Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.55 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam điều chỉnh các quan hệ pháp luật hôn nhân
và gia đình nhằm mục đích xây dựng, củng cố và bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình mới
phù hợp với yêu cầu cách mạng. Để thể hiện quan điểm pháp luật của Đảng và Nhà
nước ta đối với nhiệm vụ và chức năng của mỗi thành viên trong gia đình, các cơ quan
hữu quan trong việc thực hiện chế độ hôn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa, Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản của Luật được quy
định tại Điều 2. Kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 xác định nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em là một nguyên
tắc độc lập. Khoản 6 Điều 2 quy định: “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm
bảo vệ phụ nữ và trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người
mẹ”. Nguyên tắc này được thể hiện rõ nét qua chế định ly hôn trong Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000.
NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung về nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em
1. Khái niệm nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em
a, Định nghĩa “nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ”
Nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán
triệt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp Luật HN&GĐ. Những nguyên tắc cơ bản của
chế độ hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2000.
Có thể khái quát lại những nguyên tắc được ghi nhận trong Luật HN&GĐ Việt
Nam là:
- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Một vợ một chồng;
- Bình đẳng vợ chồng, bình đẳng nam nữ, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, quốc
tịch…
- Bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và các con;
- Bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
b, Khái niệm nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em
Như vậy có thể thấy, nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em là một trong năm
nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ


Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định nguyên tắc này là một nguyên tắc cơ bản
xuyên suốt trong các chương, các điều khoản của Luật HN&GĐ. Đặc biệt được nhấn
mạnh tại khoản 6 Điều 2: “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ
và trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ”.
1
Có thể hiểu một cách khái quát rằng bảo vệ bà mẹ là bảo vệ quyền làm mẹ của
người phụ nữ như quyền sinh con; quyền chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con cái; bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp về nhân thân cũng như tài sản của người phụ nữ…
Trẻ em theo quy định của Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 là
tất cả công dân dưới 16 tuổi. Theo đó, bảo vệ trẻ em là bảo vệ quyền của trẻ em trong
các vấn đề như xác định quan hệ giữa cha mẹ và con cái; bảo vệ quyền được sống
trong gia đình của trẻ em; bảo vệ quyền được giám hộ của trẻ em… Mục đích của việc
bảo vệ là để chăm sóc, nuôi dưỡng đặc biệt là những trẻ em mồ côi không nơi nương
tựa và tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em.
2. Khái quát nội dung nguyên tắc trong chế định ly hôn
Trong chế định ly hôn, nguyên tắc bảo vệ bà mẹ trẻ em đã được thể hiện rõ nét
thông qua những quy định cụ thể. Xuất phát từ nguyên tắc này, để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người vợ và con chưa thành niên, phụ nữ có thai và thai nhi, tại Điều
85 Luật HN&GĐ quy định: “Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới
mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn”. Cũng theo quy định
này thì trường hợp hạn chế yêu cầu ly hôn chỉ áp dụng với người chồng mà không áp
dụng đối với người vợ. Bên cạnh đó, nhằm bảo vệ sự phát triển toàn diện của trẻ em,
pháp Luật HN&GĐ cũng quy định: “Sau khi ly hôn, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông
nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên…” (khoản 1 Điều 92 Luật
HN&GĐ năm 2000). Cũng tại điều này, Luật còn quy định việc giao con cho một bên
trực tiếp nuôi con phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt nếu con đủ
từ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Mặt khác, cũng theo quy
định tại khoản 2 Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000, về nguyên tắc, con dưới 3 tuổi do
cần có sự chăm sóc từ phía người mẹ hơn, nên được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi,
nếu các bên không có thỏa thuận khác. Ngoài ra, các quy định khác nhằm giải quyết

các hậu quả pháp lý mà vấn đề ly hôn đem lại cũng đã phần nào dựa trên cơ sở của
nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Những quy định này luôn quan tâm bảo vệ đến
quyền và lợi ích của người vợ và các con chưa thành niên trong các vấn đề như: vấn đề
cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn (Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2000) hay
vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp ly hôn (Điều 95 Luật
HN&GĐ năm 2000), v.v…
Tóm lại, các điều khoản trong chế định ly hôn đã thể hiện sâu sắc tính nhân văn
và tiến bộ trong tư tưởng cũng như bản chất nội dung pháp luật nước ta nói chung và
pháp luật về hôn nhân gia đình nói riêng. Quyền lợi của bà mẹ và trẻ em - những người
yếu đuối hơn - được pháp luật tôn trọng, đề cao và bảo vệ chặt chẽ.
2
3. Tính cần thiết tất yếu của việc ghi nhận nguyên tắc trong luật hôn nhân gia
đình
Lịch sử đã chứng minh rằng, phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay đã có vai trò vô
cùng quan trọng và không thể thiếu được trong gia đình cũng như xã hội. Người phụ
nữ là người chăm sóc, giáo dục con cái chủ yếu trong gia đình, sắp xếp, tổ chức cuộc
sống gia đình… Trẻ em là tương lai của đất nước. Bảo vệ trẻ em là bảo vệ quyền con
người, là trách nhiệm của gia đình và toàn xã hội. Việc đầu tư cho công tác bảo vệ trẻ
em là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa
dân tộc góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Do vậy, trẻ em phải được
quan tâm, chăm sóc, bảo vệ cả về thể chất, trí tuệ và đạo đức để nối tiếp sự nghiệp cha
ông.
Qua đó, ta thấy phụ nữ và trẻ em có vai trò to lớn trong cuộc sống gia đình và xã
hội. Nhưng những tàn dư của chế độ phong kiến, sự ảnh hưởng trực tiếp của tư tưởng
Nho giáo mà hiện nay quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em chưa thật sự được quan
tâm và bảo vệ. Vì vậy, một đòi hỏi tất yếu khách quan của mỗi quốc gia trong đó có
Việt Nam là phải bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em. Như một nhà lí luận đã
từng nói: “Việc ghi nhận nguyên tắc sẽ là cơ sở vững chắc cho việc xóa bỏ tận gốc rễ
những tàn dư còn lại của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến đồng thời chống lại
ảnh hưởng tiêu cực của hôn nhân và gia đình tư sản để củng cố chế độ hôn nhân và gia

đình xã hội chủ nghĩa, hạn chế những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường
với quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.”
Bên cạnh đó, có thể thấy bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em là vấn đề không
chỉ đơn thuần mang ý nghĩa đạo lý, là truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam,
mà còn là vấn đề có tính nguyên tắc mang tính toàn cầu. Nguyên tắc này được thế giới
công nhận và bảo vệ, thể hiện trong Công ước quốc tế về trẻ em, Công ước Cedaw về
xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và được nội luật hóa trong
nhiều đạo luật quan trọng của Việt Nam như: Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình
sự, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em… Vì vậy việc ghi nhận nguyên tắc này
thông qua một loạt các quy định liên quan đến quyền bình đẳng vợ chồng, các quan hệ
về nhân thân và tài sản, quyền bình đẳng giữa các con trong gia đình, quyền thừa kế
của con đã thành thai, việc hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng trong trường hợp
vợ đang có thai, quy định về trách nhiệm của vợ chồng trong việc trông nom, chăm
sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn, việc giao con dưới 3 tuổi cho người mẹ
trực tiếp nuôi giữ khi vợ chồng ly hôn, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
3
vợ, con chưa thành niên trong việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn trong Luật
HN&GĐ là vô cùng cần thiết và phù hợp…
Chính vì lẽ đó, việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được ghi nhận thành một nguyên tắc
trong Luật HN&GĐ Việt Nam là điều tất yếu.
II. Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em thể hiện qua chế định ly hôn trong các
văn bản pháp luật từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước năm 2000.
Chế độ hôn nhân ở nước ta thời phong kiến rất hạn chế quyền lợi của người phụ
nữ. Chẳng hạn như cho phép đàn ông lấy nhiều vợ và thiếp trong khi phụ nữ chỉ được
lấy một chồng,…kể từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945, sau khi được xác lập là một
nước dân chủ cộng hòa, chế độ hôn nhân của nước ta mở rộng hơn về vấn đề đảm bảo
quyền lợi của người phụ nữ trong hôn nhân đặc biệt là khi ly hôn. Sắc lệnh 159/SL
ngày 17/11/1950 của chủ tịch nước ấn định các điều khoản về ly hôn. Trong đó nhà
nước đã ghi nhận một nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, phụ nữ có thai và thai nhi
thông qua chế định ly hôn như sau : “ Nếu người vợ có thai thì người vợ có thể xin tòa

án hoãn đến kỳ sinh nở mới xử lý ly hôn ” ( Điều 5). Tuy nhiên, về mặt pháp lý quyết
định này chưa thực sự chặt chẽ để bảo vệ bà mẹ và thai nhi vì ở đây mới chỉ nói có thể
xin hoãn chứ không phải hoãn, do vậy vợ hay chồng vẫn có thể kiện ly hôn. Mặt khác,
quy định hạn chế đến kỳ sinh nở là không phù hợp vì lúc này người vợ chưa thực sự
phục hồi sức khỏe sau kỳ sinh đẻ. Luật HN&GĐ năm 1959 – đạo luật đầu tiên về hôn
nhân và gia đình được Quốc Hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Khóa thứ I, kỳ họp
thứ 11 thông qua ngày 29/12/1959 đã ghi nhận một nguyên tắc chung“ Nhà nước đảm
bảo thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình
đẳng, bảo vệ quyền lợi cú phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc,
dân chủ hòa thuận trong đó mọi người đoàn kết, yêu thương nhau, giúp đỡ nhau tiến
bộ”. Và để đảm bảo nguyên tắc này trong chế định ly hôn, trên cơ sở Điều 5 của sắc
lệnh 159/SL Luật HN&GĐ 1959 cũng đã đề ra điều kiện hạn chế ly hôn của người
chồng tại Điều 27 như sau: “Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn
sau khi vợ đã sinh đẻ được một năm. Điều kiện hạn chế này không áp dụng việc xin ly
hôn của người vợ”
Ở đây, nhà làm luật đã gắn trách nhiệm của người chồng đối với người vợ đang
mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ. Đây cũng là cơ sở để giúp các bà mẹ thực hiện tốt
chức năng tái suất- sinh con của mình, giúp họ thực hiện thiên chức của một người mẹ
và đảm bảo cho sự ra đời của đứa trẻ. Về điều kiện hạn chế ly hôn này thì Luật
HN&GĐ 1986 cũng đã khẳng định lại một lần nữa tại Điều 41 như sau: “Trong trường
hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm. Điều
4
hạn chế ly hôn này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ”. Như vậy, ở
đây Nhà nước không chỉ đảm bảo quyền lợi của bà mẹ và trẻ em về điều kiện hạn chế
ly hôn của người chồng mà thông qua chế độ phân chia tài sản trong ly hôn, quyền lợi
của người phụ nữ cũng được bảo đảm. Về vấn đề này, ngay từ khi ra đời, Luật
HN&GĐ năm 1959 đã quy định : “ Khi ly hôn, việc chia tài sản sẽ căn cứ vào sự đóng
góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình.
Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất.
Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con cái và lợi ích của việc sản xuất.”

(Điều 29)
Như vậy, về nguyên tắc phân chia tài sản để đảm bảo về kinh tế cho người phụ
nữ mới sinh nhà nước ta luôn đặt trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi ly
hôn. Đây là quyền lợi và người phụ nữ có quyền được hưởng và hơn hết điều đó đảm
bảo thuận lợi cho việc nuôi dưỡng đứa trẻ mới sinh của người phụ nữ bởi về nguyên
tắc con còn bú phải do người mẹ phụ trách. Khi giải quyết ly hôn tòa án phải xem xét
sao cho việc chia tài sản phải được đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên đồng
thời quan tâm đúng mức tới quyền của người vợ và các con chưa thành niên bởi sau
khi ly hôn người vợ và các con thường là những người gặp khó khăn hơn về kinh tế
cũng như về mặt tình cảm. Vì vậy vấn đề bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của
người phụ nữ và các con được quan tâm và đặt lên hàng đầu.
Bởi vậy, trên cơ sở kế thừa và phát huy Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ
năm 1986 đã quy định tại điểm d – Điều 43 như sau:“ Khi chia tài sản phải bảo vệ
quyền lợi của người vợ và các con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản
xuất và nghề nghiệp”. Hơn nữa theo Nghị quyết số 01/NQ – HĐTP ngày 20/1/1988
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 cũng có quy định : “
Khi chia tài sản phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và co cái chưa thành niên đồng
thời phải bảo vệ lợi ích của sản xuất và lợi ích về nghề nghiệp của mỗi bên ”. Quy định
này nhằm đảm bảo cho cuộc sống của người vợ và con nhỏ được đầy đủ vầ vật chất
cũng như tạo điều kiện về kinh tế để bà mẹ nuôi con một cách tốt nhất và cũng nhằm
giúp đứa trẻ được sống đầy đủ và phát triển toàn diện về thể chất.
Về nghĩa vụ trông nom con cái, về nguyên tắc con phải do người mẹ phụ trách:
“Khi ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phải
căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Về nguyên tắc, con còn bú được giao cho
người mẹ nuôi giữ.”( Điều 45 Luật HN&GĐ 1986). Đây cũng là một quy định nhẵm
đảm bảo quyền lợi cho người mẹ để họ thực hiên thiên chức của mình đối với đứa trẻ.
Hơn nữa, sau khi ly hôn nếu như người phụ nữ có quyền yêu cầu được cấp dưỡng từ
5

×