Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Một số vấn đề về di sản dùng vào việc thờ cúng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.71 KB, 40 trang )

Đề số 25
Một số vấn đề về di sản dùng vào việc thờ cúng.
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ Trang 1
PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ Trang 2
A. DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC
THỜ CÚNG Trang 2
I. Quá trình hình thành và việc áp
dụng Di sản dùng vào việc thờ
cúng Trang 2
1. Thời kì phong kiến Trang 2
2. Giai đoạn sau năm 1945 ở cả hai
miền Trang 4
II. Những di sản dùng vào việc thờ
cúng trong BLDS 2005 Trang 6
1. Những vấn đề cần làm rõ Trang 6
2. Những vấn đề cần khắc phục tại
điều 670 BLDS Trang 9
B. DI TẶNG Trang 13
I. Khái niệm Trang 13
II. Những tìm hiểu ung quanh vấn
đề di tặng Trang 14
III. Những vần đề cần khắc phục
tại Điều 671 BLDS Trang 16
KẾT THÚC VẤN ĐỀ Trang 17
PHỤ LỤC Trang 18
1
Chú thích:
BLDS: Bộ luật Dân sự
DLBK: Dân luật Bắc Kỳ
HVTKHL: Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật


XHCN: xã hội chủ nghĩa
CNXH: chủ nghĩa xã hội
TANDTC: Tòa án Nhân dân tối cao
ĐẶT VẤN ĐỀ
Di sản là tài sản của người chết để lại sai khi thanh toán các nghĩa vụ, phần
còn lại chia cho người thừa kế. Tuy nhiên, có trường hợp người để lại thừa kế lập
đi chúc dành lại một phần để thờ cũng hoặc tặng cho người khác, cho nên di sản
2
để di tặng có thể phân thành các loại như di sản thờ cúng, di sản để di tặng và di
sản chia thừa kế.
Thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta,
biểu hiện lòng tôn kính của thế hệ sau đối với thế hệ trước, đây là truyền thống
uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam. Để phát huy truyền thống tốt đẹp
đó, trong luật cổ Việt Nam đã ghi nhận và điều chỉnh việc thờ cũng người chết.
Quy định này mang tính pháp lý và đạo lý, rằng buộc thế hệ sau với những người
đã khuất.
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về di
sản dùng vào việc thờ cúng, giúp cho việc nhận thức đầy đủ cả về bản chất của
thờ cúng là một truyền thống tốt đẹp, một bản sắc văn hóa của nhân dân ta. Mặc
khác, giúp cho sửa đổi, bổ sung các quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng
phù hợp với phong tục, tập quán của nhân dân ta.
Người để lại thừa kế có thể lập di chúc tặng cho người khác một tài sản sau
khi chết, việc tặng cho này gọi là di tặng. Đây là một vấn đề hoàn toàn mới trong
luật Dân sự Việt Nam, vì vậy cần phải nghiên cứu vấn đề này một cách toàn
diện.
Sau đây em xin được phân tích đề tài “Một số vấn đề vè di sản dùng vào việc
thờ cúng và di tặng”. Do còn ít kinh nghiệm trong việc phân tích một vấn đề
khoa học nên em mong nhận được sự chỉ bảo và sửa chữa những sai sót của em
từ phía thầy cô.
PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ

A. DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
I. Quá trình hình thành và việc áp dụng Di sản dùng vào việc thờ
cúng.
3
1. Thời kì phong kiến
Ở nước ta, việc thờ cúng tổ tiên trở thành nét văn hóa độc đáo từ ngàn đời
xưa, cho nên pháp luật phong kiến đã điều chỉnh việc tế tự như một nghĩa vụ bắt
buộc. Điều 389 Luật Hồng Đức quy định:
“Các quan đại thần cũng các quan viên cho đến dân thường, phàm con cháu,
giữ việc phụng sự hương hỏa, thì không kể lớn nhỏ, phẩm chất thấp cao phải
tuân theo lệ thường, ủy quyền cho con trưởng của vợ cả, nêu người con trưởng
chết trước, thì lấy người cháu trưởng, nếu không có cháu trưởng thì mới lấy
người con thứ. Nếu người vợ cả không có con trai nào thì mới chọn lấy người
con nào tốt của vợ lẽ.
Theo tư tưởng phong kiến, trong một gia đinh của người Việt Nam có người
nắm quyền gia trưởng, trong dòng họ có người trưởng họ và nội tộc có tôn
trưởng. Những người nắm quyền gia trưởng, tôn trưởng sẽ quản lý tài sản của
người chưa thành niên, quản lý một phần di sản của người chết để lại thực hiện
việc thờ cúng người đó và những người đã chết trong gia đình. Trường hợp cha
mẹ đều mất cả, có ruộng đất chưa kịp làm chúc thư, thì anh em trong gia đình
phải lấy một phần hai mươi (1/20) số ruộng đất làm phần hương hỏa và giao cho
người con trai trưởng giữ. Người con trai trưởng sau này chết, thì người cháu
trưởng sẽ giữ hương hỏa và phần hương hỏa được tính như sau: lấy điền sản là
hương hỏa của ông nội đem nhập vào phần điền sản của cha, sau đó dành một
phần hai mươi toàn bộ điền sản đó để lại làm hương hỏa và lưu truyền cho các
thế hệ sau. Nếu cha mẹ có chúc thư lập hương hỏa thì con cháu phải theo đúng
chúc thư đó để thực hiện, người nào vi phạm thì mất phần mình được hưởng.
Khi đã thiết lập hương hỏa, dù con, cháu nghèo đói cũng không được bán, nếu
bán thì phạm vào tội bất hiếu. Trường hợp không còn các cháu trai, trong họ sẽ
thỏa thuận cử người thừa tự giữ phần hương hỏa.

Khác với Luật Hồng Đức, Luật Gia Long không có quy định cụ thể về hương
hỏa. Tuy nhiên, vấn đề trưởng tử và thừa tự được quy định rải rác trong các trong
các mục 4, 10, 11 Quyển 6 – Hộ Luật.
Trưởng tử là con trai cả trong gia đình, nếu dòng chính không có con trai mới
lập con trai lớn dòng nhánh làm trưởng tử. Việc lập trưởng tử bắt buộc đối với
4
tất cả các gia đình, nếu không lập trưởng tử thì bị phạt 80 trượng. Trường hợp,
vợ chồng không có con thì nuôi dưỡng người đồng tông làm con nối dõi không
được nuôi người khác họ làm con nối dõi, trừ trường hợp nhận được con rơi dưới
3 tuổi. Trường hợp này, mặc dù người con nuôi khác họ, nhưng pháp luật cho
phép lập con nuôi làm con thừa tự. Nếu không có con cho phép lấy cháu tương
đương chiêu mục đồng tông thừa kế, trước lấy cùng cha trong thân tộc, không có
mà lấy cháu bà con họ xa lập lên làm con nối dõi.
Theo Luật Gia Long, con trai trưởng trong gia đình là người nối dõi việc thờ
cúng bố mẹ, ông bà. Trường hợp không có con trai thì lấy người đồng tông thừa
tự. Luật Gia Long cũng quy định tài sản của bố mẹ không chia cho các con mà
chia gia tài thì chia đều cho tấc cả các con không phân biệt con trai, con gái, con
vợ cả hay con vợ lẽ, tì thiếp, mỗi người được hưởng một phần bằng nhau.
Sự khác biệt cơ bản giữa Luật Gia Long và Luật Hồng Đức về vấn đề hương
hỏa là:
- Trong Luật Gia Long không quy định cụ thể về hương hỏa.
- Sau khi cha mẹ chết, tài sản của chả mẹ không chia, được gia đình cho con
trưởng tử quản lý. Trưởng tử là người nối dõi sự nghiệp của cha mẹ, giữ gìn phát
triển nền thịnh vượng chung của gia đình, chăm phần mộ và thờ cúng ông bà,
cha mẹ.
Như vậy, luật cổ Việt Nam rất coi trọng việc thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
Di sản dùng vào việc thờ cúng chủ yếu là điền sản. Người nối dõi hoặc người
thừa tự có quyền sử dụng hương hỏa, lấy hoa lợi, lợi tức dùng để thờ cúng người
đã khuất, phần còn lại sẽ thuộc về mình.
Cha mẹ có thể lập hương hỏa và giao cho người con trai, cháu trai quản lý sử

dụng. Nếu không có con trai, cháu trai chính hệ, không bắt buộc phải lập người
thừa tự để cúng mình. Trừ trường hợp chính mình là người thừa tự thì phải lập
người kế tự để kế tiếp phụng thờ tổ tiên.
Mục đích của việc lập hương hỏa là để thờ cúng những người quá cố, vì vậy
theo nguyên tắc chung những tài sản dùng làm hương hỏa không được chuyển
dịch và không có thời hiệu triệt tiêu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc
biệt, hương hỏa sẽ bị triệt tiêu:
5
- Khi trong họ không có người đàn ông nào kế thừa;
- Hội đồng gia tộc quyết định cải dụng;
- Tài sản hương hỏa bị phá hủy;
2. Giai đoạn sau năm 1945 ở cả hai miền
Miền Nam
Trong Bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972 quy định về hương hỏa tương đối giống
như quy định trong Bộ DLBK và HVTKHL. Điều đó chứng tỏ Bộ Dân luật Sài
Gòn đã tiếp thu, kế thừa và phát triển cổ luật với Dân luật thời Pháp một cách
tương đối đầy đủ về hương hỏa. Điều 600 Bộ Dân luật Sài Gòn quy định:”
Hương hỏa là phần tài sản được giao riêng cho người thừa tự để lấy hoa lợi dùng
vào việc phung tự người quá cố hoặc cả người phối ngẫu và tổ tiên nội tộc ấy
nữa. Hương hỏa bất khả đoạn mãi và bất khả thời hiệu”
Theo quy định trên hương hỏa có thể là động sản hay bất động sản, được lưu
truyền cho con cháu để sử dụng vào việc thờ cúng những người quá cố nhưng
luật không bắt buộc phải đẻ hương hỏa. Nếu có lập hương hỏa thì không quá 1/5
số tài sản của người lập hương hỏa. Người thừa tự của hương hỏa thì phải lập
người kế tự để tiếp tục thờ cúng tổ tiên. Người kế tự đó phải là con trai (cháu
trai), trường hợp này hương hỏa được truyền từ đời này sang đời khác. Hương
hỏa mãn kết nếu trong họ không còn người nào là nam thừa kế để cáng đáng việc
phụng tự hoặc hội đồng đại tộc quyết định cải dụng không dùng vào việc thờ
phụng nữa. Ngoài ra pháp luật còn quy định hương hỏa được triệt bài khi đã lưu
truyền được năm đời liên tiếp.

Người giữ hương hỏa được hưởng hoa lợi của tài sản lập thành hương hỏa và
phải chịu mọi thuế dịch về ruộng đất hương hỏa. Hoa lợi, lợi tức thu được từ
hương hỏa, người thừa tự dùng vào việc thờ phụng, tu bổ từ đường, phần mộ,
phần còn lại được phép chi tiêu cho bản thân. Người thừa tự được phép bán một
phần hương hỏa. Nếu tiền đường đổ nát, trong họ không có tiền sửa sang thì hội
đồng đại tộc cho phép bán. Ngoài ra, hội đông đại tộc có thể cho phép bán hay
đổi chác, nếu xét thấy có lợi cho hương hỏa.
Miền Bắc
6
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, nhân dân miền Bắc bắt tay vào
công cuộc cải tạo XHCN và chi viện sức người, sức của cho nhân dân miền Nam
đấu tranh chống giặc Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Bắc thực hiện chính sách tiết
kiệm để xây dựng CNXH, vù vậy các phong tục tập quán thờ cúng được đơn
giản hóa nhưng vẫn giữ được tính tôn nghiêm. Pháp luật trong thời kỳ này không
điểu chỉnh về hương hỏa nhưng thực tế một số tập quán của nhân dân ta từ thời
kỳ phong kiến vẫn tồn tại, cho nên pháp luật điều chỉnh về thừa tự và lập tự, coi
người thừa tự như con nuôi của người lập tự, do vậy được hưởng di sản của
người lập tự. Để giải quyết vấn đề này, Thông tư số 81-TANDTC ngày
24/7/1981 của TANDTC hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thưa kế không quy
định về hương hỏa nhưng hước dẫn về thừa tự và lập tự. Người thừa tự là người
thừa kế hàng thứ nhất của người lập tự và có quyền bình đẳng với những người
thừa kế khác cùng hàng.
Những năm 80 của thế kỉ XX, ở miền Bắc phong tục thờ cúng cha mẹ, ông bà,
tổ tiên được duy trì ở từng gia đình, dòng họ với nhiều mức độ khác nhau. Điều
này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, tập quán của từng địa phương nhưng đều có
chung một điểm là dùng hương hoa để thờ cúng. Việc thờ cúng này có đạm bạc
nhưng thể hiện được lòng thành kính của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ
tiên.
Ở nước ta, trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp xây dựng cơ chế thì trường theo định hướng XHCN, thu

nhập quốc dân tăng lên, đời sống của nhân dân đã có phần dư dật, cho nên việc
thờ cúng ông bà, cha mẹ không những có ý nghĩa tưởng nhớ đến người đã khuất
và còn là ngày anh em, con cháu sum họp quây quần bên nhau ôn lại những kỷ
niệm trong gia đình.
Để phát huy truyền thống tốt đẹp của nhân dân là uống nước nhớ nguồn và tạo
điều kiện cho các thế hệ sau thực hiện việc thờ cúng được tốt hơn, đồng thời tạo
cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp về thừa kế trong đó có di sản dùng vào
việc thờ cúng. Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/8/1990. Điều
21 quy định:
“Nếu người lập di chúc có để lại di sản dùng vào việc thờ cúng, thì di sản đó
coi như chưa chia. Khi việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc thì
7
những người thừa kế của người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng có quyền
hưởng di sản đó. Nếu những người thừa kế đều đã chết thì di sản thuộc về người
đang quản lý hợp pháp di sản đó trong đó những nguwofi thừa kế theo pháp luật
quy định tại điều 25 và điều 26 của Pháp lệnh này”
Di sản dùng vào việc thờ cúng có thể là tiền, vàng, nhà ở, hoa màu do người
chết để lại và được giao cho người thừa kế giữ. Người thừa kế khai thác công
dụng của tài sản thu hoa lợi, lợi tức và lấy một phần tài sản hoặc hoa lợi, lợi tức
để duy trì việc thờ cúng người quá cố và tổ tiên. Việc khai thác lợi ích của tài sản
như thế nào do những người thừa kế thỏa thuận. Trường hợp việc thờ cúng
không được thực hiện thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ chia cho những
người thừa kế hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản thờ cúng. Nếu những
người thừa kế hàng thứ nhất đều đã chết và thời hiệu thừa kế đã hết, thì di sản
thuộc về người thừa kế được quy định tại các Điều 25, Điều 26 Pháp lệnh Thừa
kế đang quản lý hợp pháp di sản đó.
II. Di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS 2005
1. Những vấn đề cần làm rõ.
Di sản dùng vào việc thờ cúng được quy định tại Điều 670 BLDS 2005, nội
dung điều luật này có một số vấn đề cần làm rõ:

Thứ nhất, người lập di chúc có dành một phần làm di sản thờ cúng thì phần di
sản đó giao cho người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế
thỏa thuận giao cho một người quản lý. Như vậy vần phải hiểu thế nào là một
phần di sản và nếu người lập di chúc định đoạt vượt quá một phần thì di chúc có
giá trị hay không.
Theo quy định, toàn bộ tài sản của người chết là một khối di sản, một phần
của một khối di sản đó sẽ là: nếu chia di sản làm hai hay nhiều phần thì người
lập di chúc không được dành lại quá một phần (nếu chia làm hai phần) của khối
di sản đó. Do vậy, nếu người lập di chúc định đoạt vượt quá 1/2 sản, khi mở thừa
kế sẽ để lại 1/2 di sản để thờ cúng, phần còn lại chia theo di chúc hoặc chia theo
pháp luật. Vấn đề này cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể để tránh việc áo
dụng tùy tiện.
8
Thứ hai, tại đoạn 3 khoản 1 Điều 670 BLDS quy đinh: “… Trong trường hợp
tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng vào
việc thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.
Quy định này có thể hiểu là người để lại thừa kế phải lập di chúc cho tất cả
những người thừa kế hàng thứ nhất, sau khi những người này chết, di sản thờ
cúng thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản. Quy định như vậy chưa phù
hợp với thực tế, và mâu thuẫn với Điều 645 BLDS như trường hợp những người
thừa kế theo di chúc đều chết nhưng thời hiệu thừa kế chưa hết thì tại sao di sản
lại thuộc về người đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng. Vì những lí do
đó, cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định khác về thừa kế và
phong tục tập quán của nhân dân ta.
Nhà nước tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, cho nên trong Pháp lệnh
thừa kế năm 1990 và Điều 670 LDS năm 2005 đã quy định người lập di chúc có
quyền chỉ định người thừa kế thực hiện việc thờ cúng.
Một vấn đề khác đặt ra thế nào là một phần di sản? Vấn đề này có thể giải
thích dựa vào lịch sử lập pháp và theo tư duy logic.

Theo pháp luật dân sự của các nhà nước phong kiến Việt Nam, như Luật Hồn
Đức, hương hỏa là 1/20 điền sản, theo luật Bắc Kỳ năm 1931 và Luật Trung Kỳ
năm 1936, hương hỏa là 1/5 điền sản (ruộng đất). Hương hỏa được giao cho tôn
trưởng quản lý dùng vào việc phụng tự. Như vậy, hương hỏa chỉ là một phần nhỏ
điền sản cua người chết để lại cho cháu, con để sử dụng, thu hoa lợi dùng vào
việc thờ cúng.
Theo logic, nếu khối di sản được chia thành hai hay nhiều phần thì chỉ được
dùng một phần đó để thờ cúng, phần còn lại chia thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp
này tuy người lập di chúc không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng nhưng
trong di chúc vẫn xác định rõ dành một phần di sản cho việc thờ cúng (như một
9
khoản tiền, một gian nhà,…) thì những người thừa kế phải cử một người để quản
lý di sản dùng vào việc thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì
phần di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản
đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Khoản 2 Điều 670 quy định:
“Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào
việc thờ cúng”.
Quy định này nhằm bảo vệ người có quyền lợi trong quan hệ dân sự với người
để lại di chúc, khi di sản còn lại chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người
chết để lại, thì phải dùng phần di sản dùng vào việc thờ cúng thực hiện nghĩa vụ
đó.
Thờ cúng là một nếp sống văn hóa lâu đời của nhân dân ta, thể hiện lòng tôn
kính đối với người đã chêt. Giáo dục người xung quanh kính trọng những người
bậc trên đã chết và nhớ công ơn của họ. Vì vậy, Nhà nước tôn trọng và bảo hộ

các truyền thống tốt đẹp đó, cho phép cá nhân dành một phần tài sản của mình để
dùng vào việc thờ cúng. Phần di sản này không được coi là di sản thừa kế.
Di sản dùng vào việc thờ cúng được để lại theo ý nguyện của người lập di
chúc, di sản này không chia mà được giao cho một người quản lý. Di sản này có
thể là một tài sản cụ thế (cây lâu năm, nhà ở…). Nếu là tài sản hoặc cây lâu năm,
người quản lý có quyền thu hoa lợi, lợi tức và dùng nó để thực hiện việc thờ
cúng. Người quản lý không được sử dụng vào múc đích của riêng mình. Không
có quyền định đoạt di sản này. Trường hợp nguời đang quản lý di sản dùng vào
việc thờ cúng mà không có điều quản lý di sản đó, những người thừa kế sẽ thỏa
thuận giao cho người khác quản lý.
Điều 670 BLDS không có quy định về tính chất của di sản dùng cho việc thờ
cúng (không định tính), mà chỉ định lượng phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Vì vậy, người lập di chúc có thể định đoạt bất kỳ tài sản nào trong khối tàn sản
thuộc quyền sở hữu của mình để dùng vào việc thờ cúng.
10
2. Những vấn đề cần khắc phục tại Điều 670 BLDS.
Trong trường hợp người lập di chúc có dành một phần di sản thờ cúng, thì cần
phải trích một phần di sản để làm di sản thờ cúng. Tuy nhiên, phần di sản thờ
cúng chiếm tỉ lệ bao nhiêu so với di sản thì chưa được quy định cụ thể. Trường
hợp, người thừa kế theo pháp luật còn sống và người thừa kế theo di chúc chết
mà họ đang quản lý di sản thờ cũng thì xử lý di sản thờ cúng đó thế nào, vấn đề
này còn nhiều mâu thuẫn, do vậy áp dụng pháp luật sẽ vướng mắc. Theo Điều
670 BLDS quy định:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào
việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một
người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu
người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận
của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản
dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ

cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần
di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng.”
Khoản 1 Điều 670 quy định nếu người lập di chúc có dành lại một phần di
sản... Như vậy, một phần di sản là bao nhiêu trong tổng di sản thừa kế? Về vấn
đề này có thể hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, luật quy định dành một phần di sản, vậy có thể hiểu là không được
dùng toàn bộ di sản để thờ cúng, do đó người lập di chúc có thể dành phần lớn di
11
sản để thờ cúng. Ví dụ: toàn bộ di sản trị giá là 100 triệu đồng, người lập di chúc
có thể dành số di sản trị giá 90 triệu làm di sản thờ cúng.
Thứ hai là, nếu chia số di sản thành nhiều phần thì người lập di chúc có quyền
dành một phần trong tổn số phần di sản đó. Vậy khi chua di sản thành nhiều
phần thì chia tối đa và tối thiểu là bao nhiêu phần? Tối đa là vô cùng và tối thiểu
là hai phần bằng nhau. Trường hợp này, phần di sản thờ cúng không quá một
phần nếu di sản chua làm hai phần. Vì những lí do trên cần quy định cụ thể di
sản thờ cúng tỉ lệ bao nhiêu là phù hợp.
Tại đoạn ba khoản 1 Điều 670 BLDS quy định tất cẩ người thừa kế theo di
chúc đều đã chết thì di sản thờ cúng thuộc về người quản lý di sản. Nội dung của
đoạn này có vấn đề bất cập sau:
Trường hợp người để lại thừa kế có nhiều người thừa kế theo pháp luật nhưng
lập di chúc cho một người hưởng di sản và giao cho người này quản lý di sản thờ
cúng. Nếu người quản lý di sản chết nhưng thời hiệu của thừa kế chưa hết, theo
quy định của điều luật trên, người thừa kế của người quản lý di sản đang quản lý
di sản đó được hưởng di sản thờ cúng. Vấn đề này trái với thời hiệu thừa kế là 10
năm. Mặt khác, việc quy định thờ cúng là nghĩa vụ lâu dài của các con, các cháu,

vì thế người quản lý di sản thờ cúng chết, di sản thờ cúng không thể thuộc người
đang quản lý trong diện những người thừa kế mà phải tiếp tục thực hiện việc thờ
cúng và ít nhất đến hết thời hiệu thừa kế, thì di sản mới thuộc về người thực tế
đang quản lý di sản thờ cúng.
Khoản 2 Điều 670 BLDS không tương đồng với khoản 2 Điều 671 BLDS.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 670 BLDS, pháp luật không cho phép người lập
di chúc dành một phần di sản để làm di sản thờ cúng nếu người lập di chúc còn
nhiều nghĩa vụ có thể lớn hơn tổng tài sản hiện có.
Theo quy định của pháp luật thì việc lập di chúc có thể thực hiện hiện trước
hoặc sau thời điểm phát sinh nghĩa vụ, như trường hợp khi lập di chúc chưa có
12
nghĩa vụ nhưng sau khi lập di chúc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của người lập
di chúc phát sinh. Như vậy, việc lập di chúc độc lập với việc phát sinh nghĩa vụ,
cho nên quy định trên không phù hợp. Do đó cần phải hiểu là khi chia thừa kế
nếu số di sản còn lại không đủ thực hiện nghĩa vụ thì dùng di sản thờ cúng để
thực hiện nghĩa vụ. Nếu toàn bộ di sản, kể cả di sản thờ cúng không đủ để thực
hiện nghĩa vụ thì không để lại di sản thờ cúng. Mặt khác, quy định này chưa rõ
như: nếu người lập di chúc dành một phần di sản thờ cúng nhưng có nghĩa vụ thì
khi thanh toán các nghĩa vụ sẽ dùng phần di sản nào để thực hiện nghĩa vụ? Phần
di sản để chia thừa kế hay phần di sản thờ cúng hoặc thanh toán xong nghĩa vụ?
Số di sản còn lại sẽ xác định một phần là di sản thờ cúng. Vấn đề này không rõ
ràng, sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
Đối chiếu với quy định thanh toán nghĩa vụ tại khoản 2 Điều 671 BLDS, ta
thấy quy định rất rõ là người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ trừ
trường hợp di sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ. Có nghĩa là, nếu có nghĩa vụ
thì dùng phần di sản chia thừa kế để thực hiện, nếu không đủ thì dùng phần di
tặng để thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, cần quy định khoản 2 Điều 670 BLDS cụ
thể, rõ ràng hơn để việc áp dụng được thuận lợi.
Trong trường hợp người lập di chúc để lại một phần không quá 1/5 di sản
dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao

cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ
cúng, nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo
thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần
di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý đẻ thờ cúng.
Việc quy định một phần di sản là bao nhiêu, vấn đề này xuất phát từ cơ sở
thực tiễn có tính lịch sử. Pháp luật của Nhà nước ta công nhận và tôn trọng việc
thờ cúng trong nhân dân, tuy nhiên thờ cũng là nghĩa vụ chung của con cháu.
Mặt khác, việc thờ cúng mang tính tâm linh không nhất thiết phải dùng quá
13
nhiều tài sản để thờ cúng. Di sản thờ cúng chủ yếu phục vụ việc tu sửa mồ mả và
hương khói, do vậy không cần thiết phải dùng nhiều tài sản, số tài sản còn lại để
tiếp tục sản xuất kinh doanh đêm lại thu nhập cho người thừa kế.
Theo truyền thống của cha ông ta từ xưa, lập hương hỏa không quá 1/20 điền
sản (Điều 390 LHĐ). Theo điều 406 Bộ DLTK, hương hỏa không quá 1/5 tài
sản. Như vậy, các bộ luật trướng đây đều khống chế một số lượng tài sản để làm
hương hỏa. Vì thế, trong BLDS cần phải quy định rõ vấn đề này và theo truyền
thống lập pháp gần đây dùng 1/5 tài sản là hợp lý.
Đoạn bốn khoản 1 Điều 670 BLDS cần bổ sung như sau:
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế đều đã chết và thời hiệu thừa kế
đã hết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di
sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Di sản thờ cúng được giao cho người chỉ đinh trong di chúc quản lý. Nếu
người này chết di sản tiếp tục được chuyển cho người khác quản lý. Trường hợp
thợi hiệu về thừa kế đã hết và tất cả những thừa kế hàng thứ nhất đều đã chết thì
di sản thuộc về người đang quản lý di sản là người trong diện thừa kế. Như vậy,
di sản này không dùng để thờ cúng nữa, nếu thỏa mãn hai điều kiện mà không
còn người thừa kế mà lẽ ra được hưởng phần di sản thờ cúng nếu người lập di
chúc không dành phần đó làm di sản thờ cúng. Mặc khác, thời hiệu thừa kế đã
hết thì di sản sẽ thuộc về người thực tế đang quản lý di sản đó.
Khoản 2 Điều 670 BLDS cần được bổ sung như sau:

Trong trường hợp phần di sản còn lại của người chết không đủ để thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người đó thì phải dùng phần di sản dùng vào việc thờ cúng
để thực hiện nghĩa vụ.
Khoản 2 Điều này quy định rõ, sau khi mở thừa kế nếu người chết còn nghĩa
vụ thì dùng phần di sản chia thừa kế để thực hiện. Nếu không đủ sẽ dùng phần di
14
sản để thờ cúng thực hiện nghĩa vụ. Quy định này phù hợp với mục đích dành di
sản để thờ cúng và phù hợp với quy định về di tặng.
B. DI TẶNG
I. Khái niệm:
Điều 671 BLDS quy định:
1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người
khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
Trường hợp người lập di chúc có di tặng tài sản của mình thì trước khi chia
thừa kế phải chia di tặng, phần di sản còn lại chia theo di chúc hoặc chia theo
pháp luật. Tuy nhiên, người lập di chúc dành một phần di tặng thì phần đó là bao
nhiêu cần phải quy định rõ. Hoặc phải có văn bản hướng dẫn về di tặng, vì đây là
một vấn đề hoàn toàn mới trong Luật Dân sự Việt Nam.
II. Những tìm hiểu xung quanh vấn đề di tặng
Trong các loại giao dịch có điều kiện, di chúc là giao dịch có điều kiện phát
sinh hiệu lực. Kể tử thời điểm mở thừa kế, di chúc có hiệu lực pháp luật, người
được chỉ định trong di chúc có quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản. Tuy nhiên,
người nhận di sản có thể với tư cách là người thừa kế theo di chúc hoặc có thể là
người được di tặng. Tư cách chủ thể của người được chỉ định trong di chúc phụ
thuộc vào ý chí của người lập di chúc. Người chỉ định trong di chúc có thể được
hưởng di sản theo di tặng hoặc là người thừa kế theo di chúc. Về hậu quả pháp
lý, hai giao dịch này khác nhau nhưng về hình thức thì giống nhau, biêu hiện là
người được chỉ định trong di chúc có quyền hưởng phần di sản được định đoạt
theo di tặng hoặc theo di chúc. Di tặng là một phần tài sản được định đoạt trong
di chúc để tặng cho một hoặc nhiều người sau khi người tặng cho chết.

Di tặng có những đặc điểm sau đây:
- Di tặng mang tính chất của hợp đồng tặng cho.
Theo nguyên tắc của giáo kết hợp đồng, các bên thỏa thuận về nội dung của
hợp đồng và ký kết dưới một hình thức nhất định. Tuy nhiên trên thực tế, người
15
tặng cho có thể tự mình quyết định chuyển giao tài sản của mình cho người được
tặng cho. Người được tặng cho có thể nhận hoặc không nhận tài sản tặng cho.
Nếu người được tặng cho nhận thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực và đồng thời
chấm dứt hợp đồng.
Đối với di tặng , người lập di chúc thực hiện hành vi pháp lý đơn phương định
đoạt tài sản của mình cho người được di tặng. Sau khi người lập di chúc chết, thì
người được tặng có quyền nhận hay từ chối nhận di sản.
Vậy, di tặng và cho tặng giống nhau là người lập di chúc chuyển quyền sở hữu
tài sản cho người được di tặng, người được di tặng và cho tặng không có nghĩa
vụ đối với người thứ ba. Điểm khác nhau giữa di tặng và tặng cho là di tặng là do
người lập di chúc quyết định, còn việc nhận di sản hay không nhận di sản do
người được di tặng quyết định, đây là hau quan hệ độc lập, tuy nhiên tặng cho là
một giao dịch dân sự có sự thỏa thuận của người có tài sản và người được tặng
cho.
- Di tặng là một nội dung của di chúc.
Người có tài sản có quyền lập di chúc để tặng cho người khác tài sản của mình
sau khi chêt. Di chúc tặng cho tài sản có giá trị pháp lý khi người lập di chúc
chết. Người lập di chúc có thể vừa định đoạt tài sản cho người khác hưởng thừa
kế theo di chúc và có thể di tặng người khác trong cùng một di chúc.
- Người hưởng di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ của người chết.
Kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ của người
để lại thừa kế trong phạm vi di sản được hưởng. Ngược lại, người được di tặng
không phải thực hiện nghĩa vụ đó. Pháp luật dự liệu trường hợp phần di sản để
chia thừa kế không đủ để thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người đã chết, thì
người được di tặng phải trích một phần tài sản di tặng để thực hiện nghĩa vụ.

Trường hợp này người được hưởng di tặng có hai tư cách, trước hết là tư cách
của người được tặng cho. Người được di tặng có quyền sở hữu đối với phần di
sản di tặng kể từ thời điểm nhận phần di sản đó. Tư cách thứ hai là của người
thừa kế theo di chúc. Người được di tặng phải thực hiện nghĩa vụ của người để
lại thừa kế nếu toàn bộ di sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ.
16

×