Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Hợp đồng dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.06 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU.
Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá
nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện quyền và
nghĩa dân sự nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng, trong sản
xuất, kinh doanh. Hợp đồng dân sự ngày càng có ý nghĩa quan trọng
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình thực hiện, bên cạnh những
mặt tích cực còn tồn tại những thực trạng là các tranh chấp về dân sự,
nhất là các tranh chấp về hợp đồng có xu hướng tăng, trong đó hợp
đồng vô hiệu chiếm tỷ lệ không nhỏ. Việc tuyên bố hợp đồng dân sự vô
hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu vẫn là
một vấn đề phức tạp nhất mà ngành Toà án đang vướng mắc. Do tính
cấp thiết cũng như tầm quan trọng của chế định hợp đồng vô hiệu nên
em chọn vấn đề “ Hợp đồng dân sự vô hiệu ” làm đề tài cuối kỳ. Do
kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp mà vấn đề lại có nhiều vấn đề phức tạp
nên trong quá trình làm bài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.
1. BLDS: Bộ luật dân sự.
2. HĐVH: Hợp đồng vô hiệu.
3. HĐ DS: Hợp đồng dân sự.
4. NLHVDS: Năng lực hành vi dân sự.
2
I. Những vấn đề lý luận về hợp đồng vô hiệu
1.Khái niệm của hợp đồng dân sự.
Để tồn tại và phát triển mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia vào các mối
quan hệ khác nhau. Thông qua việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để qua đó
chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng là
một tất yếu đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên việc chuyển giao lợi ích vật chất ấy


không thể tự tìm tới nhau để thiết lập nên các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được
hình thành từ những hành vi có ý chí của con người. Mác nói rằng: “ tự chúng, hàng hoá
không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được.Muốn cho những vật đó trao đổi
với nhau thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí
nằm trong các vật đó.” (Các Mác, “Tư bản”, quyển 1, tập 1, Nxb Sự thật 1973 trang 163
). Mặt khác nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia cũng
không thể hình thành một quan hệ để qua đó thể hiện việc chuyển giao tài sản. Do đó
chỉ khi nào có sự thể hiện ý chí thống nhất giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật
chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là hợp đồng dân sự. Như vậy cơ sở đầu
tiên để hình thành nên một hợp đồng dân sự là việc thoả thuận ý chí tự nguyện của các
bên.Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực khi mà ý chí của các bên phù hợp với ý chí
của Nhà nước. Các bên được thiết lập, tự do thoả thuận hợp đồng nhưng sự tự do ấy
phải được đặt trong giới hạn lợi ích của người khác, lợi ích chung của toàn xã hội.
Khái niệm về hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều phương diện và góc độ
khác nhau.Theo phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự là một bộ phận của các
quy phạm pháp luật do Nhà nứơc ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh
trong quá trình chuyển dịch các lợi ích vật chất. Theo phương diện chủ quan hợp đồng
dân sự là một giao dịch dân sự mà các trong đó các bên tự ý trao đổi với nhau nhằm đi
đến một thoả thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định.
Theo phương diện này khái niệm hợp đồng dân sự được xem xét ở dạng khaí quát và
3
dạng cụ thể. Để quy định của pháp luật có thể bao trùm được toàn bộ các hợp đồng dân
sự xảy ra trong thực tế, Điều 388 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thoả
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.”. Như
vậy hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thụân của để một bên chuyển giao taì sản,
thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thoả thuận để thay đổi hay
chấm dứt các nghĩa vụ đó.
Ngoài ra cũng cần nói thêm rằng xét về nội dung kinh tế sẽ khó phân biệt giữa một
hợp đồng dân sự với một hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại nếu nội dung của
chúng đều là sự mua bán, trao đổi các lợi ích vật chất. Tuy nhiên yêu cầu của quá trình

tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các tranh chấp từ hợp đồng đòi hỏi cần có sự
phân biệt rạch ròi giữa một hợp đồng kinh tế với một hợp đồng dân sự. Có thể nói hợp
đồng dân sự và hợp đồng kinh tế như cặp song sinh.Vì vậy trong thực tế có rất nhiều
trường hợp hợp đồng là hợp đồng kinh tế hay dân sự. Để có thể phân biệt được hai loại
hợp đồng này phải được xác định cụ thể mục đích của từng loại hợp đồng. Hợp đồng
với mục đích thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng thì được coi là hợp đồng dân sự. Và
chỉ được coi là hợp đồng kinh tế khi các bên chủ thể khi tham gia vào hợp đồng nhằm
mục đích kinh doanh thương mại, thu lợi nhuận.
2. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng vô hiệu.
2.1. Khái niệm.
Hợp đồng vô hiệu không phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn.
“ Vô hiệu” theo nghĩa thông thường là “không có hiệu lực, không có hiệu quả” như vậy
có thể suy ra rằng hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không tồn tại theo quy định của pháp
luật, không có hiệu lực pháp lý mặc dù hợp đồng đó được xác lập, các bên có thể chưa
thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ như cam kết nhưng
khi xác định là HĐVH thì mọi cam kết đã, đang thực hiện thì đều không phải là các
quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ.
4
Vậy hợp đồng vô hiệu là khi xác lập các bên đã có vi phạm ít nhất một trong các điều
kiện có hiệu lực do pháp luật quy định dẫn đến hậu quả pháp lý là không làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ dân sự nào.
* So sánh với hợp đồng mất hiệu lực: Để hiểu rõ hơn về cần phải có sự phân biệt
giữa hợp đồng vô hiệu hợp đồng dân sự mất hiệu lực. HĐVH là hợp đồng không có hiệu
lực ở ngay thời điểm giao kết. Còn hợp đồng mất hiệu lực là hợp đồng có hiệu lực ở thời
điểm ký kết nhưng hợp đồng bị mất hiệu lực là do rơi vào tình trạng không thể thực hiện
được. Tình trạng mất hiệu lực của hợp đồng dân sự có thể do một bên vi phạm, dẫn đến
bên vi phạm yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc các bên tự thoả thuận với nhau chấm dứt hiệu
lực của hợp đồng hoặc do trở ngại khách quan nào khác. Ví dụ 2 bên ký kết một hợp
đồng mua bán gỗ, thời điểm này Nhà nước không cấm mua bán mặt hàng này. Nhưng
khi hai bên đang thực hiện hợp đồng thì Nhà nước lại có quyết định cấm khai thác và

buôn bán loại gỗ này dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện được và bị mất hiệu lực.
2.2. Đặc điểm của hợp đồng vô hiệu.
Theo khoản 1 Điều 410 BLDS 2005 quy định: “Các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu
từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.” Vậy
có thể thấy các quy định về hợp đồng vô hiệu được áp dụng giống như đối với giao dịch
dân sự vô hiệu. Mà theo quy định tại Điều 127 BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự
không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô
hiệu.”. Vậy đặc điểm chung của các hợp đồng vô hiệu là không đáp ứng các điều kiện
theo quy định của pháp luật. Khi hợp đồng vô hiệu các bên phải gánh chịu hậu quả pháp
lý nhất định có thể bất lợi về vật chất hoặc tinh thần như không đạt được mục đích đã xác
định nếu chưa thực hiện được thì sẽ không thực hiện được tiếp, nếu đang thực hiện thì
phải chấm dứt việc thực hiện đó để quay trở lại tình trạng ban đầu hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận.( khoản 2 điều 137 BLDS 2005).
2.2.1. Không đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật với hợp đồng vô
hiệu.
5
- Năng lực hành vi dân sự của người tham gia hợp đồng.
Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể
tham gia hợp đồng nhưng không phải ai cũng có quyền tham gia vào bất kỳ loại hợp
đồng nào mà chỉ có các chủ thể được pháp luật cho phép mới có thể được tham gia.
Trong một số trường hợp thì một số chủ thể chỉ được tham gia trong giới hạn của một
số quan hệ quan hệ dân sự nhất định. Khi các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải
có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự mà năng lực pháp luật là vốn có của
chủ thể mà pháp luật quy định cho các chủ thể có quyền như nhau: Mọi cá nhân đều có
năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi
người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. ( khoản 2, 3 Điều 14 BLDS 2005). Còn
năng lực hành vi thì pháp luật căn cứ vào khả năng nhận biết hành vi của từng con
người cụ thể. Việc phân định này dựa trên cơ sở sinh học và cơ sở xã hội. Nếu như
năng lực pháp luật là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực hành
vi là khả năng hành động của chủ thể để tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ. Tư cách

chủ thể tham gia hợp đồng dân sự là sự thống nhất giữa năng lực pháp luật và năng lực
hành vi. Năng lực pháp luật là điều kiện cần, năng lực hành vi là điều kiện đủ để tạo ra
tư cách của một chủ thể khi tham gia hợp đồng.
- Mục đích và nội dung của các hợp đồng không đáp ứng đủ yêu cầu của pháp luật
hoặc trái đạo đức xã hội. Trong chế định hợp đồng dân sự, các chủ thể có quyền tự do
thể hiện ý chí của mình, tự do trong việc quyết định nội dung, hình thức của giao dịch,
thể hiện khi xác lập hợp đồng các chủ thể có quyền tự do lựa chọn đối tác, tự do thoả
thuận nội dung của hợp đồng, hình thức giao kết. Nhưng sự tự do không mang tính
tuyệt đối mà bị ràng buộc bởi khuôn khổ pháp luật. Sự ràng buộc này hạn chế sự tự do
của các chủ thể khi tham gia xác lập hợp đồng. Chủ thể không tuân theo sự hạn chế của
pháp luật dẫn tới hợp đồng vô hiệu.
+ Mọi thoả thuận không trái với pháp luật.
+ Mọi thoả thuận không được trái với đạo đức xã hội.
6
Không trái với pháp luật thì rõ nhưng không trái với đạo đức xã hội là một vấn đề phức
tạp vì khái niệm đạo đức là một khái niệm trừu tượng. Nhà nước đưa ra khái niệm đạo
đức xã hội trong luật : “ Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử giữa người với
người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận”( đoạn 3 Điều 128 BLDS
2005), nhưng không quy định cụ thể trường hợp nào là vi phạm. Chính vì vậy mà khi
xác định nội dung của khái niệm đạo đức thường được xem trong mối quan hệ với án lệ,
nhưng về lý thuyết thì Nhà nước ta chưa thừa nhận án lệ. Chính vì thế trong thực tiễn
hiện nay quy định này đã gây ra không ít khó khăn trong việc áp dụng.
- Chủ thể tham gia xác lập hợp đồng không tự nguyện.
Sự tự nguyện khi giao kết hợp đồng là một yếu tố cơ bản và không thể thiếu được trong
hợp đồng dân sự. VÌ vậy các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng phải thể hiện ý chí
đích thực của mình. Mọi thoả thuận không phản ánh đúng ý chí cuả các bên đều có thể
dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Ý chí của chủ thể là thể hiện mong muốn của mình ra bên
ngoài trong khuôn khổ pháp luật cho phép mà không bị sự ép buộc nào.
- Hình thức hợp đồng không đúng quy định của pháp luật.
Để đảm bảo cho trật tự xã hội, lợi ích của Nhà nước và cá nhân khi tham gia giao kết

hợp đồng, ngoài việc các chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải thể hiện ý chí của
mình còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về hình thức đối với một số loại hợp
đồng nhất định. Thông qua các biểu hiện về hình thức này người khác có thể phần nào
biết được nội dung của hợp đồng. Việc quy định một số loại giao dịch cần phải tuân
theo các quy định về hình thức dưạ trên cơ sở là đối tượng của các loại hợp đồng này có
giá trị lớn hoặc có tính năng đặc biệt nên hình thức của hợp đồng là căn cứ xác đinh nội
dung của hợp đồng. Mặt khác, với những quy đinh này còn là cơ sở để các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền kiểm tra giám sát việc chuyển dịch các tài sản này.
2.2.2. Các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định.
Khi hợp đồng vô hiệu thì: “… các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ
7
trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp
luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.” (Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005). Về
mặt lý thuyết thì đây là sự tổn thất của các bên nên phải quay lại tình trạng ban đầu như
trước khi tham gia hợp đồng. Tuy nhiên về mặt thực tế có trường hợp khi tuyên bố hợp
đồng vô hiệu có bên được hưởng lợi, có bên bị thiệt hại.
3. Phân loại hợp đồng vô hiệu.
Vì các quy định về giao dich dân sự từ Điều 127 đến Điều 138 được áp dụng cho hợp
đồng vô hiệu nên dựa vào đó có thể thấy có những loại hợp đồng vô hiệu dựa vào các
căn cứ sau :
* Dựa vào mức độ vi phạm đối với từng loại hợp đồng dân sự cụ thể thì hợp đồng
dân sự được chia thành:
- Hợp đồng dân sự vô hiệu toàn bộ: là hợp đồng mà toàn bộ nội dung của nó đều vi
phạm điều kiện có hiêụ lực của hợp đồng hoặc có một số nội dung của hợp đồng bị vô
hiệu nhưng lại trực tiếp ảnh hưởng tới phần còn lại của hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần: là hợp đồng mà chỉ có một số nội dung vi
phạm các điều kiện có hiệu lực của HĐDS, còn các nội dung khác không vi phạm hoặc
có một phần của HĐVH nhưng không ảnh hưởng tới hiệu lực còn lại của hợp đồng.
* Dựa vào mức độ vi phạm nghiêm trọng hay không của HĐDS cũng như căn cứ

vào ý chí của Nhà nước, ý chí của chủ thể tham gia giao dịch thì HĐVH đuợc chia
thành:
- Hợp đồng dân sự đương nhiên vô hiệu ( vô hiêu tuyệt đối ) : là hợp đồng không có
hiệu lực pháp luật ngay từ khi giao kết, không có giá trị về mặt pháp luật không làm
phát sinh quyền và nghĩa của các bên. Do vậy cả trường hợp các bên tham gia hợp đồng
đã ký kết và thực hiện sẽ không có giá trị pháp lý. Các bên tham gia phải chấm dứt thực
hiện và quay lại trạng thái ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
- Hơp đồng vô hiệu khi có yêu cầu ( vô hiệu tương đối ): Là hợp đồng có khả năng
khắc phục, nó được coi là hợp đồng có thể hiệu lực nhưng cũng có thể bị vô hiệu theo
8
sự lựa chọn của một trong các bên kia hợp đồng. Hợp đồng này thông thường không
xâm phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội và chỉ có thể bị vô hiệu đối với bên có
lỗi mà không vô hiệu với bên không có lỗi. Khi xác định hợp đồng vô hiệu thì quyền và
nghĩa vụ của các bên đã thoả thuận đều không có hiệu lực pháp luật, còn trong trường
hợp hợp đồng đó được thừa nhận sau khi đã khắc phục thì đương nhiên quyền, nghĩa vụ
của các bên sẽ được pháp luật bảo vệ theo sự cam kết thoả thuận của các bên. Hợp đồng
khắc phục là hợp đồng mới. Với hợp đồng vô hiệu tuyệt đối lại khác. Đây thường là hợp
đồng vi phạm điều cấm của pháp luật nên trong thực tế Toà án và các cơ quan có thẩm
quyền không cho phép khắc phục mặc dù các bên có mong muốn được khắc phục.
* Dựa vào các quy định trong BLDS 2005.
- Hợp đồng dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội ( Điều 128
BLDS 2005).
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực
hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực chung trong đời
sống xã hội, đựơc cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
- Hợp đồng vô hiệu do giả tạo.(Điều 129 BLDS 2005).
Ý chí đích thực và sự thể hiện ý chí đó phải là sự thống nhất. Khi hai cái đó không có sự
đồng nhất thì hợp đồng dân sự vô hiệu. Trên cơ sở này, pháp luật quy định HĐDS được
xác lập một cách giả tạo thì hợp đồng này vô hiệu còn hợp đồng bị che giấu vẫn có hiệu
lực. Nếu hợp đồng bị che giấu cũng vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì

cũng bị coi là vô hiệu. Ngoài ra khi các chủ thể xác lập hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa
vụ với người thứ 3 thì cũng bị coi là vô hiệu.
- Họp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện.(Điều 130 BLDS 2005)
Đối với các HĐDS đựoc xác lập, thực hiện bởi người chưa thành niên, người mất
NLHVDS, người bị hạn chế NLHVDS mà theo quy định của pháp luật hợp đồng này
9
phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện thì pháp luật cho phép người đại diện
của những người này có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn. (Điều 131 BLDS 2005).
Ở đây, HĐDS được xác lập bởi sự nhầm lẫn không có sự thống nhất ý chí đích thực với
sự thể hiện ý chí đó ra bên ngoài. Do đó bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên
bố HĐDS vô hiệu mà không cần phải yêu cầu bên kia thay đổi nội dung hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ.(Điều 132 BLDS 2005).
Là hợp đồng mà bản thân chủ thể xác lập hợp đồng bị “tê liệt ” về ý chí và không có sự
lựa chọn nào khác ngoài việc lựa chọn ý chí của một bên (đe doạ) hoặc sự nhận thức
không đúng về HĐDS bởi hành vi vi phạm pháp luật, bởi sự định hướng ý chí của chủ
thể thành một nội dung khác có lợi cho người định hướng ( lừa dối).
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của
mình (Điều 133 BLDS 2005).
Một người có năng lực hành vi dân sư đầy đủ có thể xác lập hợp đồng theo ý chí của
mình. Tuy nhiên trên thực tế có những trường hợp bản thân chủ thể xác lập hợp đồng
mặc dù có NLHVDS đầy đủ nhưng đã không xác lập hợp đồng vào đúng thời điểm
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Ví dụ trong tình trạng say rượu,
bia….
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức.(Điều 134
BLDS 2005).
Đối với các HĐDS mà pháp luật buộc các bên phải thông qua một hình thức nhất định
nhưng các bên lại không thông qua hình thức này thì Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền sẽ ấn định một thời hạn để các bên hoàn thành, quá thời hạn này mà các bên

không hoàn thành thì HĐVH.
- Hợp đồng vô hiệu từng phần.(Điều 135 BLDS 2005).
Hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần của hợp đồng vô hiệu nhưng không ảnh
hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của hợp đồng.
10

×