Bài tập lớn Dân sự
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu…………………………………………………………2
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM………………………………………...3
1. Khái niệm di chúc………………………………………......3
2. Khái niệm di sản……………………………………………3
3. Di sản dùng cho việc thờ cúng…………………………......5
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN…………………………………5
1. Di sản dùng vào việc thờ cúng không thể bị chuyển
nhượng ………………………………………………….......6
2. Di sản dùng vào việc thờ cúng không thể bị kê biên….......8
3. Việc quản lí di sản dùng vào việc thờ cúng………………..9
4. Chấm dứt việc dùng một phần di sản vào việc thờ
cúng…………………………………………………….........11
III. THựC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ SI SẢN THỜ CÚNG ÁP DỤNG ĐIỀU 670
BLDS HIỆN NAY………………………………..........................12
1. Khái quát những trường hợp thường gặp trong tranh chấp di sản thờ
cúng…………………………………………………………12
2. Ví dụ về một vụ án tranh chấp di sản thờ cúng cụ thể….14
Kết luận…………………………………………………….17
Dương Thị Nguyệt Khuê Page 1
Bài tập lớn Dân sự
LỜI MỞ ĐẦU
Di sản dùng vào việc thờ cúng là loại di sản được hình thành từ ý nguyện
của người lập di chúc với những mục đích thể hiện truyền thống, đạo đức cao đẹp
của con người Việt Nam. Nhằm đảm bảo quyền thừa kế di sản dùng vào việc thờ
cúng của người lập di chúc thì pháp luật đã có những quy định điều chỉnh, ngoài ra
đó còn là cơ sở để giải quyết các tranh chấp xảy ra về các vấn đề này. Và những
quy định của pháp luật để điều chỉnh về vấn đề này có phù hợp, kịp thời và cụ thể
hay không? Trong bài tập cuối kì này em xin đề cập tới một số vấn đề về di sản
dùng vào việc thờ cúng: Những quy định của pháp luật, những vấn đề lí luận, so
sánh giữa di sản dùng vào việc thờ cúng và di sản tặng để thấy rõ sự khác biệt và
những vấn đề thực tiễn áp dụng những quy định này của các Tòa án trong hoạt
động xét xử.
Đề bài: “Di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định tại Điều 670 BLDS - Một số
vấn đề lí luận và thực tiễn”
Dương Thị Nguyệt Khuê Page 2
Bài tập lớn Dân sự
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Khái niệm di chúc
Theo Điều 646 BLDS 2005 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Như vậy, theo quy định này, di chúc trước hết phải là sự thể hiện ý chí của
cá nhân, đây là ý chí mạng tính đơn phương của người lập di chúc. Tuy nhiên, theo
quy định của pháp luật thì vợ chồng có quyền lập di chúc chung để định đoạt tài
sản chung (Điều 663, BLDS 2005). Trường hợp này xuất hiện ý chí của cả vợ và
chồng (hai người) nhưng vẫn là sự thể hiện tính đơn phương của di chúc vì vợ,
chồng là hai chủ thể đứng về một phía (trong việc lập di chúc) để định đoạt tài sản
cho những người thừa kế. Mặc dù di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương của
người lập di chúc nhưng ý chí này phải phù hợp với quy định của pháp luật thể
hiện qua các quy định liên quan đến điều kiện có hiệu lực của di chúc.
Khi lập di chúc, mục đích của người lập di chúc là nhằm chuyển tài sản của
mình cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Đây là yếu tố hết sức quan
trọng, nếu di chúc không đề cập đến việc “chuyển tài sản” này thì di chúc cũng
không tồn tại giá trị pháp lý dưới góc độ pháp luật dân sự. Thông thường, khi nói
tới việc “chuyển tài sản” của người lập di chúc, có thể hiểu đây là sự định đoạt tài
sản một cách trực tiếp.
2. Khái niệm di sản
Muốn xác định, giải quyết được tranh chấp về thừa kế thì vấn đề đầu tiên
cần xác định được chính xác cùng với thời điểm và địa điểm mở thừa kế đó là vấn
đề di sản. Di sản được hiểu là toàn bộ tài sản do người chết để lại. Theo quy định
Dương Thị Nguyệt Khuê Page 3
Bài tập lớn Dân sự
tại Điều 634 BLDS 2005 thì di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.
- Di sản là tài sản riêng cuả người chết:
Tài sản riêng của người chết là tài sản mà người đó có được từ các căn cứ
xác lập quyền sở hữu hợp pháp. Pháp luật dân sự Việt Nam quy định thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, vốn, hoa lợi, lợi tức
và các tài sản hợp pháp khác đều có thể thuộc sở hữu của tư nhân và tài sản thuộc
sở hữu của tư nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị. Như vậy, tất cả tài sản
riêng của người chết không phân biệt tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng, không
phân biệt là vật, tiền, giấy tờ có giá hay quyền tài sản nếu thuộc sở hữu hợp pháp
của người đó thì đều trở thành di sản thừa kế.
- Di sản là phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người
khác:
Bên cạnh tài sản riêng thì phần tài sản của người chết trong khối tài sản
chung với người khác cũng được xác định là di sản thừa kế. Trong thực tế, có
những trường hợp tài sản là tài sản chung của nhiều chủ sở hữu do được tặng cho
chung, thừa kế chung, hoặc do cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh… Trong
trường hợp đó, khi một đồng chủ sở hữu chết thì di sản thừa kế của người chết là
phần tài sản thuộc sở hữu của người đó có trong khối tài sản chung. Ngoài phần
quyền trong sở hữu chung theo phần thì một người cũng có thể là đồng chủ sở hữu
trong khối tài sản chung hợp nhất. Theo quy định của pháp luật dân sự thì có hai
loại sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu
chung hợp nhất không thể phân chia. Đối với sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng
là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia thì về nguyên tắc khi một bên chết trước
thì một nửa khối tài sản chung đó là tài sản của người chết và sẽ được coi là di sản
để phân chia thừa kế. Tuy nhiên, đối với sở hữu chung hợp nhất không thể phân
Dương Thị Nguyệt Khuê Page 4
Bài tập lớn Dân sự
chia (sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu chung trong nhà chung cư…) thì do
pháp luật quy định đó là sở hữu chung không được phấn chia nên khi có một người
mất đi thì tài sản đó thuộc quyền sở hữu của những chủ thể còn lại chứ không thể
xác định là di sản thừa kế của người chết.
3. Di sản dùng vào việc thờ cúng
Thờ cúng là một nếp sống văn hóa lâu đời của nhân dân ta, thể hiện lòng tôn
kính đối với người đã chết, giáo dục người xung quanh kính trọng những người
bậc trên đã chết và nhớ công ơn họ. Vì vậy, Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các
truyền thống tốt đẹp đó, cho phéo cá nhân dành một phần tài sản của mình để
dung vào việc thờ cúng. Phần tài sản này không coi là di sản thừa kế.
Di sản dùng vào việc thờ cúng được để lại theo ý nguyện của người lập di
chúc, di sản này không chia mà được giao cho một người quản lí. Di sản này có
thể là một tài sản cụ thể ( cây lâu năm, nhà ở,…). Nếu là tài sản hoặc cây lâu
năm, người quản lí có quyền thu hoa lợi, lợi tức và dùng nó để thực hiện việc
thờ cúng. Người quản lí không được sử dụng vào mục đích của riêng mình,
không có quyền định đoạt đối với phần di sản thờ cúng. Tất cả những nội dung
liên quan đến di sản dung vào việc thờ cúng được pháp luật qui định ở điều 670
BLDS.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
Di sản dùng vào việc thờ cúng được quy định tại Điều 670 BLDS:
“1.Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người
đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng; nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của
Dương Thị Nguyệt Khuê Page 5
Bài tập lớn Dân sự
những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng
vào việc thờ cúng cho người khác quản lí để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lí di sản
thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lí di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì
phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lí hợp pháp di sản đó
trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2.Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào
việc thờ cúng”.
1. Di sản dùng vào việc thờ cúng không thể được chuyển
nhượng
Căn cứ xác định di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định tại Điều 670 là
do người lập di chúc định đoạt tài sản dùng vào việc thờ cúng và chỉ rõ phần tài
sản nào được dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó là phần di sản dùng vào
việc thờ cúng. Trên thực tế thì di sản dùng vào việc thờ cúng còn do con, cháu tự
sắm sửa trong một năm, nhiều năm để dùng vào việc thờ cúng, thậm chí di sản
dùng vào việc thờ cúng còn do các con, cháu trong dòng họ hiến tặng cho nhà thờ
họ hoặc di sản dùng vào việc thờ cúng do các thế hệ trước để lại một cách tự nhiên
mà không có bất kì một lời dặn dò hay văn bản xác định đó là di sản dùng vào việc
thờ cúng. Có thể khẳng định, di sản dùng vào việc thờ cúng của một người, hay các
thành viên đã chết của một gia đình, dòng họ được xác lập từ nhiều căn cứ khác
nhau nhưng pháp luật quy định căn cứ xác lập di sản dùng việc thờ cúng do một
người để lại theo di chúc và căn cứ này có ý nghĩa pháp lí trong việc giải quyết
Dương Thị Nguyệt Khuê Page 6
Bài tập lớn Dân sự
những tranh chấp liên quan đến di sản dùng vào việc thờ cúng do người lập di chúc
để lại.
Theo quy định trên, người có tài sản có quyền lập di chúc định đoạt một
phần di sản giao cho một người quản lí để dùng vào việc thờ cúng. Người lập di
chúc chỉ định một người cụ thể quản lí di sản dùng vào việc thờ cúng và thực hiện
việc thờ cúng. Nhưng người được chỉ định quản lí di sản dùng vào việc thờ cúng
đã không thực hiện nghĩa vụ thờ cúng theo di chúc hoặc theo thỏa thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc
thờ cúng cho người khác để quản lí để thờ cúng. Ngoài trường hợp trên, nếu người
để lại di chúc không chỉ định trong di chúc ai là người quản lí di sản dùng vào việc
thờ cúng và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng thì những người thừa kế cử một người
quản lí di sản thờ cúng. Tuy pháp luật không quy định rõ những cá nhân phải có
những điều kiện nào thì được quản lí di sản thờ cúng và thực hiện nghĩa vụ thờ
cúng nhưng theo thông lệ và phong tục trong nhân dân, người quản lí di sản dùng
vào việc thờ cúng và thực hiện việc thờ cúng thường là con, cháu, anh, em ruột của
người để lại di sản đó. Thực hiện nghĩa vụ thờ cúng nếu không được người để lại
di sản đó viết rõ trong di chúc thì việc thờ cúng cũng tuân theo phong tục trong
cộng đồng dân cư và dòng họ của người để lại di sản đó, thường là việc thờ cúng
được tiến hành vào ngày giỗ hàng năm của người chết, ngày rằm, ngày tết và thờ
cúng người để lại di sản đó khi mới chết ba ngày, cúng đầu tuần, cúng bốn chin
ngày, cúng một trăm ngày và cúng cơm thường hàng ngày kể từ ngày người đó
được mai táng xong cho đến hết một trăm ngày… Đây là nghi thức phổ biến trong
nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, còn có những cách thức thờ cúng khác được lưu
truyền trong nhân dân không thể xác định hết được. Hình thức thờ cúng rất phong
phú, đa dạng gắn với phong tục, tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên, mục đích thờ
Dương Thị Nguyệt Khuê Page 7