Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

báo cáo thực tập tổng hợp khoa quản trị kinh doanh tại TẠI LÀNG NGHỀ CHÀNG SƠN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THẠCH THẤT THÀNH PHỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.8 KB, 53 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG ĐÔ
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
o0o
BÁO CÁOTHỰC TẬP TỔNG HỢP
Đề tài
PHÁT TRIỂN KINH DOANH ĐỒ GỖ THỦ CÔNG MỸ
NGHỆ TẠI LÀNG NGHỀ CHÀNG SƠN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THẠCH THẤT THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Giảng viên hướng dẫn: NCV.Nguyễn Thanh Cừ
Sinh viên thực hiện: Chu Huyền Trag
Lớp QTDN-K17
HÀ NỘI 6/ 2014
MỤC LỤC
2
DANH MỤC BẢNG BIỂU


3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các làng nghề
truyền thống ở Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp cho GDP để phát triển
kinh tế của đất nước nói chung phát triển kinh tế nông thôn nói riêng. Nhiều
làng nghề truyền thống hiện nay đã được khôi phục, đầu tư phát triển với quy
mô và kỹ thuật cao hơn, hàng hóa được cải thiện đáng kể và ngày càng đa
dạng về mẫu mã và chất lương, không những phục vụ nhu cầu trong nước mà
còn cho xuất khẩu với giá trị lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn
đó còn tồn tại một số thách thức đặt ra đối với các làng nghề trong quá trình
hội nhập là phát triển theo hướng bền vững, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường đòi hỏi các làng
nghề phải vượt qua để tồn tại, nhất là ở giai đoạn kinh tế còn khó khăn như


hiện nay. Đó chính là những vấn đề cơ bản trong việc phát triển kinh doanh các
sản phẩm của các làng nghề. Và các sản phẩm đồ gỗ thủ công mỹ nghệ tại các
làng nghề trên địa bàn huyện Thạch Thất thành phố Hà Nội cũng không phải là
một ngoại lệ.
Nhận thấy những thách thức trên trong quá trình phát triển của các làng nghề
trên địa bàn huyện Thạch Thất, em quyết định nghiên cứu đề tài: “Phát triển
kinh doanh các sản phẩm đồ gỗ thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề trên địa
bàn huyện Thạch Thất thành phố Hà Nội” để tìm hiểu về thực trạng làng nghề
đồ gỗ thủ công mỹ nghệ ở Thạch Thất, trong đó chú trọng đi sâu vào làng nghề
truyền thống ở Chàng Sơn, từ đó tìm ra hướng đi đúng trong việc phát triển
kinh doanh sản phẩm, giúp đỡ một phần nào cho cơ quan quản lý địa phương
có cơ sở để đưa ra những chính sách quản lý phù hợp.
. Bài báo cáo gồm 3 chương với nội chính sau:
Chương 1: Tổng quan về vai trò và các nhân tố tác đông tới làng nghề.
4
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh doanh đồ gỗ thủ công mỹ nghệ của các
làng nghề trên địa bàn huyện Thạch Thất nói chung và xã Chàng Sơn nói
riêng.
Chương3 : Phương hướng và những giaỉ pháp phát triển.
. Qua đề tài này em mong muốn góp phần nhỏ vào viêc giúp làng nghề truyền
thống Chàng Sơn ngày một phát triển, thị trường ngày càng mở rộng không chỉ
trong nước mà còn vươn ra thị trường thế giới.Trong quá trình kiến tập em đã
nhận được hợp tác giúp đỡ nhiệt tình từ đảng ủy, ủy ban nhân dân xã Chàng
Sơn về số liệu cũng như ý kiến góp ý của các hộ dân thuộc khu vực làng nghề
xã Chàng Sơn. Đặc biêt, là sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo
NGUYỄN THANH CỪ đã giúp em hoàn thành báo cáo kiến tập này.
Với kiến thức thực tế còn chưa sâu nên bài viết của em không tránh khỏi
những thiếu xót rất mong nhận được sự thông cảm và ý kiến đóng góp của
thâỳ để chuyên đề này được hoàn thiên hơn.
Em xin chân thành cám ơn!

Sinh
viên
Chu Huyền Trang.
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC
ĐÔNG TỚI LÀNG NGHỀ
1.1. Khái niệm và phân loại làng nghề
1.1.1 Khái niệm:
Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, hầu hết dân cư sống ở vùng nông thôn đều
có hoạt động thêm một số nghề thủ công với mục đích ban đầu sản xuất ra một
số hàng gia dụng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của hộ gia đình
mang tính chất tự cung tự cấp trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có.
Nhưng qua một quá trình dài phát triển do có sự khác nhau về tay nghề và kinh
nghiệm tích luỹ được ở từng địa phương nhất định đã có sự chuyên môn hoá
và các sản phẩm làm ra bắt đầu đưa ra thị trường trao đổi như những loại hàng
hoá. Đó là quá trình chuyên môn hoá lâu đời và các sản phẩm của địa phương
đó không những bền đẹp mà có giá thành rẻ nên được xã hội chấp nhận. Theo
quan điểm chung, các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở địa phương
nào đó được gọi là nghề khi nào phải tạo ra được một khối lượng sản phẩm
chiếm lĩnh thị trường thường xuyên và những người sản xuất, hoặc hộ sản xuất
đó lấy nghề đang hành làm nguồn thu chủ yếu thì mới được xem là có nghề.
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thống về “làng nghề”. Theo giáo
sư Trần Quốc Vượng thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối
tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm
sứ, làm tương song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp
thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ
chức), có ông trùm, ông cả cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có
quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất
thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng
thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng

và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị
trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước
ngoài.
6
Một làng được gọi là làng nghề khi hội tụ 2 điều kiện sau:
- Có một số lượng tương đối các hộ cùng sản xuất một nghề;
- Thu nhập do sản xuất nghề mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu
nhập của làng.
Như vậy, không phải bất kỳ làng nào có hoạt động ngành nghề cũng gọi là làng
nghề mà cần đáp ứng một số tiêu chuẩn nhất định.
1.1.2 Phân loại làng nghề
Do đặc tính nông nghiệp và quan hệ làng xã Việt Nam, các ngành nghề thủ
công được lựa chọn và dễ phát triển trong quy mô cá nhân rồi mở rộng thành
quy mô gia đình. Dần dà, các nghề thủ công được truyền bá giữa các gia đình
thợ thủ công, dần được truyền ra lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều
làng gần nhau theo nguyên tắc truyền nghề. Và bởi những lợi ích khác nhau do
các nghề thủ công đem lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề
đem lại lợi ích nhiều thì phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu
quả thấp hay không phù hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu
hình thành nên những làng nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó,
như làng gốm, làng chiếu, làng lụa, làng chạm gỗ, làng đồ đồng
1.1.2.1 Tiêu chí phân loại làng nghề
Cũng như phân loại nghề, việc phân loại làng nghề gặp nhiều khó khăn bởi
tính đa dạng về quy mô, lĩnh vực và lịch sử hình thành; có thể phân loại làng
nghề theo các tiêu chí sau:
a) Theo lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề:
- Làng nghề truyền thống;
- Làng nghề mới.
b) Theo ngành nghề sản xuất kinh doanh:
- Làng nghề TTCN như: dệt, gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ.v.v

- Làng nghề công nghiệp cơ khí, chế tác như: chế tác vàng bạc, dát vàng, gia
công tái chế sắt thép.v.v
- Làng nghề xây dựng;
7
- Làng nghề dịch vụ.
c) Theo quy mô làng nghề:
- Làng nghề quy mô lớn, lan tỏa, liên kết nhiều làng làm cùng một nghề hoặc
cùng một không gian địa lí lãnh thổ, tạo thành vùng nghề hoặc xã nghề ở đó
các làng nghề, có quy mô lao động phi nông nghiệp rất lớn, không chỉ với lực
lượng lao động tại chỗ mà còn thu hút nhiều lao động đến làm thuê;
- Làng nghề quy mô nhỏ, là trong phạm vi một làng theo địa giới hành chính.
Ở các làng nghề này thường hoạt động kinh doanh một ngành nghề phi nông
nghiệp, được truyền nghề theo phạm vi dòng tộc
d) Theo loại hình kinh doanh của làng nghề có tính phổ biến ở Việt Nam:
- Các làng nghề truyền thống chuyên doanh một chủng loại sản phẩm hàng
hoá;
- Các làng nghề kinh doanh tổng hợp một số sản phẩm truyền thống;
- Các làng nghề vừa chuyên doanh các sản phẩm truyền thống vừa phát triển
các ngành nghề mới như dịch vụ, xây dựng. Loại làng nghề này phát triển
mạnh trong những năm gần đây.
e) Theo tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề:
- Các làng nghề vừa sản xuất nông nghiệp vừa kinh doanh các ngành nghề phi
nông nghiệp;
- Các làng nghề thủ công chuyên nghiệp;
- Các làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu.
1.1.2.2 Các tiêu chí xác định làng nghề
Làng nghề được công nhận (theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn) phải đạt 03 tiêu chí sau:
(1) Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành
nghề nông thôn;

(2) Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm
đề nghị công nhận;
(3) Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
8
1.2 Kinh doanh các làng nghề
Việc sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề không chỉ
còn mang tính chất tự cung tự cấp như thời trước nữa mà nó đã bắt đầu tiến xa
hơn trên con đường phát triển thương mại và kinh doanh.
Hiện nay các làng nghề không chỉ còn hình thức sản xuất nhỏ lẻ theo quy mô
sản xuất gia đình nữa mà đã tập trung sản xuất dưới nhiều hình thức mới và
tiêu biểu vẫn là hình thức sản xuất tập trung theo làng, xã dưới dạng các xí
nghiệp, các xưởng sản xuất nhỏ nhằm mục đích tập trung, nâng cao tay nghề,
cùng nhau cải thiện số lượng và chất lượng các sản phẩm đồ thủ công mỹ nghệ
ngày càng phong phú, đa dạng, đáp ứng được nhu cầu ngày một hoàn thiện của
người tiêu dùng.
Ngoài ra, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ chiếm được sự tin dùng
của người dân trong nước mà nó còn ngày càng nhận được sự ưa thích của
khách hàng trên thị trường quốc tế nhờ các chính sách thương mại, chính sách
thúc đẩy sản xuất phục vụ xuất khẩu hay sự phát triển mạnh mẽ của ngành du
lịch dịch vụ đã đem một lượng lớn du khách từ khắp mọi nơi có cơ hội tiếp xúc
trực tiếp để cảm nhận được cái riêng biệt của mặt hàng này so với những mặt
hàng công nghệ cao hiện nay.
Chính vì lẽ đó, kinh doanh các làng nghề đang ngày càng được nhà nước
quan tâm và tạo điều kiện phát triển không chỉ nhằm mục đích phát triển kinh
tế mà còn nhằm quảng bá hình ảnh đất nước qua những sản phẩm này.
1.3 Vai trò phát triển kinh doanh làng nghề với phát triển nông thôn ở
Việt Nam
1.3.1 Vai trò trong sự phát triển kinh tế - xã hội
1.3.1.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việc phát triển làng nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn,

đa dạng hóa kinh tế nông thôn thúc đẩy quá trình đô thị hóa. Bảo tồn và phát
triển làng nghề có tác dụng rõ rệt đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
9
Trong quá trình phát triển, các làng nghề đã có vai trò tích cực góp phần tăng
tỷ trọng nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, chuyển lao động từ sản
xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu
nhập cao hơn. Khi nghề thủ công hình thành và phát triển thì kinh tế nông thôn
không chỉ có kinh tế nông nghiệp thuần nhất mà bên cạnh là các ngành thủ
công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại và phát triển.
Xét trên góc độ phân công lao động thì các làng nghề đã có tác động tích cực
tới sản xuất nông nghiệp. Nó không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất cho khu vực
nông nghiệp mà còn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông
nghiệp. Mặt khác, kết quả sản xuất ở các làng nghề cho thu nhập và giá trị sản
lượng cao hơn so với sản xuất nông nghiệp; do từng bước tiếp cận với kinh tế
thị trường, năng lực kinh doanh được nâng lên, người lao động nhanh chóng
chuyển sang đầu tư cho các ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là những
ngành mà sản phẩm có khả năng tiêu thụ mạnh ở thị trường trong nước và thế
giới.
Hiện nay, các làng nghề đang phát triển đã đóng góp vai trò quan trọng trong
việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Sự phát triển của các nghề truyền
thống kéo theo sự phát triển của nhiều nghề khác nhau như thương mại, dịch
vụ, vận tải, thông tin liên lạc, cung cấp điện nước,…và ngược lại, những ngành
nghề này lại hỗ trợ trực tiếp cho sự phát triển của các làng nghề.
Sự phát triển của làng nghề có tác dụng rõ rệt với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH. Sự phát triển
lan tỏa của làng nghề đã mở rộng qui mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao
động. Đến nay cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề đạt 60 - 80% cho công nghiệp
và dịch vụ, 20 - 40% cho nông nghiệp.
1.3.1.2 Góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao

động trong các làng nghề và các vùng lân cận
Hiện nay, trong các làng nghề đã mở rộng quy mô sản xuất và tạo điều kiện
không chỉ cho các thành viên trong gia đình có công ăn việc làm. Mặt khác
10
nhiều làng nghề không những thu hút lực lượng lao động lớn ở địa phương mà
còn tạo việc làm cho nhiều lao động ở các địa phương khác.
Hơn nữa, sự phát triển của các làng nghề đã phát triển và hình thành nhiều
nghề khác; nhiều hoạt động dịch vụ liên quan xuất hiện, tạo thêm nhiều việc
làm mới, thu hút nhiều lao động. Mặt khác, việc phát triển các ngành nghề tại
các làng nghề ở nông thôn sẽ tận dụng tốt thời gian lao động, khắc phục được
tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp, góp phần phân bổ hợp lí lực lượng lao
động nông thôn. Vai trò tạo việc làm của các làng nghề còn thể hiện rất rõ ở sự
phát triển lan tỏa sang các làng khác, vùng khác, đã giải quyết việc làm cho
nhiều lao động, tạo ra động lực cho sự phát triển KT-XH ở vùng đó.
Qua tổng kết thực tiễn, đã tính toán được rằng cứ xuất khẩu được 1 triệu
USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 3000 -
4000 lao động.
Như vậy, vai trò của làng nghề rất quan trọng, được coi là động lực trực tiếp
giải quyết việc làm cho người lao động, đồng thời góp phần làm tăng thu nhập
cho người lao động. Ở nơi có làng nghề phát triển thì ở đó có thu nhập và mức
sống cao hơn so với vùng thuần nông.
1.3.1.3 Góp phần phát triển du lịch
Trong xu thế hội nhập và mở cửa, làng nghề truyền thống đang dần khẳng
định vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước.
Phát triển du lịch làng nghề là con đường hữu hiệu để xóa đói giảm nghèo, xây
dựng nông thôn mới; đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc
gia.
Việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ đem lại lợi nhuận kinh tế, giúp
người dân nâng cao thu nhập, giải quyết nguồn lao động địa phương mà còn là
một cách thức để gìn giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của

dân tộc; đồng thời cũng là một phương thức giới thiệu sinh động về mỗi vùng,
miền, địa phương trên đất nước.
11
Theo thống kê, Hà Nội có hơn 1350 làng nghề, với hàng chục nhóm ngành
nghề đang phát triển mạnh: gốm sứ, dệt may, điêu khắc, mây tre đan, khảm
trai Đến nay, nhiều làng nghề hình thành từ lâu đời, nổi tiếng trong và ngoài
nước, đã được du khách biết đến và trở thành điểm du lịch hấp dẫn
Thời gian qua, nhiều công ty du lịch lữ hành đã triển khai các tour đưa du
khách đến tham quan nhiều điểm làng nghề nổi tiếng
1.3.1.4 Thu hút vốn nhàn rỗi, tận dụng thời gian và lực lượng lao động.
Khác với một số ngành nghề công nghiệp, đa số các nghề thủ công không
đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, bởi rất nhiều nghề chỉ cần công cụ thủ công, thô sơ
do thợ thủ công tự sản xuất được; đặc điểm của sản xuất trong các làng nghề là
qui mô nhỏ, cơ cấu vốn và lao động ít nên phù hợp với khả năng huy động vốn
và các nguồn lực vật chất của các gia đình, đó là lợi thế để các làng nghề có
thể huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân vào sản xuất kinh doanh. Mặt
khác, do đặc điểm sản xuất lao động thủ công là chủ yếu, nơi sản xuất cũng
chính là nơi ở của người lao động nên bản thân nó có khả năng tận dụng và thu
hút nhiều lao động, từ lao động thời vụ nông nhàn đến lao động trên độ tuổi
hay dưới độ tuổi lao động, trẻ em vừa học và tham gia sản xuất dưới hình thức
học nghề hay giúp việc, lực lượng này chiếm một tỉ lệ đáng kể trong tổng số
lao động làng nghề.
1.3.1.5 Thúc đẩy quá trình đô thị hóa
Ở những vùng có nhiều ngành nghề phát triển thường hình thành trung tâm
giao lưu buôn bán, dịch vụ và trao đổi hàng hoá. Những trung tâm này ngày
càng được mở rộng và phát triển, tạo nên một sự đổi mới trong nông thôn. Hơn
nữa, nguồn tích lũy của người dân trong làng nghề cao hơn, có điều kiện để
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, nhà ở, và mua sắm các tiện nghi
sinh hoạt. Dần dần ở đây hình thành một cụm dân cư với lối sống đô thị ngày
một rõ nét, nông thôn đổi thay và từng bước được đô thị hóa qua việc hình

thành các thị trấn, thị tứ. Vì vậy dễ nhận thấy rằng ở một làng nghề phát triển
thì ở đó hình thành một phố chợ sầm uất của các nhà buôn bán, dịch vụ. Xu
12
hướng đô thị hóa nông thôn là xu hướng tất yếu, nó thể hiện trình độ phát triển
về KT-XH ở nông thôn, là yêu cầu khách quan trong phát triển làng nghề.
1.3.2 Phát huy nội lực địa phương, bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc
Góp phần bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc. Do hầu hết các làng nghề có khởi
nguồn từ sáng tạo của dân cư địa phương nên trong sản phẩm làng nghề từ
kiểu dáng, mẫu mã đều có những dấu ấn riêng về bản sắc văn hoá của từng địa
phương. Lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống gắn với lịch sử phát
triển văn hóa dân tộc. Nhiều sản phẩm truyền thống có tính nghệ thuật cao,
trong đó thể hiện những sắc thái riêng của mỗi làng nghề. Bảo tồn và phát triển
các làng nghề truyền thống chính là sự kế thừa và phát huy đội ngũ nghệ nhân
có bàn tay khéo léo cùng những bí quyết nghề quý giá và thông qua đó bảo tồn
những nét độc đáo của bản sắc dân tộc Việt
Việc định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề tại thành phố trong xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm cần thiết hiện nay. Để bảo tồn và phát triển
các làng nghề, cần khôi phục sản xuất tại những làng nghề đã và đang bị mai
một; chú trọng một số nghề truyền thống, làng nghề truyền thống có từ lâu đời,
mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Bên cạnh đó, cần có hướng chuyển đổi đối
với một số ngành nghề, làng nghề khó khăn về thị trường thông qua sự hỗ trợ
về vốn đầu tư, đào tạo nghề, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tạo điều
kiện cho các làng nghề được phục hồi và phát triển, đảm bảo ổn định và cải
thiện đời sống của người lao động ở nông thôn.
Làng nghề chứa đựng trong nó những yếu tố nhân văn và những giá trị văn
hóa truyền thống quý giá. Ngoài những yếu tố kinh tế cần được nghiên cứu
phát triển thì làng nghề còn là một đối tượng quan trọng để bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa phục vụ cho sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc và
xây dựng đất nước.
13

1.4 Nhân tố ảnh hưởng tới việc phát triển hoạt động kinh doanh làng
nghề
1.4.1 Nhân tố vĩ mô
1.4.1.1 Chính sách kinh tế
Làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN) Việt Nam đóng vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Tuy nhiên, hình
thức tổ chức sản xuất hộ gia đình vẫn là chủ yếu, tương ứng với đó là quy mô
vốn của các làng nghề nhìn chung còn nhỏ. Để phát triển làng nghề thủ công
mỹ nghệ Việt Nam, Nhà nước nên áp dụng tổng hợp các giải pháp quản lý,
trong đó có chính sách vốn và đầu tư tín dụng.
-Nhu cầu đầu tư vốn tại các làng nghề TCMN
Làng nghề TCMN ở Việt Nam có lịch sử phát triển hàng nghìn năm. Hiện
nay, nước ta có khoảng 2.700 làng nghề, trong đó làng nghề TCMN chiếm
khoảng 30% tổng số làng nghề. Các làng nghề tạo việc làm, tăng thu nhập cho
người dân khu vực (trung bình thu nhập của người lao động trong các làng
nghề cao gấp 3-4 lần so với người lao động thuần nông). Các mặt hàng TCMN
Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, được xuất khẩu trên 163
quốc gia. Việc đầu tư vốn cho làng nghề có vai trò quan trọng:
Đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại làng nghề sẽ góp phần giải
quyết các vấn đề xã hội và các quan hệ phức tạp khác như: xóa đói giảm
nghèo, bài trừ các hủ tục lạc hậu… Các chính sách đầu tư hợp lý sẽ góp phần
thực hiện các chính sách xã hội, một vấn đề đều được các nước và các tổ chức
quốc tế quan tâm.
Kinh tế làng nghề đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông
thôn. Các làng nghề nước ta hiện nay đang thiếu vốn để sản xuất, để mở rộng
ngành nghề, để xây dựng cơ sở vật chất và kết cầu hạ tầng… Do vậy, chính
sách vốn và các hoạt động đầu tư sẽ góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa –
hiện đại hóa (CNH – HĐH) tại làng nghề, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
14
Bảng 1.1. Phân bố làng nghề thủ công mỹ nghệ theo nhóm sản phẩm

STT Nhóm sản phẩm Miền Bắc Miền
Trung
Miền
Nam
Tổng
1 Mây tre đan, thêu
ren, cói,đồ gỗ mỹ
nghệ, sơn mài
684 69 191 908
2 Gốm sứ mỹ nghệ 22 10 21 53
3 Chạm khắc đá, vàng
bạc, đúc đồng
14 1 4 19
Tổng 720 80 216 980
Nguồn:Báo cáo môi trường quốc gia, môi trường làng nghề,bộ tài nguyên
và môi trường
-Thực trạng chính sách vốn và đầu tư tại làng nghề thủ công mỹ nghệ:
Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH là một chủ trương
lớn của Đảng vả Nhà nước ta. Hiện nay, một trong những nội dung quan trọng
của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là phát triển các làng nghề.
Các chính sách về vốn và đầu tư, tín dụng đã có nhiều đổi mới, góp phần tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình và các DN trong làng
nghề phát triển. Một số chính sách cụ thể như:
- Công văn số 08/NHNN-TD ngày 4/1/2001 của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam về hướng dẫn thực hiện Quyết định 132/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông
thôn.
- Nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu
tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
- Thông tư số 113/2006/TT-BTC ngày 28/12/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn

một số nội dung về ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn
theo Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 của Chính phủ.
- Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 22/4/2010 của Chính phủ về chính sách
tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
15
- Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 04/6/2010 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
- Thông tư số 14/2010/TT-NHNN ngày 14/6/2010 của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam về hướng dẫn chi tiết thực hiện Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày
22/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Nhìn chung, một số chính sách vốn và đầu tư mà Nhà nước ban hành đã góp
phần tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển ngành nghề nông thôn nói
chung và các làng nghề TCMN nói riêng. Những năm gần đây, hệ thống ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tập trung thực hiện cho vay theo
chương trình, dự án mục tiêu, hỗ trợ về tài chính tại các làng nghề. Một số
chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn đã
quy định việc Nhà nước hỗ trợ tài chính dưới hình thức tín dụng ngân hàng với
lãi suất ưu đãi, góp phần mở rộng phạm vi và cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín
dụng hỗ trợ cho các hộ và DN tại các làng nghề. Chính phủ tiếp tục hỗ trợ lãi
suất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu, trong đó có mặt
hàng TCMN xuất khẩu của các làng nghề (QĐ178/1998/QĐ-TTg ngày
19/9/1998).
Bên cạnh đó, các cơ sở kinh doanh trong các làng nghề còn được Quỹ hỗ trợ
phát triển cho vay tín dụng đầu tư, hỗ trợ lãi suất đầu tư, bảo hành tín dụng đầu
tư. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, cho thấy các nguồn vốn để cung cấp cho các
làng nghề còn rất hạn chế. Việc thiếu vốn xảy ra do khả năng tích lũy để đầu tư
phát triển sản xuất của các cơ sở còn thấp và do khả năng tiếp cận các nguồn
vốn chính thức hay bán chính thức còn hạn hẹp; do sự liên kết kinh tế với các
đơn vị kinh tế khác còn yếu, chưa linh hoạt. Mặt khác, việc thực thi một số

chính sách về vốn, đầu tư tín dụng còn chưa cụ thể, thiếu sự minh bạch.
1.4.1.2 Chính sách quản lí nhà nước
16
Để tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế làng nghề phát triển,
các chính sách và biện pháp được áp dụng như: Cải cách hệ thống ngân hàng,
mở rộng và phát triển hệ thống thu hút và cung ứng vốn của các ngân hàng
thương mại, ngân hàng cổ phẩn, các hợp tác xã tín dụng…; Mở rộng cho vay,
ban hành thể lệ tín dụng đối với các DN trong làng nghề; Phát triển các tổ chức
tài chính khác như công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính; Chấn chỉnh
hoạt động của hệ thống tài chính phi chính phủ, mở rộng điều kiện cầm cố;
Xúc tiến thị trường vốn trung hạn, dài hạn, thị trường chứng khoán; Nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư…
Để đáp ứng được nhu cầu phát triển của làng nghề thì những chính sách và
biện pháp trên cần phải hoàn thiện, bổ sung trong thời gian tới và phải đáp ứng
được các yêu cầu sau: Phải tạo mọi điều kiện để huy động triệt để các nguồn
vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh của các DN tại làng nghề; Vốn ngân sách phải được coi là nguồn vốn
quan trọng cho việc xây dựng các cơ sở hạ tầng tại làng nghề; Vốn tín dụng là
nguồn vốn chủ yếu phục vụ cho đầu tư mở rộng sản xuất; Tạo môi trường
thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời tranh thủ các nguồn viện trợ
của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ; Chính sách đầu tư vốn cần tập
trung chủ yếu vào những lĩnh vực có khả năng huy động được nhiều sức lao
động, làm ra được nhiều sản phẩm và hàng hóa đạt hiệu quả kinh tế cao.
Tóm lại, chính sách là một công cụ quan trọng định hướng mọi hoạt động và
hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội,
trong đó các làng nghề TCMN. Việc đánh giá thực trạng các chính sách nhà
nước về hoạt động vốn và đầu tư tín dụng hiện nay trong việc phát triển làng
nghề TCMN sẽ là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện chính sách vốn và đầu tư nhằm phát triển làng nghề TCMN
trong thời gian tới.

Về các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để các làng nghề truyền thống phát
triển gắn với phục vụ phát triển du lịch, theo nhiều đại biểu, các chính sách hỗ
17
trợ của Nhà nước, từ cấp Trung ương cho đến địa phương được đánh giá là yếu
tố quyết định để tháo gỡ những rào cản, trở ngại, khó khăn hiện nay của các
làng nghề. Và cho đến nay, hệ thống chính sách liên quan đến phát triển kinh tế
làng nghề và du lịch làng nghề đã có rất nhiều nhưng còn chung chung, chồng
chéo, nguồn lực thực thi hạn chế. Vì vậy, hiệu ứng của chính sách còn mờ
nhạt. Dẫn tới du lịch tại các làng nghề vẫn còn yếu kém, hiệu quả thấp, dịch vụ
còn đơn sơ, nghèo nàn, sản phẩm kém hấp dẫn, kém sức cạnh tranh.
1.4.1.3 Chính sách văn hóa –xã hội
Việc triển khai 03 mô hình dạy nghề nông dân đã đạt được những kết quả
bước đầu (Mô hình thứ nhất là đào tạo nghề, tổ chức việc làm để xây dựng
làng nghề mới - áp dụng cho những địa phương thiếu ruộng đất, có nhiều lao
động nhưng thiếu việc làm, chính quyền địa phương có nhu cầu quy hoạch
hình thành làng nghề mới. Mô hình 2 là đào tạo nghề, tổ chức việc làm kết hợp
phát triển vùng nguyên liệu tại địa phương. Mô hình 3 là đào tạo nghề, tổ chức
việc làm cho lao động nông thôn để duy trì và phát triển các làng nghề truyền
thống - áp dụng cho các làng nghề hiện có; địa phương có lao động nhưng
chưa có nghề, không có việc làm hoặc ít việc làm, ưu tiên dạy ở những làng
nghề có triển vọng phát triển bền vững). Đào tạo lao động để phát triển làng
nghề đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa Hiệp hội doanh nghiệp các tỉnh để theo
dõi tiến trình hoạt động. Thế mạnh trong đào tạo nghề truyền thống đó là: các
cơ sở thành viên chủ yếu là các doanh nghiệp, các Hiệp hội sản xuất nhỏ nắm
vững kỹ thuật, gắn liền với sản xuất và bao tiêu sản phẩm. Tuy nhiên, khó
khăn còn tồn tại ở chỗ, kinh nghiệm đào tạo và truyền nghề theo kiểu trực tiếp.
Các Hiệp hội đã kiến nghị Bộ giao chỉ tiêu đào tạo các nghề truyền thống và
tìm ra cách thức hữu hiệu nhất để Hiệp hội có thể tham gia vào quá trình dạy
nghề cũng như truyền nghề, tận dụng được những kinh nghiệm chất xám, xây
dựng được những chương trình đào tạo ngắn hạn, phát hiện ra những mặt

mạnh của các phương thức đào tạo nghề tại các làng nghề trong giai đoạn hiện
nay. Đồng thời đề nghị cần có cơ chế rõ ràng, cụ thể để có sự phối hợp chặt
18
chẽ giữa Sở Lao động – Thương binh Xã hội các tỉnh với Hiệp hội làng nghề
Việt Nam.
1.4.2 Nhân tố vi mô
1.4.2.1 Khả năng cung ứng đầu vào
Cũng như bất kỳ quá trình sản xuất, khối lượng, chủng loại nguyên vật liệu
và khoảng cách giữa nguồn cung cấp nguyên liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng, giá thành, lợi nhuận của các doanh nghiệp. Nguồn nguyên liệu
chính tại địa phương trong nước, đây chính là lợi thế của làng nghề. Thị trường
nguyên liệu không chính thức, phương thức thanh toán do hai bên tự thỏa
thuận, phụ thuộc thời vụ do tư thương cung cấp nên giá cả lên xuống theo mùa.
Sử dụng nguyên liệu đa dạng hoặc thay thế sẽ là xu hướng cần được quan tâm
để làng nghề phát triển bền vững.
1.4.2.2 Thị trường tiêu thụ sản phẩm
- Đơn hàng xuất khẩu giảm
Không chỉ thị trường trong nước, mà cả thị trường xuất khẩu, sản phẩm sản
xuất từ các làng nghề truyền thống đang chịu chung cảnh đìu hiu vào những
tháng cuối năm
Không xuất khẩu được hàng, nguồn vốn bị tồn đọng, nhiều DN phải vay vốn
lãi suất ngân hàng cao nên thua lỗ nặng. Bên cạnh đó, nguồn nguyên liệu phục
vụ sản xuất của nhiều làng nghề ngày càng khan hiếm và không thể chủ động
được.
Các đơn đặt hàng cũ đều bị hủy bỏ hoặc được lấy với số lượng ít hơn hẳn
khiến các doanh nghiệp tồn đọng hàng, một số đơn vị đã buộc phải đóng cửa
sản xuất. Nhiều doanh nghiệp điêu đứng vì vốn vay ngân hàng từ đầu năm để
sản xuất, kinh doanh, đến cuối năm hàng hóa chưa bán kịp để trả nợ, lãi suất
lên cao, không đủ tiền trả lương cho công nhân. Bên cạnh đó, nguồn nguyên
liệu khan hiếm, phải nhập khẩu thêm từ nước ngoài - đã đẩy giá thành sản

phẩm lên cao, khiến cho mặt hàng thủ công rơi vào tình cảnh khó khăn chồng
chất khó khăn.
19
- Thị trường nội địa
Thực tế, hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm có tiềm năng thị trường trong
nước rất lớn. Khi chuyển hướng từ thị trường xuất khẩu sang nội địa, nếu DN
đầu tư mạnh việc phát triển sản phẩm nhờ những thiết kế mới, độc đáo có thể
cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Thái Lan để
chiếm lĩnh thị trường nội địa. Tại thời điểm này, mặc dù DN phải chi thêm một
số khoản đầu tư cho việc phát triển sản phẩm, mở showroom, quảng bá, chăm
sóc khách hàng nhưng bù lại, nhiều đơn hàng trong nước cũng không hề thua
kém xuất khẩu, nhất là cung cấp cho nhà hàng, khách sạn, resort … Hiện nay,
thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và sản phẩm tranh thủ
công mỹ nghệ nói riêng đang giảm sút buộc các DN dần quay lại thị trường nội
địa, nơi có tiềm năng tiêu thụ lớn nhưng còn bỏ ngỏ.
1.4.1.3 Sức cạnh tranh của sản phẩm trong làng nghề
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ hiện đã có mặt hầu khắp các quốc gia trên thế
giới với tốc độ tăng trưởng 17,87%/năm. Với thị trường EU, xuất khẩu chính
là mặt hàng gỗ, trong đó, Đức, Pháp, Hà Lan đã chiếm 10% tổng hàng hoá
nhập khẩu. Tại Nhật Bản, khách hàng rất ưa chuộng mặt hàng gỗ, hộp đan
bằng mây, rổ mây, giỏ mây, bát đĩa tre, khay đan bằng mây… của Việt Nam.
Riêng tại thị trường Hoa Kỳ, các sản phẩm sơn mài, bình tre, mành trúc, ghế
mây tre, mành tre, bình phong tre, giỏ lục bình… của Việt Nam cũng rất được
ưa chuộng. Ngooài ra, thị trường Nam Phi cũng tăng trưởng với nhiều triển
vọng khi có nhiều doanh nghiệp Việt Nam tiến hành xúc tiến thương mại tại
đây.
Để sản phẩm thủ công mỹ nghệ cạnh tranh được trên thị trường và kim
ngạch xuất khẩu đạt giá trị cao tại các thị trường tiềm năng, thì các doanh
nghiệp xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ các quy định về nhập khẩu. Chẳng hạn như
Nhật Bản hay Canada là thị trường có mức nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

cao, do vậy tính cạnh tranh cũng rất mạnh. Nhà xuất khẩu muốn thâm nhập
vào các thị trường này cần cân nhắc các yếu tố về sản xuất nhanh hàng mẫu,
20
trả lời thư yêu cầu ngay trong ngày, giao hàng đúng với đặc điểm kỹ thuật đã
thoả thuận hay đúng hàng mẫu đã nhất trí từ trước; tính liên tục của nguồn
cung; duy trì chất lượng cao ở mức giá cạnh tranh; bao bì thích hợp cho vận tải
đường biển… Bên cạnh đó, giá hàng thủ công mỹ nghệ phụ thuộc vào yếu tố
chất lượng sản phẩm được làm từ thợ thủ công và loại nguyên vật liệu sử dụng.
Đặc biệt, hầu hết các thị trường này đều đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng
cao, bền và khi đưa ra bán phải có điều kiện tốt. Do đó, các doanh nghiệp xuất
khẩu lưu tâm cụ thể đến yêu cầu về dán mác và bao gói chính xác. Hàng thủ
công mỹ nghệ dùng bên ngoài nhà phải đủ khả năng chịu được nhiệt độ và độ
ẩm, trong khi dành cho trẻ em phải thoả mãn yêu cầu về độ an toàn và tiêu
chuẩn.
Các chuyên gia của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
cho rằng: Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng TCMN ngoài việc quy
hoạch xây dựng vùng nguyên liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm thì việc đổi
mới mẫu mã theo hướng chuyên nghiệp cần phải được quan tâm hàng đầu.
Nhà nước cần khuyến khích các trường đào tạo, viện nghiên cứu đẩy mạnh
nghiên cứu, giảng dạy tạo mẫu sản phẩm, khuyến khích các cơ quan thông tin
đại chúng quảng bá rộng rãi những thành tựu mới, sáng tạo mới về mẫu mã.
Doanh nghiệp cũng cần quan tâm xây dựng đội ngũ thiết kế, đào tạo, bồi
dưỡng tay nghề cho lực lượng lao động, phát huy lợi thế của đội ngũ nghệ
nhân, thợ giỏi, trong bảo tồn và sáng tạo mẫu sản phẩm. Tại cuộc hội thảo tìm
giải pháp xuất khẩu sản phẩm làng nghề mới đây, ông By Jonathan chuyên gia
Dự án nâng cao cạnh trạnh toàn cầu cho các doanh nghiệp Việt Nam (GCF)
cũng đã gợi ý về sự cần thiết phải thành lập trung tâm thiết kế mẫu cho các
làng nghề Việt Nam. Quan tâm đến xây dựng mẫu mã, kiểu dáng cho sản phẩm
TCMN sẽ góp phần tăng sức cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu loại mặt
hàng này, đồng thời bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống của dân tộc.

1.4.1.4 Cơ cấu,tổ chức sản xuất kinh doanh
21
Nghề thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng số các loại
hình kinh tế của nước ta (chiếm 37%). Tiếp đó là loại hình chế biến lương
thực, thực phẩm chiếm 24%, thấp nhất là loại hình tái chế chất thải chiếm 1%
Hình 1.1 Cơ cấu các loại hình kinh tế của nước ta.

Nguồn: vea.gov.vn
Các làng nghề thủ công mỹ nghệ hiện nay ngoài hình thức sản xuất theo quy
mô nhỏ, lẻ, mang tính chất hộ gia đình thì đã hình thành hình thức sản suất tập
trung theo hình thức thu gom sản xuất của một xí nghiệp hay đơn vị thu mua
lớn để tìm kiếm thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn
22
Hình 1.2. Sơ đồ biểu diễn mối quan hệ chặt chẽ từ khâu thu gom nguyên
liệu đến khâu hoàn thiện và tiêu thụ sản phẩm của một xí nghiệp sản xuất
đồ thủ công nghệ nhỏ:
Nguồn: ipsard.gov.vn
1.4.1.5 Khách hàng
Khách hàng sử dụng mặt hàng này rất đa dạng . Nó hướng tới mọi đối tượng
khách hàng không kể tuổi tác, giới tính, vị trí địa lý… Mặt hàng chủ yếu của
các làng nghề là những sản phẩm phục vụ tiêu dùng hàng ngày như mây tre
đan, gốm sứ, tre nứa, đồ gỗ,…đều rất gần gũi với đời sống của người dân
1.4.1.6 Nhân tố kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng KT-XH ở nông thôn bao gồm hạ tầng kinh tế như: kỹ thuật,
điện nước, giao thông, thông tin liên lạc, phương tiện đi lại hạ tầng xã hội
như: phòng khám đa khoa, bệnh viện, các trường học; các loại hình dịch vụ
như: thư viện, bưu điện Hạ tầng ở nông thôn nói chung và các làng nghề nói
riêng còn nghèo nàn, có nhiều cản trở sự phát triển các làng nghề. Hệ thống
giao thông, thông tin liên lạc ở các làng nghề kém, điện cung cấp không đều,
cường độ dòng điện yếu. Phải thấy rằng, sự hình thành và phát triển bền vững

làng nghề chỉ có được khi kết cấu hạ tầng được tạo lập đồng bộ, tương đối đầy
đủ ở các làng nghề. Ngày nay khi giao lưu kinh tế phát triển, thị trường tiêu
23
thụ sản phẩm không chỉ ở địa phương mà còn vươn tới thị trường rộng lớn
khác; nguồn nguyên liệu phải vận chuyển thì hệ thống giao thông quyết định
trực tiếp chi phí hạ giá thành.
Hệ thống cung cấp điện nước tốt, giá rẻ không qua các đơn vị quản lý trung
gian, sẽ giúp làng nghề sản xuất liên tục, giảm chi phí, tăng năng suất, đảm bảo
chất lượng sản phẩm. Tiếp theo, hệ thống dịch vụ thông tin tốt sẽ giúp các cơ
sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề nắm bắt kịp thời những thông tin về
nhu cầu, giá cả, mẫu mã, chất lượng, thị hiếu để có sự điều chỉnh kịp thời
nhanh nhạy, đáp ứng yêu cầu thị trường.
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH DOANH CÁC SẢN
PHẨM ĐỒ GỖ THỦ CÔNG MĨ NGHỆ CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRÊN
ĐỊA BÀN THẠCH THẤT-HN
2.1. Tổng quan về các làng nghề trên địa bàn huyện Thạch Thất
2.1.1. Vị trí địa lý
Vị trí:
- Huyện Thạch Thất nằm phía Tây Bắc thành phố Hà Nội, là vùng bán sơn địa,
có tọa độ địa lý từ 20 độ 58 phút 23 đến 21 độ 06 phút 10 vĩ độ bắc, từ 105 độ
27 phút 54 đến 105 độ 38 phút 22 kinh độ đông.
- Đường ranh giới:
Phía Bắc giáp huyện Phúc Thọ.
Phía Đông giáp huyện Phúc Thọ, Quốc Oai.
Phía Nam giáp huyện Quốc Oai, huyện Kỳ Sơn (tỉnh Hòa Bình).
Phía Tây giáp huyện Ba Vì và thị xã Sơn Tây.
Đặc điểm tự nhiên:
Thạch thất là khu vực chuyển tiếp giữa vùng núi và trung du phía Bắc với
vùng đồng bằng. Nhìn chung địa hình thấp dần từ Tây sang Đông và chia

thành hai dạng địa hình chính:
+ Dạng địa hình bán sơn địa, đồi gò: Độ cao trung bình so với mặt nước biển
từ 10 m đến hơn 15 m. Đất phát triển trên nền đá đã phong hóa nhiều nơi có
lớp đá ong ở tầng sâu 20 - 50cm.
+ Dạng địa hình đồng bằng: bên bờ trái sông tích, địa hình khá bằng phẳng, độ
cao trung bình khoảng từ 3 đến 10 m so với mặt biển. Trong khu vực cũng có
nhiều điểm trũng tạo thành các hồ đầm nhỏ.
Đặc điểm xã hội
Thạch Thất là huyện ngoại thành phía tây thủ đô Hà Nội
- Có diện tích đất tự nhiên 18.459ha
- Dân số 190.150 người (năm 2012).
25

×