Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự, hợp đồng dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.39 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
BÀI LÀM
I- Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự, hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự
1.1- Khái niệm
1.2- Đặc điểm
1.3- Ý nghĩa của hợp đồng dân sự trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay
2. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu
II- Quy định về hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự vô hiệu trong hệ thống
pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ
III- Xác định hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
2. Mục đích và nội dung của hợp đồng không trái pháp luật, đạo đức xã hội
3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
4. Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với qui định của pháp luật
IV- Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Dựa vào tính chất của hợp đồng dân sự
2. Dựa vào hiệu lực của hợp đồng
3. Dựa vào điều kiện có hiệu lực
V- Các căn cứ luật định về hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội
2. Hợp đồng vô hiệu do giả tạo
3. Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
1
5. Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
6. Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình


7. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức
8. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được
VI- Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự
2. Xử lý hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu
VII- Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Điều kiện xác định người thứ ba ngay tình khi hợp đồng vô hiệu
2. Giải quyết hậu quả pháp lý
KẾT LUẬN
2
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hợp đồng dân sự là một mảng quan hệ pháp luật vô cùng quan trọng, là
một trong những chế định pháp lí cổ xưa nhất, xuất hiện sớm nhất trong nội
dung luật dân sự. Hợp đồng dân sự là sự khái quát một cách toàn diện các hình
thức giao lưu dân sự phong phú của con người, là một trong những phương
thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Từ những năm đầu của thời kì đổi mới một loạt
các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đã ra đời như: Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế (1989); Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1991) và trong 2 pháp
lệnh về chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ cũng có phần quy định về vấn
đề hợp đồng. Đến khi Bộ luật dân sự 1995 ra đời và được sửa đổi, bổ sung tại
Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng dân sự đã được xem xét, quy định một cách
đầy đủ, toàn diện hơn. Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội thông qua ngày
14/6/2005, có hiệu lực ngày 01/01/2006 tạo ra một hành lang pháp lí quan
trọng cho giao lưu dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập
pháp, hành pháp và tư pháp của những nhà làm luật. Hiện nay Việt Nam đang
đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu đảm bảo công bằng
xã hội. Hơn nữa, từ khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh

tế Việt Nam đã từng bước hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, quá trình này đã
mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức. Trong đó, các tranh chấp
về hợp đồng dân sự ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi
hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách
3
triệt để. Khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng
dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Để giải quyết được các tranh chấp đó một câu hỏi đặt ra: “Liệu có tồn tại hợp
đồng hay không?” và “Hợp đồng có hiệu lực hay không?” để từ đó xác định
các bên có quyền và nghĩa vụ gì. Vì vậy, những quy định về hợp đồng dân sự
vô hiệu có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân
sự của nền kinh tế thị trường, góp phần nâng cao ý thức cuả các chủ thể tham
gia vào quan hệ hợp đồng, giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong
quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ
thể tham gia vào quan hệ hợp đồng và tạo nên sự bình đẳng trong giao lưu dân
sự.
BÀI LÀM
I- Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự, hợp
đồng dân sự vô hiệu
1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự
1.1- Khái niệm
Khái niệm về hợp đồng dân sự phải được xem xét dưới nhiều góc độ
khác nhau.
Theo phương diện khách quan, hợp đồng dân sự là do các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong xã hội được phát sinh do quá trình trao
đổi các lợi ích vật chất giữa các chủ thể tham gia quan hệ đó với nhau.
4
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự
trong đó các bên trao đổi ý chí với nhau để đi đến một thỏa thuận chung nhằm
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định đối với nhau.

Như vậy, hợp đồng dân sự được hiểu là : “ hợp đồng dân sự là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc
hoặc không làm một việc, một dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó
một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”.
Hay hợp đồng dân sự được hiểu một cách đơn giản là “ sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân
sự”.
1.2- Đặc điểm
- Là một sự kiện pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp lý là: phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự của các chủ thể tham gia
- Mang tính ý chí, là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các bên tham gia
hợp đồng. ý chí này phù hợp với ý chí của nhà nước.
- Mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong
muốn đạt được khi giao kết hợp đồng
1.3- Ý nghĩa của hợp đồng dân sự trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay
- Tạo hàng lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia hợp đồng
5
Khi các bên tham gia hợp đồng thì có quyền tự do, tự nguyện giao kết hợp
đồng , nhưng sự tự do ấy phải nằm trong khuôn khổ các quy định của pháp
luật. Việc pháp luật quy định về các điều kiện để chủ thể giao kết hợp đồng và
các biện pháp chế tài nếu các bên không tuân thủ các điều kiện đó là nhằm bảo
vệ trật tự công, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia hợp
đồng dân sự. Do vậy, chế định pháp lý về hợp đồng dân sự trong đó có các quy
định về hợp đồng dân sự vô hiệu đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế thị trường.
- là cơ sở để giải quyết các tranh chấp xảy ra
Khi có tranh chấp thì chính những cam kết mà các bên đã thỏa thuận sẽ là
chứng cứ quan trọng để xác định xem ai là người vi phạm, cần phải áp dụng

biện pháp chế tài như thế nào cho phù hợp. Nếu trong trường hợp hợp đồng
dân sự vô hiệu, thì cam kết đóng vai trò quan trọng xác định lỗi của các bên
tham gia, trên cơ sở đó xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với bên vi
phạm khi giải quyết hậu quả hợp đồng dân sự vô hiệu.
- Bảo đảm cho việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền
Những cam kết của các chủ thể tham gia hợp đồng là căn cứ quan trọng để các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra xem các chủ thể đó có thực hiện
nghiêm túc theo quy định của pháp luật hay không. Đồng thời áp dụng các biện
pháp chế tài cho các bên vi phạm khi cần thiết.
- Bảo đảm sự ổn định của các quan hệ sở hữu tài sản
Khi một hoặc các bên vi phạm thì hợp đồng dân sự bị vô hiệu, bên vi phạm
phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi cho chính họ, ví dụ: bị phạt cọc... Việc quy
6
định này có ý nghĩa khắc phục những thiệt hại cho bên vi phạm, đồng thời còn
tạo nên sự công bằng xã hội, tạo ra sự ổn định trong giao lưu tài sản, góp phần
ổn định trong quan hệ sở hữu tài sản.
2. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu
Hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà các
bên mong muốn. Đây là nguyên tắc chung mà pháp luật các nước đều ghi nhận.
Ở Việt Nam để xác định hợp đồng dân sự vô hiệu phải căn cứ vào quy định tại
Điều 410, 127 và Điều 122 Bộ luật dân sự. Theo đó hợp đồng dân sự bị vô hiệu
khi không thỏa mãn một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122
BLDS, là :
- người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
- mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật, đạp đức xã
hội
- người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện
- hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật
Vô hiệu theo nghĩa thông thường được hiểu là : “ không có hiệu lực,

không có hiệu quả”. Như vậy hợp đồng dân sự vô hiệu chính là hợp đồng
không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý.

II- Quy định về hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự
vô hiệu trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua các
thời kỳ
7
Trong lịch sử thế giới, chế định hợp đồng đã có từ lâu, như ở châu Âu,
chế định hợp đồng đã có từ thời Cổ đại La mã vào những thế kỷ IV– V trước
Công nguyên, người La mã đã xây dựng được hệ thống thuật ngữ về phạm trù
pháp lý về bản chất của hợp đồng như là hợp đồng miệng, hợp đồng viết, sự
thể hiện ý chí trong giao dịch dân sự, giao dịch theo lương tâm, giao dịch theo
pháp luật;
Tuy nhiên ở Việt Nam, cho đến thế kỷ XIX pháp luật dân sự vẫn chưa nhận
được sự quan tâm của triều đại phong kiến lúc bấy giờ; ngay như Bộ Luật
Hồng Đức cũng chỉ quy định rất giản đơn về 3 loại hợp đồng ruộng đất.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dưới sự bảo hộ của Pháp chế định khế ước
hay hợp đồng mới được ghi nhận trong các văn bản pháp luật chính thức như ở
Nam kỳ có Bộ Dân luật giản yếu năm 1883; Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và
Bộ Luật Trung Kỳ năm 1936 do người Pháp khai thác thuộc địa và ban hành
những đạo luật phần lớn có lợi phục vụ cho nước Pháp.
Như vậy từ đầu thế kỷ XX chế định hợp đồng hay khế ước được xuất hiện ở
Việt Nam do 3 Bộ Luật Dân sự điều chỉnh gồm có :
1. Bộ Dân luật giản yếu áp dụng tại xứ Nam kỳ, nhưng trong bộ luật này chỉ
nói về nhân thân (nói về người) không có điều khoản nào qui định về chế định
hợp đồng hay khế ước, khi giải quyết các vụ án liên quan đến hợp đồng hay
khế ước, các Toà Nam án thường áp dụng các điều khoản của Dân luật của
Pháp như lý trí thành văn (raison écrite) liên quan đến hợp đồng nghĩa vụ và
trách nhiệm dân sự; các Toà án Pháp ở Nam Việt còn áp dụng các điều khoản
Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ, có khi còn áp dụng cả Luật Hồng Đức và

Luật Gia Long, nếu liên quan đến thừa kế và tập tục cổ truyền của Việt Nam...
8
2. Bộ Dân Luật Bắc kỳ gồm có 1.455 điều, chia làm một thiên sơ bộ và 4
quyển, quyển thứ ba nói về khế ước và nghĩa vụ; và phạm vi áp dụng ớ các Toà
án Bắc phần mà thôi.
3. Bộ Dân Luật Trung kỳ còn được gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật được
ban hành ngày 13/07/1936 gồm có 1.709 điều, thì có 57 điều nói về khế ước –
hợp đồng (từ điều 1216 – 1273); sở dĩ Dân luật Trung kỳ hơn Dân luật Bắc kỳ
254 điều, vì vấn đề khế ước – hợp đồng theo Dân luật của Pháp qui định kỹ
hơn Dân luật Bắc.
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hoà được thành lập, ngày
10/10/1945 Chủ Tịch Chính Phủ lâm thời Hồ Chí Minh ban hành sắc luật số 47
cho phép áp dụng luật lệ hiện hành của chế độ cũ ở cả 3 miền Bắc, Trung,
Nam, nếu những luật lệ ấy không trái với nền độc lập của Việt Nam và chính
thể dân chủ cộng hoà, thì các quan hệ hợp đồng vẫn được điều chỉnh căn cứ
vào các Bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ, Bộ dân Luật Trung Kỳ; và đến ngày
10/07/1959 theo chỉ thị số 172-CT/TATC của Toà án nhân dân tối cáo đình chỉ
áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến, chế định hợp đồng trong Bộ Dân
luật bắc kỳ được chấm dứt vào trung tuần tháng 7 năm 1959; năm 1960 ban
hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế; và Nghị định số 54/CP ngày
10/03/1975 của Chính phủ ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng.
Đến năm 1986 do điều kiện đổi mới kinh tế đất nước, và điều chỉnh nền kinh tế
thị trường có điều tiết; các văn bản pháp luật được ra đời để điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng kinh tế và quan hệ hợp đồng dân sự, trong đó có Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế năm 1989, và Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 để điều
chỉnh các quan hệ kinh tế, dân sự trong đời sống xã hội ngày càng phát triển.
Bộ luật Dân sự đầu tiên của nước ta đã được Quốc Hội khoá IX kỳ họp thứ 8
thông qua ngày 28/10/1995, có hiệu lực thi hành từ 01/07/1996, và các chế
định hợp đồng cũng được Bộ luật này công nhận.
9

Tuy vậy, mặc dù chế định hợp đồng được Bộ luật dân sự 1995 qui định, vẫn
chưa chấm dứt Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, nên vẫn còn hai chế định
hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại vẫn tồn tại, khiến cho các qui định
hợp đồng của Bộ luật Dân sự 1995 chưa được phát huy đúng mức của Bộ luật
Dân sự;
Bộ luật Dân sự 2005 mới thể hiện được toàn diện về xã hội và địa vị pháp lý
được bình đẳng, chế định hợp đồng được thống nhất trên mọi lãnh vực kinh tế
và thương mại .
III- Xác định hợp đồng dân sự vô hiệu
Theo Khoản 1 Điều 410 của BLDS 2005 : “các quy định từ Điều 127
đến Điều 138 của bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng dân sự vô
hiệu”.
Do vậy, hợp đồng dân sự vô hiệu khi không tuân thủ một trong các điều kiện
sau:
- người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
- mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật, đạp đức xã
hội
- người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện
- hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật
1. Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
• Cá nhân:
Theo qui định của BLDS thì: “ năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả
năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền nghĩa vụ dân
sự.”
10

×