗ Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng; Đảng ta lấy độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, và mục tiêu của (Đại hội Đảng lần thứ XI là) lấy dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu lý tưởng của mình. Đảng
tuân thủ nguyên tắc tổ chức của Đảng là Đảng kiểu mới, Đảng của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc, Người đã
hiều rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời phê phán những
quan điểm sai trái như không thấy rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, hoặc chỉ thiên về công nông mà không thấy rõ vai trò của các tầng lớp, giai cấp
khác đi với công nông tạo thành sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: “Khẳng định bản chất giai
cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp
nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã
mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc”. Đảng tìm
thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân
lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó, nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận
Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản, thiết thân
của mình".

Đảng không chỉ kết nạp những người ưu tú trong giai cấp công nhân, mà còn
kết nạp cả những người ưu tú trong giai cấp nông dân, trong đội ngũ trí thức và các
thành phần khác (những năm gần đây thành viên của Đảng còn xuất hiện cả giới
doanh nhân) đã được giác ngộ, tự giác đứng trên lập trường giai cấp công nhân.
Trong Điều lệ Đảng năm 1930 do Người soạn thảo đã nêu rõ: “Ai tin theo chủ nghĩa
cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hi sinh,
phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng
thời được vào Đảng”.
3
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn khẳng định: “không phải mọi người yêu nước đều
là cộng sản, nhưng việc tiếp nhận đường lối của Đảng Cộng sản lại là điều kiện cần
thiết để xác định được mục tiêu yêu nước đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước
hết phải là người yêu nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, lãnh đạo công
nhân và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng”.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”
Sự thành công của cách mạng Việt Nam gắn liền với Đảng tiên phong, trong
đó nhân tố đóng vai trò quyết định bảo đảm sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng chính là
chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua vai trò truyền bá có hệ thống của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Trong quá trình chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: sự nghiệp cách mạng của nhân dân
Việt Nam chỉ có thể thành công khi nó được một chính đảng Mácxít, Lêninnít lãnh
đạo và Đảng phải vững mạnh. Theo Người "Đảng có vững mạnh thì cách mạng mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy", phải xây dựng Đảng
vững về chính trị, tư tưởng, phải lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, tức làm cơ sở
lý luận, làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Người
viết: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu,
ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không
có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Người đã tìm thấy lý luận cách mạng tiền phong ở chủ nghĩa Lênin: “Bây giờ

học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Lênin"… vì nó chỉ ra cho Đảng mục tiêu, con đường thực hiện sứ
mệnh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xóa bỏ
áp bức, bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Trong bài “Chủ nghĩa
Lênin và công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức” (4 - 1955), Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “…Chủ nghĩa Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng
chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của
quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng
tôi”.
Có thể nói, đây là sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam, vì nếu không có lý luận dẫn đường, Đảng chỉ là một tập hợp
ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu thống nhất và không có sức mạnh. Trong tác phẩm Đường
4
cách mệnh, Bác viết: ''Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận
động Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách
nhiệm cách mệnh tiền phong''. Người nhấn mạnh: “Đối với công việc kháng chiến và
kiến quốc, lý luận là rất quan trọng. Không hiểu lý luận thì như người mù đi đêm”.
Suốt quá trình lãnh đạo Đảng ta, Hồ Chí Minh luôn kiên định lập trường xây
dựng Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam
chứ không phải là kinh thánh, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “cốt” không có nghĩa là
rập khuôn máy móc, giáo điều. Người yêu cầu “Đảng áp dụng lập trường, quan điểm
và phương pháp Mác - Lênin mà giải quyết các vấn đề thực tế của cách mạng Việt
Nam… không phải chỉ học thuộc lòng vài bộ sách của Mác - Lênin mà làm được như
vậy. Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao, phải hiểu rõ lịch
sử xã hội, phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân…, phải gom góp tư
tưởng, kinh nghiệm, sáng kiến và ý chí của quần chúng, sắp xếp nó thành hệ thống,
rồi lại áp dụng vào trong quần chúng”.
Trong tình hình hiện nay, một mặt phải kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, mặt
khác phải không ngừng sáng tạo lý luận. Không kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ rơi
vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại, rốt cuộc cũng không có sáng tạo lý luận đính thực.

Ngược lại, không phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong tình hình mới sẽ
làm mất đi sức sống của nó mà thời đại mới đang yêu cẩu. Dĩ nhiên, phải luôn xác
định được ranh giới giữa kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin với các biểu hiện bảo thủ,
giáo điều; giữa sáng tạo lý luận với cơ hội chính trị.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc của
Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản
Thứ nhất, tập trung dân chủ
Đảng tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nghĩa là: Đảng “có đảng
chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất”. Đây là nguyên
tắc tổ chức của Đảng, là nguyên tắc rường cột để xây dựng Đảng Cộng sản thành một
tổ chức chiến đấu chặt chẽ, không biến Đảng thành một câu lạc bộ, vừa phát huy sức
mạnh của mỗi người, vừa phát huy sự nghiệp của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó
với nhau thành một tổ chức. Người thường căn dặn: “Muốn Đảng mạnh, phải thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Cần nhận thức rõ dân chủ là bản chất của
Đảng, Nhà nước và chế độ ta”.
5
Về dân chủ, Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự
do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình,
góp phần tìm ra chân lý… Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc
ấy, quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Bên cạnh đó, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người nói: “Phải
thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình có dân chủ
trong Đảng mới có dân chủ ở ngoài xã hội, song dân chủ không phải là vô chính phủ”
Để bảo đảm tính tập trung, Người nhấn mạnh phải thống nhất về tư tưởng, tổ
chức, hành động. Do đó, cá nhân phải phục tùng đoàn thể, thiểu số phải phục tùng đa,
cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Trong
Đảng, bất kỳ cấp trên hoặc cấp dưới, đảng viên cũ hoặc đảng viên mới, đều nhất định
phải giữ kỷ luật của giai cấp vô sản,… mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện
nghị quyết của tổ chức Đảng. Từ đó làm cho "Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi
tiến đánh thì chỉ như một người".

Như vậy, trong nguyên tắc này, thì tập trung và dân chủ có quan hệ biện chứng,
là hai mặt của một vấn đề, gắn bó và thống nhất với nhau. Dân chủ không đối lập với
tập trung mà chỉ đối lập với tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Tập trung không đối
lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tình trạng tản mát, tự do tùy tiện, vô tổ chức. Dân
chủ là “cơ sở của tập trung”, để đi đến tập trung, dưới sự chỉ đạo của tập trung. Tập
trung phải trên “nền tảng dân chủ”, sự tập trung đích thực chỉ có thể đạt được trên cơ
sở phát huy dân chủ thật sự trong Đảng.
Thứ hai, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng, đây
là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, chỉ có tập thể lãnh đạo mới huy động được tất cả trí
tuệ của đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Sở dĩ phải đảm bảo tập thể lãnh đạo là vì “một người dù tài giỏi đến mấy cũng
không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc,
hiểu hết được mọi chuyện. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này,
người thấy mặt kia, do đó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề và có thấy rõ khắp mọi mặt
thì vấn đề mới giải quyết chu đáo khỏi sai lầm”.
Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh thì “tập thể lãnh đạo" mới chỉ là một vế. Người
cho rằng: "Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau".
Sở dĩ phải cá nhân phụ trách là vì nếu không sẽ dẫn tới tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính
6
phủ, rồi hỏng việc. Bởi lẽ " Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ
người này uỷ cho người kia, người kia uỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành.
Như thế thì việc gì cũng không xong. Vì thế, bất kỳ công việc gì sau khi đã được tập
thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch rõ ràng, thì cần giao cho một người phụ trách…
Do đó, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có quan hệ khăng khít với nhau,
là hai vế làm thành một chỉnh thể thống nhất trong nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Tập
thể lãnh đạo là để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người. Cá nhân phụ trách
là để xác định rõ trách nhiệm thực hiện, nâng cao tinh thần và ý thức trách nhiệm của
mỗi cá nhân. “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung”.

Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là
quy luật phát triển, là phương thức giáo dục, rèn luyện đảng viên và xây dựng đảng.
Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng,
mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”.
Hồ Chí Minh xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để để nâng cao trình độ
của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước
giai cấp và dân tộc. Bởi vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, phải thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc. Người chỉ rõ: "một Đảng
mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ
hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm
đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính". Tự phê bình và
phê bình là thang thuốc quý để chữa các căn bệnh trong Đảng và mỗi cán bộ, đảng
viên. Người thường nói, khuyết điểm cũng như chứng bệnh, phê bình cũng như uống
thuốc. Sợ phê bình cũng như có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Nếu nể
nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế
thì khác nào cứ thấy đồng chí mình ốm mà không chữa cho họ. Không dám tự phê
bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình bỏ thuốc độc
cho mình.
Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học cách mạng,
mà còn là của nghệ thuật. Người lưu ý cán bộ, đảng viên và các cấp bộ Đảng từ trên
7
xuống dưới phải “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”. Cán
bộ càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình.
Bên cạnh tính kiên quyết trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình,
Hồ Chủ tịch rất coi trọng cái tâm trong sáng khi phê bình. Tự phê bình phải thành
khẩn. Thành khẩn, thành tâm, không “giấu bệnh sợ thuốc” sẽ giúp cho việc tự phê
bình có kết quả tốt. Phê bình phải trung thực, “không đặt điều”, “không thêm bớt”.
Người cũng yêu cầu: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và

nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự
đoàn kết, thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(24).
Người kiên quyết chống mọi biểu hiện lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, gây rối
nội bộ và phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xảy ra trong tự phê bình và
phê bình như thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không
dám phê bình, nể nang né tránh, dĩ hoà vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để
nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác…
Người nhận thức sâu sắc rằng, tuy Đảng ta gồm những người có tài, có đức,
phần đông là những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất , nhưng
"không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay”, do vậy trong Đảng phải luôn
luôn tự phê bình và phê bình". Vì vậy, mục đích của tự phê bình và phê bình là: làm
cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần
đi; làm cho các tổ chức Đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh; để tăng cường đoàn
kết, thống nhất trong nội bộ Đảng; để các tổ chức Đảng và đảng viên luôn luôn hoàn
thiện mình, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao cho. Tự phê
bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, như người ta rửa mặt hằng ngày.
Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác
Về kỷ luật nghiêm và tự giác, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc làm cho
Đảng thực sự là một tổ chức chiến đấu chặt chẽ và tạo nên sức mạnh to lớn. “Sức
mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của
cán bộ, đảng viên”.
Trong quá trình giáo dục, rèn luyện Đảng ta, Người luôn đòi hỏi mọi cán bộ,
đảng viên phải luôn “giữ vững kỷ luật của Đảng, phải phục tùng sự lãnh đạo và chấp
hành những nghị quyết của Đảng… tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh
hoạt đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng” - đây là yêu cầu cao nhất của kỷ luật
Đảng. Người khẳng định, nhờ có kỷ luật mà Đảng ta đoàn kết, nhất trí, mạnh mẽ,
8
lãnh đạo cách mạng thắng lợi. Kỷ luật trong Đảng là kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật
tự giác.
Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, tự giác là thuộc về

mỗi cá nhân cá bộ, đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật này là do lòng
tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”.
Có kỷ luật thống nhất thì Đảng mới là một khối thống nhất về tư tưởng và hành
động. Nếu không có kỷ luật, không thống nhất về tư tưởng và hành động, "Đảng sẽ
xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế tắc".
Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải
nghiêm túc tuân thủ kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối
không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả, phải biến kỷ luật
thành ý thức và hành động tự giác. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi
đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng,
mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng”.
Năm là, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng
Hồ Chí Minh thấm nhuần nguyên lý đoàn kết thống nhất của Đảng cộng sản
bằng cả lý trí và tình cảm. Người tâm niệm rằng: đoàn kết thống nhất của Đảng là
một nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin để xây dựng khối đoàn kết
toàn dân, xây dựng Đảng. Người dạy: "Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành
công". Trong di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Từ khi sáng lập đảng cho đến trước lúc đi xa, Người rất coi trọng xây dựng
khối đoàn kết, thống nhất, luôn đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, thường xuyên quan
tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng Đảng. Trong bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của
Trung ương (11 - 5 - 1952), Người đã chỉ rõ “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần
phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu. Toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí, hành động
nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm trọn nhiệm vụ của Đảng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng của Đảng
trước hết và trên hết phải gắn liền với sự vững mạnh về tổ chức, thể hiện ở sự đoàn
kết nhất trí trong Đảng. Người nhấn mạnh: sự đoàn kết thống nhất ý chí, thống nhất
hành động là biểu hiện cao nhất của một Đảng cách mạng, Đảng tiên phong. Người
khẳng định: “Với sự đoàn kết nhất trí và lòng cương quyết quật cường của Đảng, của

9
Chính phủ và của toàn dân, chúng ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn để đi
đến hoàn toàn thắng lợi”.
Người chỉ ra cơ sở của Đoàn kết thống nhất trong Đảng là đường lối, quan
điểm và Điều lệ Đảng. Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu
cầu: phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ; phải thường xuyên thực hiện phê bình
và tự phê bình; có tình thương yêu đồng chí; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Đảng không thể mạnh nếu như, các tổ chức cơ
sở của Đảng không mạnh, không tốt. Vì theo Người: "Đảng mạnh là do chi bộ tốt,
chi bộ tốt là do Đảng viên tốt"

và "chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi
việc sẽ tốt".
Đoàn kết thống nhất trong Đảng, theo Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự đoàn kết có
nguyên tắc trên cơ sở mục tiêu lý tưởng của Đảng, trên nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Đảng là tập trung dân chủ. Suốt cả cuộc đời, Người là trung tâm của sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Nhân dân ta ai cũng nhớ câu nói nổi tiếng của Người: Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công.
Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh không ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng ta thành một đảng thật sự
trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân
tộc. Và để hoàn thành tâm nguyện của Người, đòi hỏi Đảng phải thật sự đổi mới. Đổi
mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và chỉ đạo, đổi mới
phong cách làm việc, phải thật sự coi trọng công tác giáo dục, kiểm tra, đào tạo, thực
hành dân chủ rộng rãi và thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ kế cận.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là một nguồn tài sản vô giá của
Đảng ta và của cả dân tộc ta, đã soi sáng và chỉ đạo Đảng ta vượt qua muôn vàn thử
thách hơn 80 năm qua, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi có ý

nghĩa lịch sử và thời đại. Tư tưởng của Người về Đảng tiếp tục là bó đuốc soi đường,
là “kim chỉ nam” để Đảng ta hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới, là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,
nhằm xây dựng một nước Việt Nam vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh".
10
Chú ý:
Với Chuyên đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam”:
- Cô giáo chỉ tập trung ở 2 nội dung sau:
+ Nội dung 1 : gồm 2 phần:
o Phần 1. Bản chất giai cấp của Đảng === phần này đã được trình bày
chi tiết tại Mục 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam - “Đảng của giai cấp công nhân, đồng
thời là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Chú ý: ngoài phần đã trình bày ở trên thì bản chất giai cấp công nhân của Đảng còn
thể hiện ở nguyên tắc tổ chức của Đảng === mọi người cắn dán từ Mục 4 -
“Nguyên tắc tổ chức của Đảng” vào cho hợp lý gồm 5 nguyên tắc sau:
 Thứ nhất, tập trung dân chủ;
 Thứ hai, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách;
 Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình;
 Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác;
 Năm là, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
o Phần 2. Tính nhân dân và tính dân tộc === phần này được trình bày
tại Mục 3 - “Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt”.
=== mọi người có thể Mix theo ý của bản thân. Tôi đã tổng hợp theo dàn ý của Cô
giáo rồi nên chỉ việc cắt bớt đi thôi.
+ Nội dung 2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ĐCS Việt Nam:
Cô giáo bảo đọc qua vì ít khi ra === nhưng tôi cứ làm chi tiết - biết đâu lại dùng
được, nó hay phết đấy.
- Các Mục 5. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ. Phải thường xuyên chăm lo củng cố

mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân và Và Mục 6. Đảng phải thường xuyên
chăm lo xây dựng và tự chỉnh đốn, tự đổi mới === Tôi cũng đã trình bày chi tiết
tại “Bản phụ Đính kèm” cùng với File này. Nếu có sử dụng, xin tra “Bản…” đó ha.
- Nội dung “Vận dụng vào thực tiễn…” mọi người xem tại “Bản phụ
Đính kèm” gắn kèm với Chuyên đề “Xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì
dân”;
- Chuyên đề này có tồn tại 2 “Bản phụ Đính kèm” nhé, gồm:
o Một Bản phụ đính kèm trực tiếp với File này;
11
o Một Bản phụ Đính kèm với Chuyên đề “Xây dựng Nhà nước của dân,
do dân và vì dân”.
Kết luận: Chuyên đề này Tôi tự tin 9 điểm.
12
5. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ. Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan
hệ máu thịt giữa Đảng với dân
Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân được Hồ Chí Minh nhấn mạnh: sức mạnh
của Đảng chính là bắt nguồn từ mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. "Đảng là
con nòi của nhân dân" - Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong
dân, trong lòng dân. Sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân và vì dân. Mọi thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng đều bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân được Đảng dẫn lối
chỉ đường.
Người luôn tâm niệm: sự khác nhau căn bản giữa phương pháp của Đảng Cộng
sản so với các đảng tư sản chính là việc tập hợp quần chúng nhân dân nhằm thực hiện
những công việc vì chính bản thân quần chúng, là “lấy tài dân, sức dân để làm những
công việc có lợi cho dân”, chứ không phải vì lợi ích của người lãnh đạo, Đảng không
có mục đích tự thân, “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi
ích gì khác”.
Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với dân; Đảng phải tổ chức và vận
động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Mỗi đảng viên phải bằng hành động thực tế

của mình để có niềm tin yêu của nhân dân, chứ không phải "dán lên trán hai chữ cộng
sản" là được dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục". Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần
nhấn mạnh: "Đảng phải gần dân, tin dân, trọng dân, học dân để lãnh đạo dân" vì “dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng chính là vì độc lập và tự do của dân tộc, hạnh
phúc và dân chủ của nhân dân. Trên ý nghĩa đó, sự lãnh đạo của Đảng đồng nghĩa là
"đầy tớ" của nhân dân. Trong Di chúc, Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân”… Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau,
không đối lập nhau. Người nhấn mạnh: Lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ. Đảng cầm
quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ của dân, chứ không phải người
chủ của nhân dân, tự cho phép mình đứng trên dân, trên Nhà nước, trên pháp luật.
Để giải quyết tốt mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân thì mọi chủ trương,
nghị quyết của Đảng đều phải xuất phát vì lợi ích của dân, của toàn dân tộc. Bác dạy
rằng: “Các quyết định, chủ trương được thông qua phải lấy lợi ích của đa số nhân dân
làm mục đích; các chính sách được ban hành phải có mục tiêu vì dân; các biện pháp
13
thực hiện phải dựa vào sức dân và mang lợi ích cho dân Điều quan trọng là mọi
hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm gốc”.
Người cũng lưu ý: người lãnh đạo phải biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của
nhân dân, nhưng tuyệt đối không được theo đuôi quần chúng. Do đó, Đảng phải xây
dựng mình thành một tổ chức chính trị gắn bó máu thịt với nhân dân. “Việc gì lợi cho
dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu
dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.
Từ khi Đảng ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn bó máu thịt với
nhân dân, Đảng đã được nhân dân thừa nhận là Đảng duy nhất có vai trò lãnh đạo
cách mạng Việt Nam và trong suốt tiến trình đi lên của cách mạng Việt Nam, Đảng ta
hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Năm 1960, Người nói: “Với tất cả sự khiêm
tốn của một người cộng sản, chúng ta có thể tự hào rằng, Đảng ta vĩ đại thật”.
6. Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng và tự chỉnh đốn, tự đổi mới

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, đồng thời, để xứng đáng với một Đảng
mácxít chân chính lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của giai cấp và dân tộc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Người không coi chỉnh đốn Đảng là biện pháp tình thế mà là nhiệm vụ tất yếu,
thường xuyên để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, là sự vận động trong quá trình
phát triển nhưng phải đặc biệt chú ý khi hoàn thành từng chặng đường, từng nhiệm vụ
và buớc sang một chặng đường, nhiệm vụ mới. Bác nhấn mạnh: chỉnh đốn đảng là
công việc rất hệ trọng, liên quan đến toàn bộ xã hội. Vì vậy, phải làm từng bước, phải
có trọng tâm; chỉnh huấn về mặt tư tưởng phải gắn với chỉnh đốn về tổ chức; chỉnh
đốn đảng không phải là ''chỉnh'' và “đốn”, mà làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thực
hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình.
Khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng thái độ bình tĩnh, sáng
suốt, kiên định lập trường, không để rơi vào tình trạng dao động, bi quan; khi cách
mạng trên đà thắng lợi, chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự
mãn, lạc quan tếu.
Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi việc xây
dựng đảng, chỉnh đốn Đảng vừa là vấn đề thường xuyên, vừa hết sức cấp bách. Trong
Di chúc viết tháng 5 - 1968 thì điều Người quan tâm trước hết cũng là “nói về Đảng”,
Người nhắc nhở: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn Đảng, làm cho mỗi đảng
14
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho
mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
Bác luôn đề cao vai trò của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng bởi vì bên
cạnh số đông đảng viên mẫu mực thì vẫn còn một bộ phận đảng viên chưa thật sự
trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, thậm chí có không ít đảng viên xa cách nhân dân,
có đầu óc làm quan cách mạng, không còn xứng đáng danh hiệu người cộng sản.
Người nhìn thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lực có sức mạnh rất
to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, nếu biết sử dụng đúng quyền lực. Mặt khác, nó cũng có sức phá hoại rất ghê gớm
vì con người nắm quyền lực có thể thoái hóa, biến chất rất nhanh chóng, nếu đi vào

con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực…
Chính vì vậy, Người cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm
qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”.
Theo Hồ Chí Minh, "xây dựng" và "chỉnh đốn" là hai vấn đề có mối quan hệ
biện chứng. Phải trên cơ sở xây dựng mà chỉnh đốn, chỉnh đốn cũng nhằm mục tiêu
xây dựng Đảng vững mạnh hơn, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng
nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Người
nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên ta phải là một chiến sĩ tích cực gương mẫu, xứng đáng
với lòng tin cậy của Đảng và của nhân dân. Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân vững
chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước nhà.
Cán bộ, đảng viên là những người luôn luôn giác ngộ cách mạng, trung thành
với lý tưởng của Đảng, đi tiên phong trong phong trào cách mạng. Bởi vậy, trong suốt
quá trình lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên
các cấp của Đảng, Chính phủ và đoàn thể phải chỉnh đốn tác phong công tác và lề lối
làm việc "Phải sửa đổi lề lối làm việc cho thiết thực, để giải quyết công việc cho tốt,
cho nhanh". Trong bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Người đã
nhấn mạnh: “Các đồng chí đều là cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan
trọng. Công việc thành hay là bại một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và
lề lối làm việc của các đồng chí”.
Để sửa đổi lề lối làm việc, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi việc bất kỳ to, nhỏ, phải
có kế hoạch, phải bàn bạc kỹ, phải giải thích cho dân hiểu rõ, sao cho dân vui vẻ thi
15
đua làm, hết sức tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Người chỉ rõ: “Cần phải gắn chặt
công việc với tư tưởng và lề lối làm việc, vì mỗi công việc thành hay bại đều do tư
tưởng và lề lối làm việc đúng hay sai.
Tự đổi mới, tự chỉnh đốn vốn là một nhu cầu tự thân, gắn liền với toàn bộ quá
trình xây dựng và hoạt động của Đảng. Thực hiện tốt việc làm này sẽ làm cho Đảng
ta vững vàng hơn về bản lĩnh chính trị, giàu có hơn về trí tuệ lãnh đạo, trong sáng hơn

về phẩm chất đạo đức cách mạng để đủ sức vượt qua những khó khăn, thách thức lớn
đang đặt ra.
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ, vận hội mới song cũng đứng trước không
ít nguy cơ thách thức, đòi hỏi vai trò lãnh đạo của Đảng phải không ngừng được tăng
cường. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhằm làm cho Đảng ta xứng đáng "là đạo đức,
là văn minh" như Hồ Chí Minh đã khẳng định.
Văn minh thể hiện ở trí tuệ của Đảng đủ sức nắm bắt quy luật khách quan, xu
thế phát triển của thời cuộc để hoạch định được đường lối đúng đắn lãnh đạo toàn dân
thực hiện.
Đạo đức thể hiện ở vai trò tiền phong gương mẫu, nói đi đôi với làm, chống
chủ nghĩa cá nhân, thật sự trong sạch về lối sống.
16

×