Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận thanh toán: “ Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.04 KB, 30 trang )

Tiểu luận thanh tốn: “ Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc. Bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam”
I. Chính sách tỉ giá hối đối của Trung Quốc
1.1. Chính sách tỉ giá hối đoái của Trung Quốc trong thời gian qua
1.1.1. Giai đoạn trước chuyển đổi nền kinh tế - năm 1979
Cũng như các nước khác trong hệ thống XHCN, trước thời điểm chuyển đổi kinh
tế, Trung Quốc xây dựng và áp dụng chính sách tỉ giá cố định và đa tỉ giá nhưng
khơng tn theo hồn tồn đúng những nguyên tắc của chế độ tỉ giá cố định. Những
tỉ giá được ấn định khác nhau tuỳ theo từng quan hệ kinh tế đối ngoại và thoả thuận
trong quan hệ hai bên hay nhiều bên có tính chất nội bộ hệ thống, xoay quanh giá
trị của đồng Ruble (RUR) được ấn định ngang bằng với giá trị của đồng đô la. Trên
thực tế, giao dịch ngoại thương giữa các nước XHCN trong thời gian này là trao
đổi thương mại trực tiếp (hàng đối lưu) và tỉ giá hối đoái ấn định chỉ được sử dụng
vào thanh toán số dư cuối kỳ các hiệp định thương mại hoặc cuối kỳ kế toán.Thực
chất của chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá trong giai đoạn này ở các nước XHCN
nói chung và ở Trung Quốc nói riêng đã xố nhồ những tín hiệu của thị trường động lực kinh doanh đối với các đơn vị kinh tế. Các yếu tố thị trường như quan hệ
cung - cầu đối với ngoại tệ, những nhân tố tác động đến tỷ giá và thị trường ngoại
hối, thị trường tài sản… chỉ tồn tại có tính chất hình thức hoặc khơng tồn tại chứ
không phải là công cụ đắc lực của nền kinh tế thị trường, khơng có tác dụng là
những địn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các đơn vị kinh tế nói chung, các
đơn vị và các tổ chức tham gia xuất nhập khẩu nói riêng trở thành những đơn vị thụ
động thực thi các kế hoạch tập trung, chủ quan của Nhà nước bao quát tất cả mọi
khâu của quá trình sản xuất, từ việc cung cấp các yếu tố đầu vào, đến việc sản xuất
cái gì, sản xuất như thế nào, bởi ai và bán cho ai, bao nhiêu, ở đâu… Cơ chế nay đã
thực sự tước đoạt quyền chủ động trong kinh tế, không gắn kết lợi ích của các chủ
thể kinh tế với hoạt động kinh doanh của chính họ. Do đó, làm cho các đơn vị kinh
tế không quan tâm đến hiệu quả của q trình sản xuất - kinh doanh, hồn tồn ỷ lại


vào sự sắp đặt của Nhà nước. Chính cơ chế này đã góp phần đưa nền kinh tế của
các nước XHCN, trong đó có Trung Quốc rơi vào thời kỳ suy thoái và khủng hoảng


kinh tế sâu sắc (những năm 70 - 80).
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế của Trung Quốc diễn ra từ cuối những năm 70,
chính xác là từ năm 1979. Cùng với quá trình này, chế độ và chính sách tỉ giá hối
đối cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế phát
triển dựa trên cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng
XHCN.
1.1.2. Giai đoạn sau chuyển đổi nền kinh tế đến đầu những năm 1990 (19791993)
Trước hết, Trung Quốc để cho tỉ giá ấn định trước đây linh động theo sát với những
diễn biến của tỉ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố thị
trường vào trong cơ chế xác định tỉ giá đối với hầu hết các nước tiến hành chuyển
đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có
sự điều tiết và định hướng của nhà nước.
Trên thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái danh
nghĩa biến động theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua của
nó trong suốt thời kỳ đầu của quá trình cải cách cho đến đầu những năm 90, vì
đồng nhân dân tệ đã bị đánh giá cao trong suốt thời gian trước đây (bảng x).
Bảng x: Diễn biến của tỉ giá hối đoái giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô la thời kỳ
1978 – 1990.
Chỉ tiêu
Tỷ giá cuối năm

1978
1.577

1980
1.530

1982
1.922


1984
2.975

1986
3.722

1988
3.722

1990
5.222

USD/NDT
Tỷ giá trung bình

1.683

1.498

1.892

2.320

3.453

3.722

4.783

năm(USD/NDT)



Sau những điều chỉnh trên, tỷ giá phản ánh tương đối sát với những tín
hiệu của thị trường và sức mua thực tế của đồng Nhân dân tệ. Trong những
năm đầu của thập kỷ 90, tỷ giá danh nghĩa của đồng Nhân dân tệ với đồng Đơla
Mỹ được duy trì tương đối ổn định ở mức 5,2 đến 5,8 NDT = 1 USD (xem
bảng xx), là mức dao động đã được điều chỉnh để phản ánh những tác động của
lạm phát của Trung Quốc và Mỹ là 10,92% (27,52% - 16,60% thời kỳ 1990 1993) trên 11,06% là mức điều chỉnh tỷ giá thời kỳ 90 - 93, cao hơn mức lạm
phát (0,14%) (bảng xx).
Bảng xx: Biến động tỉ giá danh nghĩa USD/NDT đầu những năm 1990.
Chỉ tiêu
Tỷ giá cuối năm

1990
5.222

1991
5.434

1992
5.752

1993
5.800

(USD/NDT)
Tỷ giá trung bình năm

4.783


5.323

5.515

5.762

(USD/NDT)
Lạm phát Trung Quốc

3.06

3.52

6.34

14.58

(%/năm)

1.1.3. Giai đoạn 1994 – 1997
Trên đà lạm phát bắt đầu tăng nhanh từ giai đoạn trước, dự đoán được tỉ lệ lạm phát
sẽ cịn tiếp tục dâng cao nếu khơng có sự điều chỉnh kịp thời. Hơn nữa, nhận thấy
trong tình hình lạm phát này nếu vẫn duy trì tỷ giá hối đối theo hướng cố định
tương đối thì sẽ có những tác động xấu đến mục tiêu tăng cường mở cửa và thúc
đẩy xuất khẩu của nền kinh tế do đồng Nhân dân tệ có khả năng trở lại tình trạng bị
đánh giá cao so với sức mua thực tế. Chính phủ Trung Quốc đã ra một quyết định
có ý nghĩa bước ngoặt cho nền kinh tế Trung Quốc.


Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5.8

NDT/USD xuống 8.7 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá 50% (2.9/5.8). Kết
hợp với tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 0.14% giai đoạn 1990 – 1993 thì tỷ
lệ phá giá thực tế là 50.14%. Như vậy, có thể thấy hành động trên của chính phủ
Trung Quốc khơng đơn thuần là nhằm điều chỉnh để đồng Nhân dân tệ phản ánh
đúng sức mua của nó, mà đây rõ ràng là một chủ ý trong chính sách tỷ giá hối đối
của Trung Quốc đã đánh tụt rất mạnh đồng nội tệ nhằm thúc đẩy cao độ xuất khẩu
hàng hố ra nước ngồi và tạo thặng dư trong cán cân thương mại.
Đồng thời với việc phá giá mạnh đồng nội tệ, Trung Quốc huỷ bỏ chế độ tỷ giá ấn
định cũ của Nhà nước để chuyển sang khoảng tỉ giá được dao động quanh mức tỉ
giá vừa bị đánh tụt ở trên. Để giảm bớt những tác động của chính sách tỷ giá này
lên thị trường tiền tệ, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các quy định hỗ trợ như:
thực hiện chế độ ngân hàng kết nối, xố bỏ sự ghìm giá và tăng giá ngoại hối của
các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng, cải tiến cơ chế
hình thành tỷ giá hối đối; cải tiến và hồn thiện quản lý thu chi, kết tốn ngoại hối,
xố bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối...kết hợp với việc
kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng trung ương đối với các hoạt động ngoại hối của
các ngân hàng thương mại bằng cách quy định ngân hàng nào được phép chuyển
đổi và với số lượng là bao nhiêu. Các ngân hàng này có tồn quyền hoạt động trong
thị trường ngoại hối. Đối với các cơng ty nước ngồi,Trung Quốc u cầu phải có
bảng cân đối ngoại tệ hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh phải có giấy
phép đổi ngoại tệ mạnh sang Nhân dân tệ. Còn đối với các doanh nghiệp nhà nước
thì được yêu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50% như trước đây.
Nhưng mặt khác, nhà nước cho phép các công ty xuất khẩu tăng tỷ lệ giữ ngoại tệ
mạnh, các cơng ty nước ngồi được từng bước giao dịch, mua bán các loại ngoại tệ
mạnh, tạo điều kiện để đồng Nhân dân tệ xâm nhập nhanh hơn vào thị trường tiền
tệ thế giới.


Nhìn chung, so với giai đoạn 1990 – 1993, các chính sách tỉ giá hối đối của Trung
Quốc đã linh động và mềm dẻo hơn rất nhiều. Ngày 1.1.1996, đồng Nhân dân tệ

Trung Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) công nhận là đồng tiền
chuyển đổi tự do ở các tài khoản vãng lai (các tài khoản có liên quan đến các khoản
thanh tốn về mậu dịch hàng hoá – dịch vụ cũng như các khoản lợi nhuận các cơng
ty nước ngồi chuyển về nước).
Chỉ tiêu
Lạm phát (% năm)
Tỷ giá hối đối (trung bình NDT/USD)
Tốc độ tăng trưởng (% năm)

1994
24,24
8,6187
12,70

1995
16,90
8,3514
10,50

1996
8,32
8,3142
9,50

1997
2,80
8,2898
8,80

Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng bộ phận

trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích cực nhanh
chóng khơi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh tế Trung
Quốc
1.1.4. Giai đoạn trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (cuối 1997
– 2005)
Nếu trước thời điểm khủng hoảng Trung Quốc vẫn duy trì ổn định tỉ giá đồng Nhân
dân tệ thì ảnh hưởng của khủng hoảng đối với nền kinh tế sẽ ít nghiêm trọng hơn.
Trên thực tế là đồng Nhân dân tệ đã bị lao đao, đặc biệt là trong thời gian diễn ra
cuộc khủng hoảng năm 1997, một lý do lớn là do sự thả nổi đồng nội tệ trong giai
đoạn 1993 – 1996 như đã nghiên cứu ở trên.
Năm 1998, để bảo vệ đồng Nhân dân tệ trước làn sóng tấn cơng của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực, một lần nữa Trung Quốc laị quay lại kiểm soát chặt
chẽ thị trường ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và những dự kiến về phá giá đồng
Nhân dân tệ. Đồng thời, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng trưởng
của nền kinh tế, chính phủ Trung Quốc đã phối hợp với các chính sách tiền tệ nới


lỏng và kích cầu. Trong năm 1998, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất tiền
cho vay và tiền gửi đồng Nhân dân tệ, đồng thời giảm cả lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
Thêm vào đó là các chính sách: hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc, hỗ trợ vốn doanh
nghiệp, kích thích tiêu dùng các tầng lớp dân cư.
Bảng xxx Tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ trong năm 1998
Chỉ tiêu
20.03.1998
01.07.1998
06.12.1998
Lãi suất tiền cho vay NDT giảm(%) 1.6
0.49
0.27
Lãi suất tiền gửi NDT giảm (%)

0.6
1.12
0.55
Lãi suất tiền gửi USD giảm (%)
4.875
4.250
3.755
Ngày 11/12/2001, Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO).Với những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế sau khi gia
nhập WTO, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là chính sách tỷ giá của Trung Quốc cần được thực
thi sao cho đảm bảo hài hoà được với mục tiêu hạ nhiệt nền kinh tế của quốc gia
khổng lồ này trong giai đoạn này.Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Trung
Quốc từ sau khi gia nhập WTO có xu hướng ngày càng cao ở mức khó kiểm sốt,
trong khoảng 8-9%/năm. Trước tình hình này, ngày 28/10/2004, ngân hàng trung
ương Trung Quốc đã quyết định tăng tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi bằng đồng
nhân dân tệ kỳ hạn một năm từ 1,98% lên 2,25% và tăng lãi suất cho vay từ 5,31%
lên 5,58%. Biện pháp này phù hợp với xu thế tăng lãi suất trên phạm vi toàn cầu
trong năm 2004, đồng thời cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy nước này đang bắt
đầu thực hiện cải cách chính sách tiền tệ. Lần tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng 7
năm 1995 này của ngân hàng trung ương Trung Quốc nhằm mục đích duy trì những
kết quả điều tiết vĩ mô mà họ đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, đồng thời góp
phần hạ nhiệt, tạo nên sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh tế.
Các luồng vốn khổng lồ chảy vào Trung Quốc đã gây áp lực tăng giá lên đồng
Nhân dân tệ. Để kiểm soát giá đồng Nhân dân tệ, ngân hàng trung ương phải mua
vào ngoại tệ, tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ
ngoại hối của Trung Quốc tăng hơn 40% từ đầu năm lên đến 540 tỷ USD tính đến
cuối tháng 10 năm 2004. Với con số này, Trung Quốc trở thành nước có lượng dự
trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Nhật Bản (820 tỷ USD). Trên cơ sở
xây dựng thị trường ngoại hối thống nhất, Chính phủ Trung Quốc cũng từng bước

nới lỏng biên độ giao dịch của đồng Nhân dân tệ so với đồng USD, từ mức 3% hiện
nay tiến tới 4-5%.
Những biện pháp trên của Chính phủ Trung Quốc khơng những đã giúp hạn chế sự
tăng giá của đồng Nhân dân tệ, mà còn khiến đồng tiền này duy trì ở mức giá thấp
trong thời gian dài, khuyến khích xuất khẩu Trung Quốc. Tuy nhiên, giữ vững mức
tỷ giá hiện hành (8,26 - 8,28 NDT/USD) cũng không phải là điều dễ thực hiện.
Theo đánh giá, có những thời điểm ngân hàng trung ương Trung Quốc phải bỏ


Nhân dân tệ ra để mua tới 600 triệu USD mỗi ngày. Biện pháp can thiệp này khơng
thể duy trì liên tục kéo dài. Do vậy, Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp để
làm dịu sức ép đối với đồng Nhân dân tệ, cụ thể là :
- Thí điểm từ 1/11/2003 cho phép 14 tỉnh, khu vực được đầu tư ra nước ngoài nhiều
hơn, mức trần từ 1 triệu USD lên 3 triệu USD.
- Thực hiện một số biện pháp phối hợp như: giảm bớt mức độ khuyến khích xuất
khẩu, xiết chặt hơn những quy định về việc cho các nhà đầu tư bất động sản vay
tiền và hạn chế hạn ngạch đầu tư của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường trái
phiếu cũng như các thị trường chứng khoán Trung Quốc.
Tháng 10 năm 2004, trong cuộc họp cấp cao của nhóm 7 nước cơng nghiệp hàng
đầu thế giới (G7) tại Washington, Trung Quốc đã xác nhận sẽ tiến tới linh hoạt tỷ
giá đồng Nhân dân tệ. Mặc dù khơng đưa ra một lịch trình cụ thể nào cho cam kết
về linh hoạt tỷ giá, nhưng Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số biện pháp nhằm
cải cách chính sách tiền tệ.
Nhờ các nỗ lực điều chỉnh trên của chính phủ, đồng Nhân dân tệ đã đứng vững
trong thời gian này và cả một khoảng thời gian dài về sau. Tính cho đến năm 2005,
tỉ giá ngoại tệ của Trung Quốc được ấn định với đô la Mỹ tại mức 8.28 NDT đổi
lấy 1 USD, với biên độ dao động khá rộng +/- 0.3% mỗi ngày.
1.1.5. Giai đoạn từ 07.2005 đến nay
Vào ngày 22.07.2005, Trung Quốc chính thức thơng báo hàng loạt những biện pháp
như sau:

• Đồng Nhân dân tệ được điều chỉnh ở mức độ vừa phải: tăng giá 2.1% tức là
đạt mức 8.11 NDT/USD
• Một sự thay đổi quan trọng hơn: đồng Nhân dân tệ sẽ không tiếp tục, bị ấn
định với USD nữa, mà thay vào đó sẽ được xác định dựa trên một số các
đồng tiền mạnh nhất định như US$, €, ¥, K. Won, etc.(quyết định này đã
được Uỷ ban nhà nước thơng qua vào 21.07.2005)
• Mặc dù biên độ dao động tỉ giá trong ngày khá lớn (+/- 3% đối với USD +/5% đối với Euro, etc.), thì về mặt lý thuyết, sự biến động hằng ngày này vẫn
được tính đến. Vì thế, ví dụ như USD có thể bị định giá cao khoảng 6% một
tháng, thì cơ quan chức năng sẽ dùng biên độ tối đa 3% áp dụng cho USD.


Những biện pháp trên thể hiện một bước chuyển lớn về tiền tệ của Trung Quốc, từ
chính sách tỉ giá hầu như là cố định sang một cơ chế tỉ giá thả nổi theo cung cầu thị
trường có sự điều tiết của nhà nước. Theo Trung Quốc, điều này phù hợp với bối
cảnh thực tế của sự phát triển khu vực ngoài nước của Trung Quốc.
Từ thời điểm chuyển đổi chính sách trên cho tới hiện nay, Trung Quốc khơng có
những sự chuyển đổi chính sách tiền tệ đáng kể mà chỉ có những điều chỉnh hỗ trợ
để bình ổn tài chính tiền tệ trong nước. Và nhìn tồn cảnh thì những nỗ lực về
chính sách tỉ giá hối đối của Trung Quốc đã khá thành công.
Cụ thể về những tác động của những chính sách này trong từng giai đoạn sẽ
được phân tích ở phần tiếp theo.
1.2. Tác động của Chính sách tỷ giá hối đối Trung quốc
a. Tới Trung Quốc
Trước hết xem xét trên khía cạnh tích cực của việc phá giá đồng NDT (từ năm
1979 đến năm 1994) xét trong ngắn hạn sẽ làm nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có
xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng. Nguyên nhân ở đây là do lượng hàng xuất khẩu sẽ rẻ đi
một cách tương đối trên thị trường quốc tế, còn lượng hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại
thị trường nội địa. Chính sách tỷ giá trong thời kỳ này không chỉ giúp Trung Quốc đẩy
mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên quốc tế mà còn tạo cơ sở giảm
thiểu những rủi ro hối đối và tạo mơi trường hấp dẫn thu hút đầu tư mạnh từ các nguồn

đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc để vươn lên đứng đầu các nước đang phát triển về mức
độ thu hút đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp. Đây cũng là cơ sở tạo ra khả năng
góp phần giảm sốc cho nền kinh tế Trung Quốc trước tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ khu vực Đơng Nam Á.

Bảng 3.1 : Một số chỉ số phát triển kinh tế của Trung Quốc thời kỳ 1980 1990.
Chỉ tiêu

1985

1986

1987

1988

1254,5

1365,7

1527,7

1695, 1764,3
4

Tốc độ tăng trưởng (% năm)

16,2

8,9


11,9

11,0

4,1

3,8

Cán cân xuất nhập khẩu

- 36,7

- 25,5

1,1

15,1

- 18,6

51,0

17,54 17,022
8

28,59
4

GDP (giá 1990)


Dự trữ ngoại tệ (triệu USD)

15,236

1989

1990
1832,
0


Tuy vậy, nó cũng ảnh hưởng khơng nhỏ tới quan hệ mua bán ngoại thương như
trong việc duy trì các hợp đồng cũ trên cở sở tỷ giá cũ là khó, từ đó dẫn đến việc tổ chức
mở rộng sản xuất bị thu hẹp trong ngắn hạn.
Xét trên khía cạnh tiêu cực thì Trung Quốc cũng đã phải chấp nhận trả giá bằng
một mức lạm phát cao không mong muốn năm 1994 là 24,24%, cao hơn năm 1993
24,24/ 14,58 = 66,25%, lớn hơn mức ảnh hưởng thông thường của tỷ giá hối đoái đến
mức giá cả hàng hoá - dịch vụ của một nước (Theo thống kê của các nhà kinh tế là
<50%). Thực tế này có thể được giải thích do sự cộng hưởng của các tác động của chính
sách tiền tệ trước đó (xem bảng 3.2).
Bảng 3.2 : Tình hình diễn biến của chính sách tiền tệ giai đoạn 1990 - 1997.

Chỉ tiêu

1990

1991

1992


1993

1994

1995

1996

1997

Lãi suất ngân 7,92
hàng (%năm)

7,20

7,20

10,08

10,98

10,44

9,00

8,55

Mức cung tiền 701,0
(M1)


898,8

1171,4 1676,1 2154,0 2597,0 3066,3 3834

Tỷ lệ
trưởng
M1 (%)

28,22

30,33

43,08

28,51

20,57

18,07

25,00

9,20

14,20

13,50

12,70


10,50

9,50

8,80

tăng 20,15
của

Tốc độ tăng 3,80
trưởng
(%
năm)

Bảng 3.3 : Tình hình lạm phát của Mỹ và Trung Quốc 1994 - 1997
Tỷ lệ lạm phát

1994

1995

1996

1997

Mỹ (%)

2,60


3,00

2,70

2,30

Trung Quốc (% năm)

24,24

16,90

8,32

2,80

Nhưng sự trả giá này chỉ có tính chất ngắn hạn và đã được Chính phủ Trung
Quốc kịp thời điều chỉnh bằng chính cách thắt chặt tiền tệ, năm sau lạm phát đã giảm
xuống và nhanh chóng trở lại ổn định. (xem bảng 3.3).
Thứ hai, xem xét đến việc nâng giá đồng NDT khi Trung Quốc quyết định sẽ
năng tỷ giá NDT/USD thêm 2% (từ mức 8.3 NDT ăn 1 USD lên 8.11 NDT ăn 1 USD vào


ngày 21/07/2005. Trung Quốc đã hoàn thiện hơn cuộc cải cách cơ chế hình thành tỷ giá
đồng tiền và làm dịu bớt tình trạng mất cân bằng mậu dịch đối ngoại, giảm áp lực cuộc
chiến tranh giữa Trung Quốc trong việc mở của thị trường tài chính và thị trường vốn
trong cán cân thanh toán quốc tế khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các
nước phát triển đặc biệt là Mỹ khi sự mất cân đối kép của nền kinh tế nước này vẫn chưa
có giải pháp nào giải quyết hữu hiệu. Nâng cao sức cạnh tranh của Doanh nghiệp trong
nước do việc giảm bớt được các chi phí cho máy móc, thiết bị và ngun liệu nhập khẩu.

Tuy nhiên xét trên mặt hạn chế thì việc định giá lại đồng NDT cũng sẽ gây ra
những ảnh hưởng trái ngược đối với nhiều vấn đề xã hội, nhiều ngành sản xuất, người
tiêu dùng và các doanh nghiệp của Trung Quốc. Nó hạn chế việc Trung Quốc xuất khẩu
hàng ra thị trường nước ngoài, tăng giá các sản phẩm xuất khẩu vì vậy làm giảm sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp Trung Quốc trên thị trường quốc tế, điều này chắc chắn
sẽ giảm thặng dư thương mại (vốn là nhân tố quan trọng tạo ra tốc độ tăng trưởng thần
kỳ của Trung Quốc bấy lâu nay) đồng thời khuyến khích việc nhập khẩu hàng từ bên
ngồi vào Trung Quốc vì đồng NDT tăng 2,1% so với đồng USD. Giả sử trong trị giá
711 tỷ USD ngoại tệ dự trữ của Trung Quốc có tới 500 tỷ lưu trữ bằng đồng USD (số cịn
lại có thể được lưu trữ bằng vàng, đồng Yen của Nhật, đồng Euro..) thì số tiền mà Trung
Quốc mất không do nâng giá đồng NDT là 10 tỷ USD. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc
không nâng giá đồng NDT đồng thời lại kéo dài cảnh thặng dư hiện nay thì bản thân
Trung Quốc có thể gây ra cảnh lạm phát kéo dài, các ngân hàng thì cho vay bừa bãi và
việc cải tổ các xí nghiệp quốc doanh có thể sẽ bị chậm lại.
b. Tới thế giới
Ngày 1/12/1996, đồng NDT Trung Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ Quốc tế
(IMF) công nhận là đồng tiền chuyển đổi tự do ở các tài khoản vãng lai, tức có liên quan
đến các khoản thanh tốn về mậu dịch hàng hoá - dịch vụ cũng như các khoản lợi nhuận
các cơng ty nước ngồi chuyển về nước.
Nhìn lại việc duy trì một tỷ giá ổn định NDT/USD của Trung Quốc trong cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đơng Nam Á từ năm 1997, thì phần nào nhận
thấy Trung Quốc đã giảm bớt tác động của nó tới chính nền kinh tế nước mình và cũng
như nền kinh tế thế giới bằng cách duy trì một cách ổn định giá trị của đồng NDT so với
việc để mặc cho đồng NDT bị phá giá trước làn sóng tấn cơng của cộc khủng hoảng, kết
hợp với việc giảm thuế đối với các công ty xuất khẩu làm cho hàng hoá giảm xuống theo
giá trị đồng USD. Việc này phần nào làm các đồng tiền châu Á tiếp tục ổn định, đồng


USD giảm chậm chạp so với các đồng tiền Châu Á khác cũng như với đồng tiền mới
xuất hiện là đồng Euro.

Việc tăng giá đồng NDT được coi như sự kiện phục hồi đồng tiền của khu vực
Châu Á. Nếu xét trên góc độ này thì ASEAN là khu vực được hưởng thụ từ động thái
chuyển dịch đồng nội tế của nền kinh tế lớn này. Các đồng Châu Á mạnh lên làm giảm
áp lực tăng lãi suất đối với các quốc gia đồng thời giúp giảm chi phí nhập khẩu cho
những nước này. Những nước có tiềm năng được lợi lớn nhất trong trật tự mới này là
Indonesia, Singapore, Thái Lan và Malaysia. Tuy nhiên, nếu xét từ góc độ tương quan lợi
thế thương mại thì áp lực tăng giá đối với các đồng tiền ASEAN trở nên mạnh hơn cũng
đồng nghĩa với việc các nước ASEAN sẽ bị thua thiệt trong cạnh tranh xuất khẩu.
Bên cạnh đó việc Trung Quốc nâng giá đồng bản tệ và cải tiến chế độ tỷ giá linh
hoạt hơn cũng là một tín hiệu mừng đối với Mỹ và các nước phương Tây. Nhật Bản thì
đánh giá đây là bước khởi đầu của Trung Quốc trong việc quốc tế hoá đồng NDT và làm
cho hoạt động thương mại bình đẳng hơn.Theo Mỹ và các nước phương Tây việc Trung
Quốc liên tục neo giữ tỷ giá đồng NDT ở mức cố định 1USD = 8,28 NDT trong hơn 10
năm trở lại đây đã khiến cho đồng tiền này được định giá thấp hơn giá trị thực của nó tới
40%, do đó mang lại lợi thế bất bình đẳng to lớn về giá cho hàng xuất khẩu của Trung
Quốc. Điều đó cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp và thâm hụt cán

cân thương mại ở mức khổng lồ của Mỹ, trong đó thâm hụt với Trung Quốc
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
II_ Chính sách tỷ giá hối đối của Việt Nam
2.1. Chính sách hối đoái của Việt Nam
2.1.1. Giai đoạn trước 1988
Trước thời kỳ đổi mới nền kinh tế Việt Nam mang tính kế hoạch hóa tập trung theo
mơ hình của Liên Xơ cũ, nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động, các lĩnh vực
kinh tế, xã hội…Trên thị trường, quan hệ cung cầu, các yếu tố ảnh hưởng đến
không được xem xét. Trong giai đoạn này Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá cố
định và đa tỷ giá. Việt Nam hầu như khơng có mối quan hệ thương mại với các
nước không theo con đường chủ nghĩa xã hội do vậy chủ yếu xác lập tỷ giá giữa
VNĐ và đồng Rúp, còn với các ngoại tệ khác được xác lập khơng chính thức.
Khi Việt Nam bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ

giá khơng những khơng đáp ứng được những địi hỏi của thị trường mà cịn kìm
hãm những động lực để phát triển kinh tế, làm cho nền kinh tế sa sút và đi vào suy
thoái. Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cớ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và theo đó có sự chuyển đổi trong
chính sách tỷ giá hối đối của nước ta. Q trình chuyển đổi diễn ra theo nhiều giai


đoạn. Cũng giống như Trung Quốc và một số nước khác, trước hết để cho tỷ giá thả
nổi theo sát những diễn biến của thị trường trong những năm đầu của q trình
chuyển đổi (1989 – 1992). Sau đó thì nhà nước can thiệp và duy trì tỷ giá xung
quanh một biên độ nhất định.
2.1.2. Thời kỳ tỷ giá được nới lỏng (1989 – 1992)
18/10/1988 Hội đồng Bộ trưởng này là Chính phủ ban hành nghị định 161/HĐBT
về “Điều lệ quản lý ngoại hội” nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền về tiền tệ và phát
triển nền kinh tế quốc dân, góp phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn
hố với nước ngồi. Theo nghị định này Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý Nhà
nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Từ 10/1998 tỷ giá đồng VNĐ với khu
vực ngoại tệ chuyển đổi sẽ được xác lập cho phù hợp với thị trường và dao động
trong biên độ từ 20% - 30% so với tỷ giá thị trường.
15/3/1989 Ngân hàng Nhà nước ra thông tư số 33/NH/TT hướng dẫn thi hành
“Điều lệ quản lý ngoại hối”. Tỷ giá được điều chỉnh từ 3000 VNĐ/USD lên 3900
VNĐ/USD và tỷ giá chính thức cũng đã được điều chỉnh liên tục tăng trong các
năm 1990 – 1992. Chính sự điều chỉnh này giúp cho khả năng xuất khẩu và thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam gia tăng mạnh.
Như vậy từ 3/1989 Việt Nam đã áp dụng chế độ 1 tỷ giá, tỷ giá này do Ngân hàng
Nhà nước công bố trên cơ sở đã tổng hợp các yếu tố như lạm phát, cán cân thanh
toán quốc tế, lãi suất…Hay nói một cách khác là Ngân hàng Nhà nước đã dựa vào
quan hệ cung cầu trên thị trường để xác lập tỷ giá. Đây là động thái đánh dấu bước
ngoặt khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà

nước.
Thời gian
Tỷ giá chính Tỷ giá tự do
Chênh lệch
thức
Giá trị
Tỷ lệ %
1988
3000
5000
2000
66.6
1989
3900
4100
200
5.1
6/1990
5000
5500
500
10
12/1990
6500
700
500
7.69
6/1991
8100
8780

680
8.39
11/1991
14194
14420
226
8.39
6/1992
11138
11380
242
2.42
12/1992
10407
10520
50
0.47
(Báo cáo thống kê, tổng kết từ 1989 – 1999 của Ngân hàng Ngoại Thương Việt
Nam)
16/8/1991 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra quyết định 107/ NĐ – QĐ thành lập 2
trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Việc thành lập
2 trung tâm này đã giúp linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo thị


trường. Theo quy định tỷ giá mua vào không được vượt quá 0.5% so với tỷ giá ấn
định tại phiên giao dịch trước.
2.1.3. Thời kỳ tỷ giá cố định (1992 – 1996) (Đây cũng được coi là thời kỳ trước
khủng hoảng tài chính tiền tệ)
Sau cải cách cho đến những năm 1992, tỷ giá được nới lỏng, sự tăng giá mạnh
đồng USD trong thời kỳ này đã đưa đến một số hệ quả không tốt, dẫn đến hiện

tượng Việt Nam nhập siêu liên tục do nhu cầu phát triển trong nước, nhập khẩu các
trang thiết bị… Đây chính là lý do để Việt Nam áp dụng sang chính sách tỷ giá cố
định. Nhà nước đã có những can thiệp vào tỷ giá ngoại tệ, tỷ giá danh nghĩa gần
như là cố định. Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá mỗi ngày và xác định rõ biên
độ dao động chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do. Trong giai
đoạn trước mức chênh lệch còn ở mức cao, song ở giai đoạn này được Ngân hàng
Nhà nước điều chỉnh ở mức chưa đầy 1%
Như vậy sau năm 1992, chính sách tỷ giá hối đối được chuyển từ thả nổi linh hoạt
có kiểm sốt sang chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh. Nhà nước đã can thiệp vào
thị trường ngoại hối bằng cách mua bán ngoại tệ, có các biện pháp tăng cường kiểm
sốt ngoại tệ trôi nổi nhằm ổn định tỷ giá.
20/9/1994 thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập nhằm mục đích hình
thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các Ngân hàng thương mại được
phép kinh doanh ngoại tệ. Thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Nhà nước
sử dụng quỹ điều hòa ngoại tệ với tư cách là người mua, người bán cuối cùng để
can thiệp thị trường một cách có hiệu quả nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, chính
sách tỷ giá của Nhà nước.
12/1992
12/1993
12/1994
12/1995
12/1996
Tỷ giá hối 10720
10841
11004
11021
11040
đoái danh
nghĩa
CPI Việt 100

105.2
120.3
135.6
141.7
Nam
CPI Mỹ
100
102.6
104.9
107.6
109.8
Tỷ giá hối 10720
10992
12294
13510
13834
đoái (PPP)
(Báo cáo thống kê, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Như vậy có thể thấy việc duy trì tỷ giá hối đoái cố định quá lâu đã làm cho đồng
VNĐ ngày càng có xu hướng bị đánh giá cao hơn thực tế, đồng VNĐ đã bị lên giá
đối ngoại. Nếu dựa theo phương pháp tính PPP, giả sử lấy 12/1992 là thời điểm
gốc, tính đến 12/1996 tỷ giá hối đoái sẽ là 13834 VNĐ/USD nhưng trên thực tế chỉ
là 11040 VNĐ/USD


Chính việc đồng VNĐ bị đánh giá cao đã gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh trong
thương mại quốc tế của hàng hóa - dịch vụ Việt Nam, làm kìm hãm xuất khẩu và
đẩy mạnh nhập khẩu, tạo sức ép lớn với các ngành sản xuất trong nước.
2.3.4. Thời kỳ xảy ra khủng hoảng (1997 – 1998)
Trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng, vào tháng 2/1997 Nhà nước đã điều chỉnh tăng

tỷ giá danh nghĩa để hạn chế số nhập siêu quá lớn. Vào tháng 7/2997 cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nổ ra, có ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều quốc
gia trong đó có Việt Nam. Một loạt các đồng tiền của các nước bạn hàng bị mất giá
so với USD. Trong chính sách tỷ giá cố định ở thời kỳ trước đồng VNĐ đang bị
định giá cao thì nay lại càng tăng giá hơn.
Để giảm giá đồng VNĐ, nhà nước tiếp tục điều chỉnh tăng giá tỷ giá thêm 3 lần
trong năm 1997, 1998 nhằm khuyến khích xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Lần
điều chỉnh đầu tiên là vào 13/10/1997, Ngân hàng Nhà nước đã nới lỏng biên độ tỷ
giá mua bán ngoại tệ lên 10% so với tỷ giá chính thức. Biên độ dao động được đưa
lên 10% đã giúp cho tỷ giá biến động một cách linh hoạt hơn, phản ánh đúng mức
hơn những yếu tố thực tế ảnh hưởng tới.
Tháng
Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường tự do
Mua
Bán
1/1997
11080
11250
11340
2/1997
11090
11400
11460
3/1997
11101
11620
11650
4/1997
11105
11740

11770
5/1997
11110
11640
11660
6/1997
11119
11640
11660
7/1997
11129
11864
11710
8/1997
11144
11770
11800
9/1997
11164
12770
11800
10/1997
11175
12350
11450
11/1997
11175
12970
13030
12/1997

11175
12850
13000
(Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 1997)
Sang năm 1998 tỷ giá tiếp tục được điều chỉnh tăng lên. Vào tháng 8/1998 tỷ giá
chính thức ở mức 12998 tăng 10% so với đầu năm 1998 và biên độ giao dịch ngoại
tệ thu hẹp xuống chỉ còn là 7%
Tháng
Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường tự do
Mua
Bán
1/1998
11175
13115
13197
2/1998
11800
13254
13383
3/1998
11802
13048
13122
4/1998
11806
12987
13010


5/1998

11804
12980
13002
6/1998
11805
13030
13065
7/1998
11808
13022
13050
8/1998
12998
13877
13999
9/1998
12998
14416
14510
10/1998
12998
14041
14089
11/1998
12990
13987
13899
12/1998
12956
13890

13940
(Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 1997)
2.3.5. Cơ chế tỷ giá “thả nổi có quản lý” từ 1999 đến nay.
Qua năm 1999, nền kinh tế các nước bắt đầu phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh
tế Châu Á 1997. Chính sách tỷ giá của Việt Nam được điều chỉnh thành chính sách
thả nổi có quản lý.
25/2/1999 Ngân hàng Nhà nước ban hành 2 quyết định quan trọng đó là
64/1999/QĐ – NHNN cơng bố tỷ giá hối đoái của đồng VNĐ với các ngoại tệ và
65/1999/QĐ – NHNN quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của
các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ.
Bắt đầu từ 26/2/1999 Việt Nam đã thi hành một cơ chế điều hành tỷ giá mới: thay
cho việc cơng bố tỷ giá chính thức, hàng ngày Ngân hàng nhà nước sẽ công bố tỷ
giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (hay gọi là tỷ giá
giao dịch bình quân liên ngân hàng) của VNĐ/USD. Căn cứ theo tỷ giá này mà các
Tổng giám đốc, giám đốc các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác
định tỷ giá mua bán ngoại tệ theo nguyên tắc tối đa không quá 0.1% đối với USD,
còn đối với các ngoại tệ khác thì được phép tự xác định. Đến 10/7/2002 theo QĐ
679/2002/QĐ – NHNN thì đối với USD các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh
ngoại tệ sẽ xác định tỷ giá mới mức giao động là +/- 0.25%. Như vậy chính sách
này đã điều tiết tỷ giá trên cơ sở thị trường, phản ánh các mặt quan hệ cung - cầu
của thị trường.
26/3/1999 thống đốc Ngân hàng nhà nước ký QĐ 101/1999/QĐ – NHNN ban hành
quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nêu rõ Ngân
hàng Nhà nước là người tổ chức, giám sát và điều hành để hình thành nên một thị
trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên của thị
trường. Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành mua bán một lượng ngoại tệ trên thị
trường liên ngân hàng để điều tiết tỷ giá một cách khách quan, phù hợp với xu
hướng tự do hóa thay vì tác động tới thị giá thị trường qua tỷ giá chính thức một
cách chủ quan như trước nữa.
Với cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý mà Việt Nam áp dụng từ 1999 đến nay có một

số điểm nổi bật như:


Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá tạo quyền chủ động cho các Ngân hàng thương
mại trong việc tự quy định tỷ giá giữa VNĐ và các ngoại tệ khác không phải là
USD
Tỷ giá được công bố là tỷ giá bình quân liên ngân hàng, phán ảnh tỷ gái của đồng
VNĐ đã được hình thành dựa trên các giao dịch của thị trường và phản ánh tương
đối khách quan sức mua của VNĐ so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp chủ động trong kinh doanh, đảm bảo vai trị giám sát của nhà nước. Chính
nhu cầu của các doanh nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và tại đó cung, cầu ngoại tệ
của doanh nghiệp được thỏa mãn. Việc hình thành tỷ giá theo cơ chế này làm cho
tỷ giá được điều chỉnh một cách mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và phù hợp với thơng
lệ quốc tế, tăng sự hịa nhập thị trường.
Gọi là cơ chế “thả nổi” do thứ nhất đã được quỹ tiền tệ thế giới IMF công nhận.
Thứ hai là do Ngân hàng nhà nước khơng cơng bố tỷ giá chính thức mà chỉ thơng
báo tỷ giá giao dịch bình qn liên ngân hàng. Thứ ba là trên cơ sở tỷ giá giao dịch
bình quân liên ngân hàng mà Ngân hàng Nhà nước thông báo, các Ngân hàng
thương mại sẽ tự xác định tỷ giá của tổ chức mình trong biên độ giao động cho
phép đối với USD và tự quyền với các ngoại tệ khác,
Cơ chế có điều tiết thể hiện thứ nhất là các Ngân hàng thương mại tự xác định tỷ
giá nhưng phải dựa trên tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng với một biên độ
dao động cho phép. Thứ hai là tỷ giá bình quân liên ngân hàng là cố định theo
ngày. Và thứ ba là tỷ giá bình qn liên ngân hàng khơng được tự do thay đổi theo
quan hệ cung cầu trên thị trường liên ngân hàng mà trong giới hạn +/- 0.25% so với
ngày giao dịch trước.
Vì vậy mà chính sách tỷ giá của Việt Nam sau 1999 được gọi là cơ chế thả nổi có
điều kiện.
2.2. Tac dong
Trong nền kinh tế thị trường giá cả là yếu tố quan trọng tác động đến lợi ích kinh tế

cảu mọi thành viên trong xã hội. Nếu xét trên lợi ích quốc gia trong nền kinh tế thị trường
mở cửa và hội nhập, khi thương mại và dòng vốn quốc tế gia tăng mạnh mẽ, thì tỷ giá là
yếu tố quan trọng tác động đến lợi ích của mỗi quốc gia trong giao lưu kinh tế quốc tế. Tỷ
giá thay đổi sẽ làm thay đổi cán cân thương mại, ảnh hưởng đến sự di chuyển của dịng vốn
quốc tế và qua đó ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia.
Trước hết là tác động của chính sách hối đối lên lạm phát, dấu hiệu đầu tiên để
nhận thấy một nền kinh tế phát triển nóng. Từ cuối năm 2007, lạm phát tăng cao là dấu hiệu
của nền kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng nóng. Trong khi những biện pháp kìm chế
lạm phát hiện nay như công cụ lãi suất, và nghiệp vụ thị trường mở đã khơng cịn phát huy
được hiệu quả thì chính sách về tỷ giá hối đối được coi là công cụ hữu hiệu nhất.


Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách
duy trì một tỷ giá hối đoái ổn định nhằm giảm nhập siêu, hỗ trợ xuất khẩu, giúp điều chỉnh
cung cầu trong nước. Chính sách này của Ngân hàng nhà nước đã đem lại một số kết quả
nhất định. Tuy nhiên, việc neo giá tiền đồng vào USD đã khiến cho sức mua của VND giảm
mạnh khi USD mất giá do nền kinh tế Mỹ đang có nhiều biến động. Điều này gây ra tăng
giá tiêu dùng trong nước, một phần đẩy lạm phát tăng lên cao hơn. Do đó, theo các chuyên
gia kinh tế, Chính phủ cần xem xét sự cần thiết phải linh hoạt hơn trong trong tỷ giá hối
đoái. Tỷ giá của tiền đồng so với USD cần có phản ứng nhanh hơn trước sự lên xuống của
đồng USD, không nên giữ tỷ giá hối đoái cố định bất chấp những áp lực của lên xuống giá
ngoại tệ. Việt Nam cần phải để một số những áp lực bên ngoài được phản ánh trong tỷ giá
hối đoái của tiền đồng như các nước láng giềng đã làm. Điều này sẽ tạo nên hai tác động,
làm giảm mức độ lạm phát, và giảm yêu cầu đối với Ngân hàng Nhà nước trong việc mua
một lượng lớn tiền mặt, khiến mở rộng cung tiền.
Sau khi gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang ồ ạt đổ vào Việt Nam.
Năm 2007, tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam đạt 20,3 tỉ USD, vượt xa khỏi những dự
đoán dự báo về lượng vốn này. Năm 2008, lượng vốn FDI ước tính đạt hơn 40 tỷ USD. Do
sự tăng nhanh của luồng vốn từ bên ngoài cộng thêm nhập siêu quá lớn khiến nhu cầu
ngoại tệ tăng cao, Chính phủ đã chọn giải pháp tránh sự lên giá của của đồng nội tệ so với

đô la Mỹ bằng việc phát hành đồng nội tệ để mua đô la Mỹ, tăng dự trữ ngoại hối. Chính
sách trung hịa hóa khơng thực sự hiệu quả và một lượng tiền lớn đã được đưa vào lưu
thông là một phần nguyên nhân gây ra lạm phát. Tổng phương tiện thanh tốn và tín dụng
từ hệ thống ngân hàng gia tăng nhanh chóng, đẩy giá cả hàng tiêu dùng lên cao hơn.
Mặt khác, trong 8 tháng đầu năm 2008, Chính phủ đã trải qua 3 lần điều chỉnh lãi
suất, đồng thời vẫn áp dụng các cơng cụ chính sách thắt chặt tiền tệ ( thắt chặt cung tiền,
thắt chặt tín dụng), áp đặt lãi suất trần mang tính hành chính tuy có mang lại một số hiệu
quả nhất định nhưng không phải là biện pháp hữu hiệu trong việc điều chỉnh chính sách hối
đối. Do bị áp đặt các biện pháp hành chính, các Ngân Hàng Thương Mại thiếu thanh
khoản, nguy cơ khủng hoảng thanh khoản xảy ra, Ngân hàng Nhà nước xoa dịu thị trường
bằng cách bơm lại tiền vào nền kinh tế , đẩy lượng cung tiền tăng lên khiến lạm phát lại
bùng nổ cao hơn.
Hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại cũng chịu tác động rất lớn từ tỷ
giá hối đoái và những chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đối. Theo thống kê của Bộ Công
thương, mức nhập siêu của 7 tháng vừa qua của năm 2008 lên tới 15,01 tỷ USD chiếm hơn
40% kim ngạch xuất nhập khẩu, gấp 2,4 lần so với cùng kỳ năm trước. Trong tình hình
nhập siêu như hiện nay, việc điều hành linh hoạt tỷ giá hối đối có tác động khơng nhỏ tới
hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Về nguyên lý, biến động tỷ giá hối đối có tác


dụng hai mặt, đó là nếu tích cực sẽ thúc đẩy xuất khẩu. Chính vì vậy, cần có sự điều tiết
hợp lý đối với tỷ giá để có được nguồn vốn đầu tư nước ngồi và khuyến khích xuất khẩu.
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng một số công cụ để điều tiết
tỷ giá thông qua quy định về dự trữ bắt buộc hay nghiệp vụ thị trường mở nhưng nhiều ý
kiến cho rằng, việc sử dụng liều lượng các chính sách này, cũng như hiệu quả thu được từ
các chính sách khơng như mong đợi. Do vậy, thâm hụt thương mại trong thời gian qua là
khó tránh khỏi và đang ở mức báo động. Xem xét các dữ liệu thơng qua việc phân tích tỷ
giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực, Vụ Chiến lược phát triển, Ngân hàng Nhà
nước chỉ ra rằng, thực chất tiền đồng không hề tăng giá so với đồng USD kể từ năm 2000.
Bởi, nếu lấy năm 2000 làm gốc thì tỷ giá VND/USD danh nghĩa tăng khoảng 13,7%, có

nghĩa là đồng Việt Nam giảm giá 13,7%. Trong khi đó tỷ giá hối đối thực cho thấy, đồng
Việt Nam lại đang tăng giá khoảng 6,1% so với đồng USD. Mặc dù tỷ giá danh nghĩa tăng
nhưng lạm phát của nước ta từ năm 2004 đến nay luôn tăng cao hơn tốc độ lạm phát của
Mỹ. Điều này cho thấy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ là bất lợi, mặc dù tăng
về kim ngạch nhưng lại giảm về lợi nhuận xuất khẩu. Trong khi đó, theo các chuyên gia tài
chính, nếu tính trong một rổ tiền tệ gồm 19 loại đồng tiền, kể cả đồng USD, tỷ giá hối đoái
danh nghĩa đồng Việt Nam tăng 2%, tỷ giá thực hiệu quả tăng 11,9%, tức là đồng Việt Nam
đang mất giá 11,9% so với rổ tiền tệ. Điều đó cho thấy, tỷ giá hối đối hiện nay đang có lợi
cho xuất khẩu hơn là nhập khẩu. Kết luận này có vẻ như ngược với kết quả thực tế hiện nay
khi thâm hụt thương mại đang tăng. Có thể lý giải vấn đề này bằng hai cách: Hoặc là xuất
khẩu của Việt Nam chủ yếu thanh toán bằng USD, trong đó rủi ro hối đối hồn tồn do
phía doanh nghiệp Việt Nam chịu nên độ co giãn tỷ giá nhập khẩu với giá hối đoái rất thấp.
Hoặc là do nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư gián tiếp, trực tiếp, kiều hối,
và nguồn vốn ODA đổ vào quá lớn làm tăng cung tiền dẫn đến tăng nhu cầu nhập khẩu, đặc
biệt đối với hàng tiêu dùng, trong khi hàng rào thuế quan các nước giảm đáng kể.
Mục tiêu xuất khẩu của nước ta trong năm 2008 là đạt khoảng 58,6 tỷ USD, tăng
10 tỷ USD so với năm 2007. Trong bối cảnh tỷ giá đồng VND/USD và lãi suất huy động có
chiều hướng tăng cao đã gây bất lợi cho xuất khẩu. Để kịp thời chia sẻ với các doanh
nghiệp nhằm khuyến khích sản xuất, đẩy nhanh xuất khẩu, bên cạnh các biện pháp như tiết
giảm chi phí sản xuất - kinh doanh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư xuất khẩu,
việc điều hành linh hoạt các chính sách tỷ giá sẽ góp phần thực hiện thành cơng mục tiêu
này. .

III_ Kinh nghiệm cho Việt Nam
3.1. Bài học rút ra từ chính sách hối đối của Trung Quốc


3.2. Hướng đi chính sách hối đối của Việt Nam

3.2.1. Bài học rút ra từ chính sách hối đối của Trung Quốc

Sự thành công của Trung Quốc trong công cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế
trong 20 năm qua có phần đóng góp quan trọng của cách điều hành linh hoạt và chủ
động chính sách tỷ giá hối đối của Chính phủ Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc
chưa phải là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển hồn thiện, nhưng thực
tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong những năm qua đã thể hiện
sự phân tích sâu sắc những bài học của nền kinh tế thị trường từ các nước phát triển
và vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của Trung Quốc.
Do tính chất và nhiều điều kiện tương đồng trong quá trình phát triển của nền
kinh tế Trung Quốc và Việt Nam; những kinh nghiệm của Trung Quốc sẽ là những
bài học thực sự có ý nghĩa đối với Việt Nam để tiếp tục đẩy nhanh quá trình tăng
trưởng bền vững.
Từ thực tiễn của Trung Quốc có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam trong điều hành chính sách tỷ giá hối đối như sau:
- Chính sách tỷ giá là 1 bộ phận của chính sách tiền tệ và nằm trong mối quan hệ của hệ thống các
chính sách kinh tế, do đó chỉ có thể đạt được những mục tiêu của mình khi quá trình điều hành
được đặt ra trong mối quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế. Cơ chế điều hành tỷ giá hối
đoái cần phải hướng đến thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước, cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới phát triển kinh tế bền vững. Kinh nghiệm của
Trung Quốc cho thấy chính sách tỷ giá ln gắn liền với chính sách quản lý ngoại hối: Nhà nước
quản lý ngoại hối chặt chẽ, kết hợp với quản lý dự trữ ngoại hối và ngoại tệ của quốc gia để đảm
bảo sử dụng các nguồn ngoại tệ có hiệu quả, góp phần ổn định tỷ giá và thực hiện cân đối cán cân
thanh toán quốc tế trong các thời kỳ khác nhau.
Đối với Việt Nam, chính sách tỷ giá phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mơ
khác. Cụ thể:
+ Hoàn chỉnh cơ chế quản lý giao dịch ngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc điều hành thị trường
ngoại tệ.
+ Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các chính sách và giải pháp bộ phận trong lĩnh vực tiền tệ (như
lãi suất, cung ứng vốn) nhằm tác động có hiệu quả vào nội tệ từ nhiều góc độ.



+ Đưa dần các công cụ quản lý tiền tệ trên thế giới vào áp dụng thực tiễn. Bên cạnh đó, việc hiện
đại hóa hệ thống các tổ chức tài chính cần xúc tiến với mục tiêu phát triển thị trường tài chính nói
chung để nâng cao năng lực, mở rộng phạm vi điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.
+ Phối hợp hiệu quả với các chính sách vĩ mơ khác như ngoại thương, cán cân ngân sách, thuế, tín
dụng, thu nhập người lao động.
Ngồi ra, cần xây dựng chính sách tỷ giá trên cơ sở hội nhập thị trường tiền tệ trong nước với quốc
tế nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính hạn chế và tránh nguy cơ tụt hậu.
- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái phải đảm bào hướng đến mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách
khuyến khích xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Một thành công
lớn trong điều hành tỷ giá ở Trung Quốc là các biện pháp cải cách tỷ giá hối đoái đã tạo ra một cơ
chế bảo vệ lợi ích cho nhà xuất khẩu.

- Tuy nhiên, cần chú ý là, mục tiêu của chính sách tỷ giá và các chính sách kinh tế
khác, trong đó phải tính đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn thường
có sự mâu thuẫn với nhau. Một sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong điều hành
các chính sách có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho chính sách tỷ giá giảm thiểu
được những hậu quả rủi ro đối với nền kinh tế mà nó có thể gây ra. Điều hành tỷ
giá xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế; có nghĩa tại một thời điểm phải xác
định rõ yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có thể hy sinh để đạt lợi ích tổng thể
tối đa.
Ví dụ, quyết định tăng giá nội tệ để giảm nhẹ sức ép trả nợ nước ngoài của doanh
nghiệp (Chính phủ) và chấp nhận sự suy giảm tạm thời đối với xuất khẩu nếu điều
này ít tạo khó khăn hơn cho nền kinh tế.
- Đối với Trung Quốc, cải cách tỷ giá hối đoái là điều kiện tiên quyết để cải cách thương mại, đặc
biệt trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế. Nếu khơng có cải cách tỷ giá hối đối thì cải cách
thương mại sẽ không hiệu quả.

- Việc ổn định và nâng cao uy tín đồng tiền quốc gia sẽ có tác dụng khuyến khích
các nhà đầu tư trong và ngồi nước đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Như đã
phân tích kinh nghiệm Trung Quốc, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mơ cũng

như uy tín của đồng tiền quốc gia trên thị trường quốc tế sẽ khiến các nhà đầu tư
nước ngoài yên tâm đầu tư vốn lớn vào các dự án của quốc gia đó. Mơi trường hối


đối ổn định sẽ giúp quốc gia đó thu hút được các nguồn vốn xuất khẩu trên thế
giới.
Nắm vững bài học đó, chúng ta cần khơng ngừng nâng cao uy tín của đồng Việt Nam trên cơ sở
duy trì sự tương quan hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại của nội tệ, hướng dần tới mục tiêu
đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Một đồng tiền mất uy tín tất yếu làm thương tổn đến tích
lũy, đầu tư nội địa, tăng nguy cơ lạm phát, tạo điều kiện cho hội chứng “ngoại tệ hóa.

- Ngồi ra, sự thành cơng trong điều hành chính sách hối đối của Trung Quốc
cũng cho chúng ta một số gợi ý:
+ Thời điểm và mức điều chỉnh tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết định đối
với hiệu quả của chính sách tỷ giá.
+ Hàm lượng của các yếu tố thị trường (như: Quan hệ cung - cầu về ngoại hối, sở
thích, chính sách, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ..) phản ánh trong tỷ
giá càng cao thì khả năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao và chống đỡ
được với các cú sốc đối với nền kinh tế càng lớn.
+ Chính sách tỷ giá có khả năng dự kiến những diễn biến của tỷ giá cao sẽ tạo khả
năng ổn định tương đối dài hạn và giảm thiểu được những rủi ro hối đối, đẩy
mạnh thu hút đầu tư nước ngồi - một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
các nước đang phát triển trong quá trình cơng nghiệp hố.
+ Chính sách phá giá đồng nội tệ ở các nước đang phát triển có thể mang lại nhiều
lợi ích hơn và phải trả giá ít hơn, xét cả về ngắn hạn và dài hạn (tạo lợi thế so sánh
mới, tăng sức cạnh tranh quốc tế, mở rộng nhanh quan hệ ngoại thương, quan hệ
kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
nhanh…).
Tính nhạy cảm và khả năng phản ứng của các nhà điều hành chính sách ln là
yếu tố hàng đầu quyết định sự thành bại của chính sách tỷ giá - một loại chính sách

kinh tế phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố dự kiến và rủi ro trong quá trình
biến động, đặc biệt là sự liên quan chặt chẽ của nó với những yếu tốt rủi ro có tính
chất chính trị. Vì vậy, kinh nghiệm vẫn ln ln chỉ là kinh nghiệm, nó chỉ thực


sự có giá trị khi những người phân tích và khai thác kinh nghiệm tìm được lối đi
riêng trong điều kiện cụ thể của mình.
3.1.

Hướng đi chính sách tỉ giá hối đoái của Việt Nam

Việt Nam đã trải qua siêu lạm phát vào những năm 80, và gần đây lạm phát có xu
hướng trở lại từ năm 2004 do nhiều nhân tố trong và ngồi nước. Để kiểm sốt lạm
phát, Việt Nam đã cố định đồng nội tệ của mình với đồng tiền của 1 quốc gia lớn
và có tỉ lệ lạm phát thấp là Hoa Kỳ. Liệu đó có phải là 1 lựa chọn đúng đắn?
Một tỉ giá hối đối hợp lí là hết sức cần thiết đối với sự ổn định và tăng trưởng
kinh tế ở các quốc gia đang phát triển, đặc biệt đối với Việt Nam-đất nước vẫn
đang trên đường cải cách kinh tế và tăng tốc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới.
Phần dưới đây sẽ bàn luận để tìm ra một chế độ tỉ giá phù hợp cho Việt Nam.
3.2.1. Cố định hay thả nổi
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua đồng tiền nội tệ và đồng tiền ngoại tệ. Nó
vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện cung cầu ngoại hối. Tỷ giá
hối đoái là cơng cụ, là địn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất
nhập khẩu và tình hình sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động
một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hố, tình trạng tài
chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước.
Ở nhiều nước, đặc biệt là nước có nền kinh tế đang chuyển đổi, tỷ giá hối đối là
cơng cụ quan trọng cho chính sách tiền tệ
Chế độ tỷ giá hối đoái ở mỗi nước và mỗi thời kỳ có thể khác nhau, song về cơ bản
là chế độ tỷ giá thả nổi theo đó thị trường quy định những biến động của tỷ giá hối

đối, hoặc ngược lại hồn tồn là chế độ tỷ giá cố định theo đó nhà nước sẽ can
thiệp để tỷ giá hối đối giữa động tiền của nước mình và đồng tiền của ( các ) nước
khác không đổi, hoặc là một chế độ nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định đó.
Trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, giá trị của một đồng tiền được phép giao động
trên thị trường ngoại hối, tỷ giá tự do biến động hàng ngày cũng với những biến
động của thị trường góp phần làm cán cân thanh tốn liên tục ở trạng thái cân bằng.
Nói chung các nhà kinh tế đều cho rằng trong phần lớn các trường hợp chế độ tỷ
giá thả nổi tốt hơn chế độ tỷ giá cố định bởi nó nhạy với thị trường ngoại hối. Điều
này cho phép làm dịu tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh nước ngoài.
Thêm vào đó nó khơng bóp méo các hoạt động kinh tế.


Còn trong chế độ tỷ giá cố định hay còn gọi là tỷ giá hối đối neo thì giá trị của một
đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với một rổ các đồng tiền
khác, hoặc một thước đo giá trị khác như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo
tăng hoặc giảm, giá trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử
dụng trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định được gọi là đồng tiền cố định.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là một chế độ tỷ giá nằm giữa hai chế độ thả nổi
và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đối thả nổi tốt hơn nhưng trong
thực tế khơng có đồng tiền nào đuợc thả nổi hồn tồn vì nó quá bất ổn. Mặt khác
tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định song việc thực hiện các chính
sách nhằm giữ tỷ giá hổi đối cố định lại khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ
tỷ giá này làm cho chính sách tiền tệ trở nên vơ hiệu lực. Chính vì thế nên hầu hết
các đồng tiền trên thế giới được sử dụng chế độ tỷ giá hổi đoái thả nổi trong đó có
sự can thiệp của chính phủ để tỷ giá khơng hồn tồn phản ứng với thị trường.
Để trả lời cho câu hỏi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái nào và mức độ linh hoạt của
chế độ tỷ giá đó tới đâu, nhà kinh tế học Frankel cho rằng: “ Khơng có một chế độ
tiền tệ duy nhất nào là đúng cho tất cả các quốc gia ở mọi thời điểm. Việc lựa chọn
một chế độ tỷ giá nên dựa vào những trường hợp cụ thể mà các quốc gia đang phải
đối mặt”.

Xét đến Việt Nam, trong thời gian gần đây nền kinh tế có nhiều hạn chế, bất cập và
thách thức khơng nhỏ.Lạm phát chính là vấn đề nổi cộm nhất hiện nay, dự báo lạm
phát trong năm 2008 tiếp tục ở mức cao và có thể lên tới 20%.Bên cạnh đó cơng
nghiệp tăng trưởng chậm lại, nhập siêu lớn ( mức nhập siêu 5 tháng đầu năm 2008
là 14,4 tỷ USD chiếm 61,6% kim ngạch xuất khẩu), chi phí sản xuất cũng như giá
thành các dịch vụ tăng lên do chịu ảnh hưởng của giá cả nguyên liệu thế giới tăng,
và thiên tai dịch bệnh diễn biến phức tạp làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế. Tuy nhiên, nền kinh tế cũng có những điểm nổi bật đáng lưu ý. Kim ngạch xuất
khẩu 5 tháng đầu năm đạt 23,4 tỷ USD tăng 27% so với cùng kỳ, trong đó có 8
nhóm hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD bao gồm dầu thô, than đá, hàng dệt
may, đồ gỗ, giày dép, thuỷ sản, gạo và cà phê.Hoạt động thương mại cũng diễn ra
sôi nổi trên khắp cả nước với tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu
dùng xã hội tăng tới 29,5% so với cùng kỳ năm trước.Nổi bật nhất là đàu tư nước
ngoài (FDI) đạt mức 14,7 tỷ USD, gấp hơn 2,6 lần cùng kỳ năm trước. Điều đó
chứng tỏ bất chấp những khó khăn của nền kinh tế, Việt Nam vẫn là một điểm đến
đầu tư hấp dẫn.
Với điều kiện hiện tại về kinh tế- xã hội của Việt Nam thì kiểm sốt lạm phát hiện
nay đang là mục tiêu cấp bách hàng đầu của chính phủ. Ngồi các ngun nhân như
thiên tai dịch bệnh, đầu tư không hiệu quả, giá yếu tố sản xuất tăng… cịn có một
ngun nhân quan trọng tác động đến tình hình lạm phát hiện nay đó là Việt Nam
cịn bất cập trong các chính sách đối ứng với các cú sốc từ bên ngồi trong đó có


chính sách tỷ giá. Định hướng chính sách tỷ giá không phù hợp với biến động của
kinh tế thế giới dẫn đến kết quả là lượng cung tiền tăng đột biến, chi phí cho sản
xuất trong nước tăng cao. Đây là hai nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao tại Việt
Nam. Thêm vào đó, xét về thực trạng tài chính thì tình trạng thâm hụt ngân sách
vẫn cịn nghiêm trọng và khó suy giảm trong tương lai gần do nhu cầu chi ngân
sách ngày một tăng. Hệ thống ngân hàng nhìn chung cịn yếu kém và nguồn dự trữ
ngoại hối - một cơng cụ can thiệp vào tỷ giá cịn thấp.Khi cán cân thương mại cịn

ở tình trạng nhập siêu thì mức dự trữ ngoại tệ khó có thể cải thiện rõ rệt vào những
năm tới..Ngoài ra các giải pháp điều tiết kinh tế thiếu tính đồng bộ, cộng với hệ
thống thơng tin dự báo lạc hậu, thiếu tính khoa học đã hạn chế phạm vi tác động
của chính sách kinh tế vĩ mơ đến tỷ giá.
Trong bối cảnh đó, một chế độ tỷ giá hối đoái cố định sẽ không hỗ trợ cho một nền
kinh tế lệ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam. Thực trạng tài chính vừa đòi
hỏi một chế độ tỷ giá thả nổi vừa ủng hộ một chế độ tỷ giá cố định.Việc thực hiện
một cơ chế tỷ giá linh hoạt có sự kiểm soát của nhà nước là sự lựa chọn phù
hợp.Trong thực tế, Việt Nam đã ổn định được đồng VND so với đồng USD bằng
cách áp dụng chính sách tỷ giá hối đối giới hạn biên độ giao động, theo đó VND
được phép giao động trong một biên độ hẹp. Ta có thể thấy biên độ giao động này
dưới bảng sau:
Bảng: Biên độ giao động của tỷ giá trong thời gian qua
Năm
01/07/2002
31/12/2006
24/12/2007
07/03/2008

Mở rộng biên độ
0,15%
0,25%
0,25%
0,25%

Biên độ mới
±0,25%
±0,50%
±0,75%
±1,00%


Việc tăng cường linh hoạt tỷ giá và tăng giá Việt Nam đồng ở thời điểm hiện nay là
phù hợp do một số nguyên nhân sau:
- Tỷ giá linh hoạt giúp hạn chế tăng cung tiền, tác nhân gây lạm phát trong
thời gian vừa qua:
Khi Việt Nam gia nhập WTO, các chính sách được bổ sung sửa đổi cho phù hợp
với những hiệp định ký kết, nền kinh tế mở cửa hơn khiến lượng vốn đầu tư vào
nước ngoài tăng đột biến. Cung ngoại tệ tăng, về nguyên tắc, VND sẽ lên giá để tạo
điểm cân bằng.Tuy nhiên Ngân hàng nhà nước Việt Nam mua lại lượng ngoại tệ
này với mục đích kìm giá của VND với đông USD thấp hơn điểm cân bằng nhằm
nâng cao tính cạnh tranh của của hàng xuất khẩu về mặt giá cả.Giữ VND yếu là
một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu, tuy nhiên mặt trái của chính sách này là


do phải tung VND ra mua khối lượng ngoại tệ lớn nên lượng cung tiền của Việt
Nam từ năm 2005 đến nay tăng 135%.Đây là tác nhân quan trọng đối với lạm phát
trong thời gian vừa qua.Nếu linh hoạt tỷ giá thì khi tỷ giá thị trường thích hợp Ngân
hàng nhà nước sẽ quyết định mua USD và sẽ được lợi khi bỏ ra số lượng VND ít
hơn để mua USD bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.
- Tỷ giá linh hoạt giúp VND theo kịp phản ứng của thị trường khi USD đang
mất giá mạnh trên toàn cầu:
Thời gian gần đây đồng USD mất giá đáng kể ( trung bình khoảng 15%) so với các
đồng ngoại tệ mạnh khác như EURO, JPY, GBP, CNY.Tuy nhiên ở Việt Nam, tỷ
giá VND hầu như không biến đổi nhiều so với USD( tính bình qn năm 2008 so
với năm 2007 tỷ giá hối đoái tăng khoảng 0,6%).Qua việc neo tỷ giá, VND cũng
mất giá khoảng 15% so với các ngoại tệ mạnh khác.Mặt khác, sản xuất tại Việt
Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào
nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc…, do đó sự
mất giá của USD trên thế giới hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt
hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng USD là nguyên nhân chủ yếu dẫn

đến tăng giá thành sản xuất, kéo theo giá cả hàng hoá tăng cao ở Việt Nam.Chính
sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng lại làm tăng giá thành của
hàng nhập khẩu, khiến chi phí sản xuất trong nước tăng và cán cân thương mại
thâm hụt lớn.Do vậy, nếu tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn và VND mạnh hơn sẽ phản
ánh đúng hướng biến động của thị trường thế giới.
- Chính sách tỷ giá linh hoạt, tăng giá VND giúp sang lọc nguồn vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả nguồn vốn
vào:
Như đã nói ở trên, VND bị neo cứng nhắc với USD đang mất giá toàn diện trên thế
giới là một trong những nguyên nhân chính gây ra chi phí nhập khẩu đầu vào
cao.Nếu linh hoạt tỷ giá hơn nữa thì VND sẽ lên giá, vừa chống lạm phát, vừa có
nhiều tác dụng tích cực khác.Những nhà đầu tư nước ngồi đang giữ vốn bằng
VND lên giá sẽ khơng có ý định rút vốn ra khỏi Việt Nam.Măt khac, trong điều
kiện nền kinh tế Việt Nam chưa hấp thu hiệu quả dịng vốn đầu tư từ nước ngồi
vào, VND tăng giá sẽ có thể làm giảm lượng ngoại tệ chảy vào Việt Nam.Nó có tác
dụng chọn lọc nguồn đầu tư lâu dài thực sự có hiệu quả cao, hạn chế được những
nguồn ngắn hạn mang tính đầu cơ rủi ro lớn.Tất nhiên về dài hạn, Việt Nam sẽ có
chính sách phù hợp để thu hút vốn đầu tư nước ngồi khi kinh tế vĩ mơ ổn định và
lạm phát nằm trong tầm kiểm sốt.
- Chính sách tỷ giá linh hoạt hơn nữa tạo cơ hội phát triển các nghiệp vụ phái
sinh nhằm phòng ngừa rủi ro khi giao dịch thanh tốn quốc tế và đầu tư nước
ngồi.


×