Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.92 KB, 20 trang )

Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng
LỜI MỞ ĐẦU
Thừa kế và di sản thừa kế là vấn đề mang tính kinh tế, mang tính xã hội
truyền thống nhưng cũng là vấn đề phức tạp về mặt pháp lý. Trong cuộc sống, con
người có nhiều mối quan hệ với gia đình, với bạn bè, với công việc, … Từ đó cũng
nảy sinh các tình cảm khác nhau với từng đối tượng cụ thể. Khi chết, theo ý chí của
mình, họ có quyền định đoạt tài sản của mình thông qua di chúc. Di sản họ để lại có
thể dành cho người thân ruột thịt như cha mẹ, con cái, hay họ cũng có thể để một
phần di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng. Vấn đề di sản thừa kế dùng vào việc
thờ cúng và di tặng khá phổ biến trong cộng đồng người Việt. Vì vậy, em xin lựa
chọn đề tài “ Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng” để thực hiện
bài viết của mình.
NỘI DUNG
I. DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG.
1. Hiểu sơ lược về Di sản dùng vào việc thờ cúng.
Hiểu một cách tổng quát thì: “Thờ cúng là việc thực hiện một lễ nghi nhất
định để tôn kính thần thánh, vật thiêng hoặc linh hồn người chết”.
Về mặt ngữ nghĩa thì thờ cúng là sự cúng bái theo phong tục hoặc tín ngưỡng
đối với tổ tiên, thần thánh và những người đã khuất. Thờ cúng là phong tục của
người Việt Nam đã có từ rất xa xưa và hiện nay vẫn được coi trọng.
Đa số người dân Việt Nam là thờ cúng tổ tiên, cũng có những người thờ
cúng cả thần thánh (chẳng hạn những người theo Đạo Phật,…), thờ cúng những
người đã khuất (như các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì Tổ quốc…). Phần lớn người
dân thờ cúng tổ tiên vì việc này được thực hiện trên cơ sở của quan niệm mang tính
chất đạo đức và văn hóa – quan niệm này gần gũi và thực tế với cuộc sống của
người dân hơn: Tôn trọng và biết ơn công sinh thành, dưỡng dục; con người có
Trang 1
Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng
nguồn cội, tổ tông, vì vậy con cháu phải tôn trọng và biết ơn những thế hệ trước
mình.
Theo các ý nghĩa trên thì di sản dùng vào việc thờ cúng có ý nghĩa cả về mặt


vật chất và cả về mặt tinh thần mà tục lệ gọi là “hương hỏa”.
Xét về phương diện đạo đức và xã hội thì cơ sở để pháp luật thừa kế quy
định về di sản thờ cúng là sự biết ơn sinh thành, dưỡng dục, là sự tưởng nhớ đến
công lao của ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Sự hiện diện và thành đạt của họ là kết quả
tích lũy, đúc kết của những người đã chết, “phúc hiền tại mạo, trằng gạo ngon
cơm”. Vì thế, người còn sống thể hiện lòng biết ơn, tôn kính qua việc chăm sóc
phần mộ, thực hiện cúng giỗ theo nghi thức, phong tục, tín ngưỡng đối với người
đã chết. Ngày giỗ có những đồ mã, có những nén hương, có đồ ăn thức uống để
tưởng niệm, để gợi nhớ tình cảm. Thực hiện những công việc đó, người tổ chức lẽ
giỗ phải dùng một “khoản”, “khoản” này được trích từ khối di sản mà người chết
để lại cùng với hoa lợi thu được từ phần di sản này dùng vào việc thờ cúng, chăm
sóc mồ mả và tu sửa nhà thờ.
Từ nội dung này, đã rất nhiều người đồng ý với nhận xét của TS. Nguyễn
Ngọc Điện: “ Di sản thờ cúng được lập, quản lý, được dịch chuyển như một khối tài
sản vừa không có chủ sở hữu, vừa thuộc về tất cả những người có quyền và lợi ích
liên quan đến thờ cúng”.
Qua phân tích trên, rút ra được: Di sản thờ cúng là phần tài sản của người
chết để lại, được trích từ khối di sản thừa kế, nhằm dịch chuyển cho người quản lý
di sản dùng vào việc thờ cúng.
2. Vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng dưới các chế độ có sự khác biệt
nhất định.
Trang 2
Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng
Trong thờ cúng tổ tiên, di sản thờ cúng có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì vậy,
đối với di sản thờ ngoài những quy ước rất chặt chẽ của gia đình, dòng họ, thì Nhà
nước cũng có những quy định pháp luật cụ thể để công nhận và bảo vệ quyền của
cá nhân được để lại di sản dùng vào việc thờ cúng.
2.1 Dưới chế độ thực dân - phong kiến.
Di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật thời thực dân –
phong kiến “là phần động sản hay bất động sản trong gia tài dùng vào việc cúng

giỗ một người vợ hay chồng người ấy và việc cúng giỗ tổ tiên bên nội người ấy”.
Phần tài sản dùng vào việc thờ cúng được quy định ở Điều 399 Bộ dân luật
Bắc Kỳ 1931, Điều 406 Bộ dân luật Trung Kỳ 1936 như sau: “Phần gia tài lập
thành hương hỏa trong mọi trường hợp, dù số thừa kế là bao nhiêu nữa cũng không
thể quá 1/5 giá trị của cải của người lập hương hỏa”.
Thông thường di sản dùng vào việc thờ cúng được chuyển giao cho người
nối dõi hay được coi như nối dõi người đã chết để sử dụng thu hoa lợi dùng vào
việc thờ cúng cho người để lại hương hỏa và những người theo quan hệ huyết tộc
của người đó. Nghĩa vụ của người ăn hương hỏa được quy định hết sức rõ ràng tại
Điều 428 Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 và Điều 437 Bộ dân luật Trung kỳ 1936:
“Người ăn hương hỏa có nghĩa vụ phải canh tác ruộng đất và trong thời kỳ hương
hỏa phải chịu tất cả các thứ thuế và các nghĩa vụ bất động sản trong phạm vi hoa
lợi của hương hỏa”. Ngoài ra người ăn hương hỏa phải sửa sang những hư hỏng
thông thường của hương hỏa.
Đối với việc thờ cúng: “Người ăn hương hỏa dùng hoa lợi của hương hỏa và
trong phạm vi của hoa lợi ấy phải lo việc thờ cúng và sửa sang phần mộ. Người ấy
có thể dùng một phần hương hỏa để chi dùng cho riêng mình” ( Điều 428, 429).
Nếu trong chứng thư hương hỏa có nói rõ những ngày để cúng giỗ, mỗi lần đó dùng
lễ vật gì thì người ăn hương hỏa phải theo đúng như vậy. Chẳng hạn ngày giỗ, ngày
Trang 3
Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng
Tết, ngày mùng một, ngày rằm hàng tháng, ngày Tết Nguyên tiêu, ngày thanh
minh, ngày sửa sang phần mộ, nếu có từ đường phải tổ chức cúng giỗ ngay tại từ
đường. Trong trường hợp người ăn hương hỏa bỏ không cúng giỗ, sao nhãng
hương đèn, không quản lí trông coi di sản hương hỏa, không chấp hành đúng các
nghi thức lễ giỗ thì có thể bị truất quyền (không được hưởng hương hỏa nữa). Sự
truất quyền này sẽ do hội đồng gia tộc quyết định phải được Tòa duyệt.
Tuy nhiên, di sản dùng vào việc thờ cúng có thể không trường tồn ngoài ý
muốn của cá nhân do bị tiêu hủy hoặc người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng
tuyệt tự hay di sản đó bị trưng dụng do hội đồng gia tộc quyết định hoặc theo quy

định của pháp luật. Luật pháp của chế độ thực dân – phong kiến còn quy định trong
trường hợp một người vì không có con, cháu hoặc không có con trai thì việc thờ
cúng đó vẫn được thực hiện theo một trong hai hình thức xác lập, chuyển giao
ruộng đất dùng vào việc thờ cúng người đó sau khi qua đời được gọi là “hậu điền”
và “kỵ điền”.
Hậu điền và kỵ điền khác nhau về căn cứ xác lập và đều khác hương hỏa,
mặc dù chúng đều được dùng vào một mục đích là thờ cúng người đã chết và tổ
tiên người đó,… Nếu người hưởng hương hỏa là con trai, cháu trai của người để lại
hương hỏa thì đố với người được chuyển giao hậu điền hay kỵ điền lại là người có
thể thuộc dòng họ bên nội hoặc chỉ là người cùng làng (thôn) của người đó.
- Đối với hậu điền: Trong trường hợp một người vì không có con, cháu khi
còn sống đã hiến ruộng đất cho dòng họ hoặc cho làng (thôn) để làm việc công ích
( cho dòng họ hoặc cả làng) với mục đích khi người hiến ruộng đất chết thì dòng họ
hoặc làng sẽ cúng giỗ người này. Hình thức xác lập và chuyển giao tài sản dùng
vào việc thờ cúng trong trường hợp này được gọi là “hậu điền”.
- Đối với kỵ điền: Tài sản dùng vào việc thờ cúng còn được hình thành khi
một người do không có con trai thì con gái mua ruộng để hiến cho dòng họ của bố
Trang 4
Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng
hoặc cho làng (thôn) với mục đích dòng họ hoặc làng có nghĩa vụ cúng giỗ cho cha,
mẹ của người con gái đã hiến ruộng đó.
Như vậy, hậu điền là ruộng đất thuộc di sản của người chết để lại, còn kỵ
điền không là ruộng đất thuộc di sản của người chết mà là tài sản của người con gái
(do cha mẹ không có con trai) đã hiến cho dòng họ của bố hoặc cho làng để lo thực
hiện việc cúng giỗ cho cha mẹ của người con gái đó.
Qua những phân tích trên đây có thể thấy di sản dùng vào việc thờ cúng có vị
trí độc lập so với các di sản khác trong khối di sản mà người chết để lại.
2.2 Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ của công
dân được pháp luật cho phép. Pháp luật còn quy định về việc để lại di sản dùng vào

việc thờ cúng và phương thức giải quyết trong các mối quan hệ khác.
Từ Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/05/1950 cho đến trước ngày TAND tối cao
ban hành Thông tư số 81, ở nước ta không có một văn bản pháp luật nào quy định
về di sản thờ cúng. Trong Thông tư số 81 chỉ hướng dẫn giải quyết tranh chấp nhà
thờ họ mà chưa đề cập đến những vấn đề cụ thể của di sản thờ cúng. Thông tư số
81 đã hướng dẫn giải quyết tranh chấp về nhà thờ họ như sau: Nhà thờ họ có từ lâu
đời hoặc nhà thờ do các thành viên trong họ đóng góp công sức và tiền của để xây
dựng nên là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của những người trong họ. Trong
trường hợp trưởng họ xây dựng nhà thờ bằng tài sản của mình thì khi người trưởng
họ chết, nhà thờ này là di sản thừa kế của trưởng họ.
Pháp lệnh thừa kế được ban hành thì di sản thờ cúng được quy định cụ thể
hơn tại Điều 21 Pháp lệnh thừa kế: Nếu người lập di chúc có để lại di sản dùng vào
việc thờ cúng thì di sản đó được coi như di sản chưa chia. Khi việc thờ cúng không
được thực hiện theo di chúc thì những người thừa kế của người để lại di sản dùng
Trang 5
Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng
vào việc thờ cúng có quyền hưởng di sản, nếu những người thừa kế đó đều đã chết
thì di sản đó thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người
thừa kế theo pháp luật. Nội dung của quy định này được hiểu là vào thời điểm mở
thừa kế thì di sản thờ cúng là di sản chưa chia, nhưng nó sẽ được chia khi việc thờ
cúng không được thực hiện theo di chúc của người quá cố. Quy định này không
quy định rõ phần mà người lập di chúc dành ra để dùng vào việc thờ cúng. Như
vậy, họ có thể để lại toàn bộ di sản dùng vào việc thờ cúng mà không bị coi đó là
hành vi định đoạt tài sản vượt quá phần mà pháp luật cho phép.
Người đang quản lý di sản thờ cúng có quyền quản lý di sản thờ cúng và
hưởng dụng mà không có quyền sở hữu, do đó không có quyền định đoạt di sản thờ
cúng dưới bất kỳ hình thức nào.
Khi Bộ luật dân sự (BLDS) được ban hành, di sản thờ cúng được quy định
tại Điều 670 (BLDS năm 2005). So với Điều 21 của Pháp lệnh thừa kế thì Điều 670
có sự thay đổi đáng kể, thể hiện rõ nét hơn truyền thống của dân tộc và tính chất

của di sản thờ cúng. Điều 670 BLDS năm 2005 quy định:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào
việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một
người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ
cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì
phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong
số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
Trang 6
Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán
toàn bộ nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng
vào việc thờ cúng.”
Theo khoản 1 Điều 670 BLDS năm 2005, người quản lý di sản dùng vào việc
thờ cúng dựa trên một trong hai căn cứ: Theo ý chí của người lập di chúc hoặc do
những người thừa kế chỉ định. Việc xác định người đang quản lý di sản dùng vào
việc thờ cúng thuộc hay không thuộc diện những người thừa kế theo pháp luật có ý
nghĩa pháp lý trong việc hưởng di sản khi “tất cả những người thừa kế theo di chúc
đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp
di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.
Theo quy định trên, di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc quyền sở hữu của
người đang quản lý hợp pháp với hai điều kiện:
+ Những người thừa kế theo di chúc đều đã chết;
+ Người đang quản lý di sản dùng để thờ cúng phải là người thuộc diện thừa
kế theo luật của người để lại di sản. Quy định này nhằm bảo đảm tính truyền thống
và có sự kế thừa bản sắc dân tộc trong việc bảo tồn những di sản của cha, ông cho

con, cháu nội tộc theo quan hệ huyết thống sâu sắc: Đích tử, đích tôn, đồng tông,
đồng tính, theo tôn ti, theo thế tứ. Đồng thời quy định trên cũng nhằm bảo vệ lợi
ích chính đáng của con, cháu người để lại di sản nhằm loại trừ khả năng di sản
dùng vào việc thờ cúng thuộc về người khác, ngoài những người trong diện thừa kế
theo pháp luật của người để lại di sản.
Người đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng không có quan hệ huyết
thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản, không thuộc
diện những người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản, khi tất cả những
người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì di sản thờ cúng không thuộc quyền sở
hữu của người này. Trường hợp này, di sản thờ cúng phải chuyển giao cho những
Trang 7
Một số vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng
người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Những người thừa kế theo
pháp luật của người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng cùng thỏa thuận chỉ định
người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng.
Cho dù người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng có là ai thì đều không
được sử dụng vào mục đích riêng của mình.
Theo khoản 2 Điều 670 BLDS năm 2005 thì có thể hiểu di sản dùng vào thờ
cúng là một phần của di sản thừa kế sau khi thanh toán xong các khoản nợ liên
quan đến di sản. Di sản thờ cúng nằm trong mối liên hệ với di sản thừa kế, là một
phần của khối di sản do người chết để lại, nhưng phần di sản này không được áp
dụng chia theo di chúc hay theo pháp luật như di sản thường. Di sản thờ cúng
không được chia thừa kế và không thuộc về người thừa kế nào. Di sản thờ cúng chỉ
phải mang ra thanh toán các nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại khi toàn bộ di
sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ về tài sản của người chết. Trong khi đó, di sản
để chia thừa kế chỉ được xác định sau khi đã thanh toán xong các nghĩa vụ tài sản
và các chi phí liên quan đến di sản (tiền mai táng, tiền quản lý di sản). Nếu nghĩa
vụ tài sản của người chết để lại lớn hơn toàn bộ nghĩa vụ người chết để lại, phần
còn thiếu sẽ lấy từ di sản thờ cúng. Di sản thờ cúng là phần còn lại sau khi đã trừ đi
phần thiếu đó. Nếu toàn bộ di sản của người chết để lại không đủ để thanh toán

nghĩa vụ thì không lập được di sản thờ cúng.
Di sản thờ cúng có thể bị giảm bớt trong các trường hợp sau:
Trường hợp 1 : Người lập di chúc định đoạt toàn bộ tài sản của họ dùng
vào việc thờ cúng. Giả định có người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc thì theo nguyên tắc quyền của những người này vẫn được pháp luật đảm bảo.
Vì người mà theo quy định tại Điều 669 BLDS năm 2005 được đảm bảo hưởng kỷ
phần 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp toàn bộ di sản
được chia theo pháp luật, chứ không phải chia trên phần di sản còn lại sau khi đã
Trang 8

×