Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số vấn đề về vai trò, mục đích, ý nghĩa của thuế môi trường và bình luận về dự thảo luật thuế môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.12 KB, 15 trang )

Lời mở đầu:
Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người,
ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không
khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người. Môi trường có vai trò quan trọng đối với
sự sống của con người. Ô nhiễm môi trường tác động xấu đến đời sống vật chất tinh
thần của con người và cản trở sự phát triển kinh tế. Trong những năm vừa qua, cùng
với sự phát triển kinh tế và đô thị hoá, mức độ ô nhiễm môi trường tại Việt Nam ngày
càng tăng. Và việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở thành vấn đề
cấp thiết không chỉ đối với nước ta mà đã trở thành vấn đề toàn cầu.
Do xuất phát điểm từ nền kinh tế thấp chúng ta đã chú trọng nhiều hơn đến tăng
trưởng kinh tế, chưa có điều kiện để đầu tư cải tạo môi trường. Vì vậy, ô nhiễm môi
trường ở nhiều vùng đã đến mức báo động. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để
bảo vệ môi trường như: Miễn giảm thuế đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh thân
thiện với môi trường; tuyên truyền, giáo dục nhân dân tham gia bảo vệ môi trường;
thực hiện các Chương trình quốc gia và quốc tế về bảo vệ môi trường, bố trí nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách thoả đáng để xử lý vấn đề môi trường. Bên cạnh đó Nhà nước cũng
có các chính sách để hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm môi trường như: Xử phạt các
vi phạm về ô nhiễm môi trường; thu phí bảo vệ môi trường (phí xăng dầu, phí vệ sinh,
phí phí bảo vệ môi trường đối với nước thả...). Tuy đã có nhiều chính sách nhằm bảo vệ
môi trường nhưng vẫn chưa làm giảm đáng kể mức độ ô nhiễm môi trường. Do đó, Nhà
nước cần có thêm những công cụ hữu hiệu hơn, trong đó, có thuế môi trường.
Theo Nghị quyết số 31/2009/NQ-QH12 ngày 17/6/2009 của Quốc hội về Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 thì dự án Luật thuế môi trường sẽ được Quốc
hội cho ý kiến vào kỳ họp tháng 5/2010 và thông qua vào kỳ họp tháng 10/2010. Khi
được Quốc hội thông qua, dự kiến Luật thuế môi trường có hiệu lực từ ngày
01/01/2010.
Từ thực tế trên, trong bài tập này em chọn đề tài “Một số vấn đề về vai trò, mục
đích, ý nghĩa của thuế môi trường và bình luận về dự thảo luật thuế môi trường”. Bài
tập của em còn nhiều thiết sót, em rất mong được sự đóng góp của thầy cô để bài tập
của em được hoàn thiện hơn.
Bài làm


I. Vai trò, mục đích, ý nghĩa của thuế môi trường:
1. Vai trò của thuế môi trường:
Ta thấy trong thời gian qua, tăng trưởng kinh tế, quá trình công nghiệp hoá và phát triển
đô thị tăng nhanh đã tác động xấu đến môi trường sinh thái. Trong khi đó nước ta vẫn
chưa có Luật thuế môi trường còn các biện pháp tài chính nhằm bảo vệ môi trường
được lồng ghép trong các Luật thuế (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế
TNDN) và trực tiếp điều chỉnh bằng các quy định về thu phí. Nên việc ban hành thuế
môi trường là hết sức cần thiết và có một vai trò quan trọng. Cụ thể, vai trò của thuế
môi trường cụ thể như:
- Thuế môi trường góp phần tăng cường trách nhiệm và nâng cao nhận thức của
tổ chức, cá nhân đối với môi trường. Thuế môi trường là loại thuế thực hiện theo
nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả” nên nó buộc các chủ thể gây ô nhiễm và các liên
đới phải chịu trách nhiệm về chi phí do hoạt động gây ô nhiễm của họ bằng cách đưa
chi phí ngoại ứng vào giá. Với việc sẽ đưa chi phí ngoại ứng vào giá “nội hoá các chi
phí ngoại ứng” nhờ đó chi phí xã hội và chi phí cá nhân của các nhà sản xuất tiến gần
nhau hơn. Các mức giá trở nên chính xác hơn, do đã bao gồm đầy đủ các yếu tố cần
thiết. Từ đó, tạo cơ hội thúc đẩy các hoạt động có hiệu quả hơn đối với các khu vực thị
trường, giao thông hoặc năng lượng. Nội hoá các chi phí ngoại ứng cũng sẽ dẫn đến
phân bổ lại nguồn lực của nền kinh tế theo hướng tạo ra các “mức giá công bằng và
hiệu quả hơn” do phân phối lại chi phí.
- Thuế môi trường khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hoá thân thiện với môi
trường hơn. Có thể sử dụng thuế để kích thích và điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng theo
hướng bảo vệ môi trường. Đối với cả người tiêu dùng (muốn mua với giá thấp hơn) và
nhà sản xuất (bán được nhiều sản phẩm hơn, lợi nhuận cao hơn) thì thuế môi trường sẽ
có nhiều tác dụng khuyến khích, điều chỉnh định hướng sản xuất và tiêu dùng theo
hướng thân thiện với môi trường hơn.
- Thuế môi trường thúc đẩy cải cách đổi mới công nghệ. Bởi nếu đánh thuế môi
trường mà giá nhiên liệu tăng thì điều này sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu tìm ra các nguồn
năng lượng mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Điều đó có thể
dẫn tới việc ra đời của các công nghệ, chu trình và sản phẩm mới. Rõ ràng thuế môi

trường có thể giúp chuyển dịch nền kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu quả đối với các
loại năng lượng và nguồn lực bằng việc tăng giá sản phẩm tự nhiên. Thuế môi trường
có tác động làm thay đổi cả quy mô và cơ cấu của sản xuất và tiêu dùng. Đặc biệt, khi
các dấu hiệu về giá được dự báo dần dần vượt qua mức giá dự kiến trong kế hoạch dài
hạn của nền công nghiệp.
- Thuế môi trường góp phần bổ sung nguồn vốn để đầu tư cải tạo môi trường.
Với khung thuế suất được quy định tại dự án Luật, nếu lấy mức thuế tối thiểu của
khung thì số thu mỗi năm khoảng 14.300 tỷ đồng nếu lấy mức thuế suất tối đa của
khung thì số thu mỗi năm khoảng 57.000 tỷ đồng. Cụ thể, mặt hàng xăng sẽ chịu mức
thuế từ 1.000 - 4.000 đồng/lít, nhiên liệu bay 1.000 - 3.000 đồng/lít, dầu diesel, dầu hỏa
từ 300 - 2.000 đồng/lít; dầu mazut từ 300 - 2.000 đồng/lít; than từ 6.000 - 30.000
đồng/tấn; dung dịch HCFC 1.000 - 5.000 đồng/kg; túi nhựa xốp 20.000 – 30.000
đồng/kg, thuốc bảo vệ thực vật hạn chế sử dụng từ 500 - 5.000 đồng/kg. Như vậy, thuế
mang lại nguồn thu nhất định cho ngân sách để đầu tư cải tạo môi trường.
- Thuế môi trường góp phần nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với
môi trường. Thuế môi trường góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây
ô nhiễm; khuyến khích người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thay thế hoặc hạn chế tiêu
dùng sản phẩm (xăng, dầu, than,..). Từ đó, tiết kiệm cá nhân, tiết kiệm xã hội, giảm ô
nhiêm môi trường, giảm chi phí xử lý ô nhiễm. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường
trong đầu tư, sản xuất và tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân; khuyến khích sử dụng
năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực của sản xuất, tiêu dùng
đến môi trường, giảm thiểu ô nhiễm và suy thoái về môi trường. Thay đổi nhận thức
của người dân về về vai trò của môi trường là mục tiêu lớn nhất mà các chính sách
hướng tới.
- Thuế môi trường góp phần bảo vệ môi trường. Thuế môi trường góp phần hạn
chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm của các tổ chức, cá nhân; khuyến
khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực đến môi
trường (khí Carbon, lưu huỳnh thải ra khi sử dụng xăng, dầu, than, HCFC ảnh hưởng
tới môi trường không khí và tầng ôzôn, tăng hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu, gây
hậu quả nghiêm trọng đối với con người và thiên nhiên cũng như tổn thất về kinh tế).

Từ đó, hướng tới nền kinh tế phát triển bền vững, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi
trường.
2. Mục đích, ý nghĩa của thuế môi trường:
Từ vai trò quan trọng của thuế môi trường, ta thấy việc ban hành thuê môi trường có
những mục đích, ý nghĩa to lớn trong công cuộc bảo vệ môi trường:
- Thuế môi trường tạo một hành lang pháp lý đồng bộ, ổn định, điều chỉnh toàn
diện các hành vi tác động tiêu cực đến môi trường, để điều chỉnh trực tiếp hành vi của
các chủ thể có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp gây ô nhiễm môi trường và nhằm bảo vệ
môi trường sinh thái, chống chuyển dịch công nghệ bẩn vào Việt Nam, đồng thời tạo lập
và sử dụng nguồn kinh phí trực tiếp đó để đầu tư xây dựng các biện pháp cải thiện môi
trường, chi phí cho việc bảo vệ môi trường, tuyên truyền tác động đến ý thức cộng đồng
trong việc bảo vệ môi trường.
- Thuế môi trường với mục đích chính là khuyến khích phát triển kinh tế đi liền
với giảm ô nhiễm môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, nâng cao
chất lượng cuộc sống, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của xã hội, từ đó thay đổi
nhận thức và hành vi của người dân và doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu dùng nhằm
giảm phát thải. Nâng cao nhận thức của các tầng lớp trong xã hội về ý thức bảo vệ môi
trường, từ đó góp phần thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng sản phẩm gây ô nhiễm
môi trường khi sử dụng phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay và những năm tới.
- Nhằm góp phần thay đổi công nghệ sản xuất, khuyến khích những nơi sản xuất
theo công nghệ tốt hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn cho môi trường. Việc đánh thuế môi
trường góp phần kích thích chủ thể sản xuất lựa chọn công nghệ sản xuất ít gây ô nhiễm
để giảm thuế môi trường và tăng sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường.
- Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội, từ đó góp phần thay đổi
nhận thức, hành vi của tổ chức, cá nhân trong sản xuất và tiêu dùng nhằm giảm phát
thải ô nhiễm tại nguồn. Việc ban hành thuế môi trường là công cụ thây đổi thói quen
tiêu dùng “xa xỉ” của người dân, giúp người dân ý thức hơn trong việc lựa chọn sản
phẩm tiêu dùng.
- Tăng cường quản lý nhà nước, thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về tiếp tục cải cách, xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với các qui

định của Hiến pháp, tính thống nhất và đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan
khác; thực hiện cam kết của Chính phủ với cộng đồng quốc tế trong việc góp sức giải
quyết vấn đề môi trường toàn cầu. Luật thuế môi trường là một trong những sắc thuế
cần được xây dựng để hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nước ta đến năm 2010
với mục tiêu đánh thuế vào các đối tượng gây ô nhiễm môi trường nhằm bảo vệ môi
trường sinh thái, nhằm góp phần thay đổi nhận thức của con người đối với môi trường,
tạo thêm nguồn lực để khôi phục môi trường sinh thái.
- Nhằm động viên hợp lý đóng góp của xã hội, tạo thêm nguồn thu để giải quyết
vấn đề môi trường, đồng thời phải đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản
phẩm chủ yếu của Việt Nam.
II. Bình luận về dự thảo thuế môi trường:
1. Thực trạng pháp luật liên quan đến quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt Nam:
Từ hội nghị quốc tế về “Môi trường con người” đầu tiên của Liên hợp quốc được
tổ chức năm 1972 tại Thuỵ Điển đã thông qua bản kế hoạch hành động về môi trường
và khuyến nghị thành lập chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) và sau
Hội nghị thượng đỉnh Rio 92 (Braxin) đặt vấn đề môi trường trong mối liên kết với các
hoạt động của con nguời theo quan điểm Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững thì
có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết, trong đó nhiều văn bản
đã được Chính phủ Việt Nam tham gia ký kết như Công ước Chicago về hàng không
dân dụng quốc tế, 1944; Hiệp ước về Khoảng không ngoài vũ trụ, 1967; Công ước liên
quan đến Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên (19/10/1982); Công ước về cấm phát
triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí hoá học, vi trùng và công việc tiêu huỷ chúng; Công
ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa, 1973
(20/1/1994); Công ước của Liên hợp quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980); Công
ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985 (26/4/1994); Công ước về thông báo sớm sự cố
hạt nhân, IAEA, 1985 (29/9/1987); Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm
tầng ô-zôn, 1987 (26/1/1984); Thoả thuận về mạng lưới các trung tâm thuỷ sản ở Châu
Á – Thái Bình Dương, 1988 (2/2/1989); Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển
qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ chúng (13/5/1995); Công ước khung của
Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994); Công ước về Đa dạng sinh học,

1992 (16/11/1994)…
Trong hệ thống pháp luật trong nước, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều
bộ luật, luật, trong đó Luật Bảo vệ môi trường ngày 29 tháng 11 năm 2005 là văn bản
quan trọng nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2009/NĐ-CP về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ
sung năm 2009… Đồng thời, hàng loạt thông tư, quyết định của các ngành chức năng
về thực hiện Luật Bảo vệ môi trường đã được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường
chủ yếu được soạn thảo và thông qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường được đề cập
trong các văn bản khác như Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Lao
động, Luật Đất đai, Luật Phát triển và bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân,
Pháp lệnh về đê điều, Pháp lệnh về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản... Tuy nhiên, những
văn bản pháp luật trên chỉ dừng lại ở góc độ chung là bảo vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Riêng đối với các quy định liên quan đến trách nhiệm tài chính của các chủ thể
đối với môi trường thì lại được đề cập rải rác trong nhiều văn bản như Luật Thuế tiêu
thụ đặc biệt (1998, 2005), Pháp lệnh Thuế tài nguyên (1990), Luật Thuế sử dụng đất
nông nghiệp (1993), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (2005, 2008)...
Như vậy, thực tế cho thấy, thuế môi trường đang được đề cập ở quá nhiều văn bản
nhưng không mang tính hệ thống và không thể hiện được vai trò tích cực của chính
sách thuế trong vấn đề bảo vệ môi trường cũng như tác động đến trách nhiệm của từng
cá nhân, cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường. Trong Luật Bảo vệ môi trường năm
2005, tại Điều 112 có quy định về nộp thuế môi trường nhưng trên thực tế chưa có cơ
sở nào để thực hiện.
Điều đó đòi hỏi sự cấp thiết phải xây dựng một chính sách pháp luật về thuế môi
trường trong giai đoạn hiện nay.
2. Sự cần thiết ban hành luật thuế môi trường:
Bảo vệ môi trường luôn được xác định là một chủ trương, chính sách lớn, nhiệm
vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Điều 29
Hiến pháp năm 1992 qui định “các cơ quan Nhà nước, các đơn vị thuộc lực lượng vũ
trang, các đoàn thể xã hội và tất cả các cá nhân phải tuân thủ các quy định của Nhà
nước về việc sử dụng hợp lý các tài sản thiên nhiên, và bảo vệ môi trường.”; Điều 4

Luật Bảo vệ môi trường qui định “ Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát
triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước…”; Điều 112
Luật Bảo vệ môi trường qui định “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh
một số sản phẩm gây tác động xấu lâu dài đến môi trường và sức khỏe con người thì
phải nộp Thuế môi trường”; Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 được Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông qua đã khẳng định quan điểm phát triển đất
nước là “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Báo cáo chính trị tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X "Ngăn chặn hành vi huỷ hoại và gây ô nhiễm môi trường,
khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường....Hoàn chỉnh pháp luật, tăng cường quản
lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên”. Mục tiêu chiến lược của chính
sách về môi trường trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020, cũng được xác định rõ “Tiếp tục phòng ngừa ô nhiễm, tăng

×