Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

THỦ TỤC TÁI THẨM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.33 KB, 9 trang )

THỦ TỤC TÁI THẨM
A . LỜI MỞ ĐẦU :
Đấu tranh phòng chống tội phạm là một vấn đề quan trọng trong xã hội ngày nay. Với tình
hình tội phạm ngày càng trở lên phức tạp, với diễn biến khó lường, trong quá trình quản lí xã hội ,
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để làm cơ sở , nền tảng cho các cá nhân,cơ quan
có thẩm quyền,và toàn dân tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm. Mà quan trọng nhất, cơ bản
nhất trong số đó là Bộ luật hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, hai Bộ luật này
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tất cả các quy định của pháp luật nhằm phát hiện chính xác,
nhanh chóng và xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân khỏi các hành vi phạm tội và giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và
tôn trọng đạo đức xã hội.
Trong quá trình tố tụng hình sự giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi
giai đoạn thể hiện một hướng nhất định của tố tụng, chúng có nhiệm vụ , tính chất và phương pháp
giải quyết riêng. Các vụ án đã được giải quyết, kết quả là những bản án , những quyết định đã có
hiệu lực, không phải bao giờ cũng luôn đúng đắn, khách quan .Do vậy pháp luật đã quy định giai
đoạn đặc biệt của tố tụng hình sự đó là Tái thẩm . Khi tìm đọc về Tái thẩm em cảm thấy đây là một
vấn đề khá hấp dẫn. Vì vậy em chọn đề bài số 37-về “ thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự” để
trình bày trong bài tập lớn học kì.
Do thời gian có hạn và hạn chế bản thân, bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn, để bài viết của em hoàn
thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG:
I) KHÁI NIỆM. NHIỆM VỤ VÀ TÍNH CHẤT CỦA TÁI THẨM.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định tại Điều 290 về tính chất của tái thẩm như
sau:
“Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó.”


Đây là giai đoạn có nhiều điểm giống với giai đoạn giám đốc thẩm.
Cũng như Giám đốc thẩm, tái thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố tụng hình sự, được quy
định trong bộ luật tố tụng hình sự, đây là giai đoạn xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật rơi vào trường hợp của điều luật 290 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Giai đoạn này
nhằm mục đích sửa chữa những sai lầm trong trường hợp tòa án đã xử vụ án không đúng.
Tuy nhiên trình tự Tái thẩm có điểm khác với trình tự giám đốc thẩm đó là: Trong trình tự
giám đốc thẩm thì nội dung là sửa chữa những sai lầm nghiêm trọng của tòa án trong việc xử lí vụ
án đã đánh giá sai tính chất của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, vi phạm thủ tục tố tụng, áp
dụng sai luật. Còn trong trình tự tái thẩm thì nội dung là sửa chữa sai lầm của tòa án trong việc giải
quyết vụ án vì mới xác định được tình tiết mới mà Tòa án đã không biết được khi ra bản án hoặc
quyêt định mà những tình tiết này đã làm thay đổi cả nội dung của bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật trên thực tế. Nếu những tình tinh tiết mới này không làm thay đổi cơ bản nội
1
dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì không thuộc trường hợp phải xét
xử theo thủ tục tái thẩm .Cũng như tái thẩm sẽ đặt ra vói trường hợp tòa án cố ý ra bản án hoặc
quyết định trái pháp luật.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng trong thủ tục tái thẩm Tòa án không có nhiệm vụ xét xử lại vụ án
mà chỉ tiến hành kiểm tra, xem xét, đối chiếu với những quy định của pháp luật xem bản án hoặc
quyết định bị kháng nghị có căn cứ và hợp pháp không. Khi xem xét, nếu Tòa án thấy bản án , quyết
định bị kháng nghị có căn cứ quy định tại Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Tòa án tái
thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại, chứ không
có quyền sửa bản án, quyết định đó.
II) KHÁNG NGHỊ TÁI THẨM.
1. Đối tượng và căn cứ để kháng nghị theo thủ tái thẩm.
Theo Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì đối tượng của việc kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm bao gồm những bản án hoặc quyết định đã cá hiệu lực pháp luật.
Theo Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về những căn cứ để kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm :
“Những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là:
1. Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những

điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật;
2. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ
án bị xét xử sai;
3. Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác
trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;
4. Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.”
Thực chất thì căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là những tình tiết mới được phát hiện
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra
bản án hoặc quyết định đó.
- Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có
những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật :
Sự tham gia của người làm chứng đặt ra trong hầu hết các vụ án, việc có mặt của người làm
chứng là người biết được các tình tiết có lien quan đến vu án nên lời khai của người làm chứng có ỹ
nghĩa quan trọng cần thiết trong việc giúp cơ quan tiến hành tố tụng có thể xác định sự thật nhanh
chóng, khách quan. Tuy nhiên, không phải mọi lời khai của người làm chứng đều cần xem xét tới
mà chỉ những lời khai của người làm chứng có những điểm quan trọng được phát hiện là không
đúng sự thật dẫn tới việc Tòa án ra bản án hoặc quyết định không khách quan thì mới là căn cứ để
kháng nghị tái thẩm.
Tại khoản 3 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về những trường hợp cần
giám định :
“Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
a) Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao
động;
b) Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách
nhiệm hình sự của họ;
c) Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi
ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án;
2
d) Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài
liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;

đ) Chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả.”
Khi có sự tham gia của người giám định thì người giám định phải chịu trách nhiệm cá nhân về
kết luật giám định của mình. Nhưng để trở thành căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì kết
luận giám định đó có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật mà dẫn tới việc
ra bản án hoặc quyết định không phù hợp với thực tế khách quan.
Trường hợp vụ án giải quyết cần có người phiên dịch, khi xem xét phát hiện lời phiên dịch có
những điểm quan trọng là không đúng sự thật trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật,
thì Viện trưởng viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm để yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền xét xử lại.
- Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho
vụ án bị xét xử sai:
Kết luận không đúng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là căn
cứ để kháng nghị theo thủ tuc tái thẩm khi những kết luận này là do cố ý , có tính chất phạm tội của
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,Hội thẩm nhân dân mà khi ra bản án hoặc quyết định Tòa
án không biết được. Nếu trường hợp những người này có kết luận không đúng nhưng không phải do
cố ý mà do những nguyên nhân khác như: năng lực chuyên môn kém, trình độ yếu…dẫn tới việc ra
kết luận sai và làm cho bản án hoặc quyết định của tòa án không khách quan thì đây không được
coi là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm mà nếu bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật
thì đây là trường hợp xem là căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
- Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu
khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật:
Đây là căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm mà có thể do những người tham gia tố tụng và
những người khác gây ra. Khi mà trong hồ sơ vụ án có những vật chứng, biên bản điều tra, biên bản
các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu giả mạo khác không đúng sự thật là cho các cơ quan
tiến hành tố tụng : cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án không hề biết về sự không khách quan đó
nên đã ra bản án hoặc quyết định không đúng với các tình tiết khách quan, sai lầm , khi ấy đây trở
thành căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm theo như điều luật quy định.
- Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật :
Căn cứ này trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 chưa có mà được bổ xung, mở rộng trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Xét theo Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì nhìn

chung lại thủ tục tái thẩm chỉ được áp dụng với những bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện. Trước khi kháng nghị,
Viện kiểm sát phải điều tra xác minh để kết luận về tình tiết mới được phát hiện có được xem là căn
cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hay không.
Cần lưu ý trong thực tế, có trường hợp vụ án có tình tiết mới được phát hiện nhưng việc xử lí
vụ án không sai nên không tái thẩm .Ví dụ: người tiến hành tố tụng nhận hối lộ của bị cáo nhưng
không cần làm sai lệch vụ án hoặc kết luận sai vì hành vi của bị cáo chưa đủ cơ sở để truy cứu trách
nhiệm hình sự, trường hợp này nếu phát hiện thì xử lí theo tội nhận và đưa hối lộ mà không cần phải
tiến hành tái thẩm.
2 . Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện.
Việc thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện, quy định tại Điều 292 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 :
3
“1. Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết mới
của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng
nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó.
2. Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện trưởng Viện
kiểm sát ra quyết định kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Nếu
không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện
biết rõ lý do của việc không kháng nghị.”
Theo nội dung của Điều luật trên thì phạm vi chủ thể có quyền thông báo những tình tiết mới
phát hiện của vụ án là rất rộng, bao gồm mọi công dân, cơ quan, tổ chức và ngay cả người bị kết án
đều có quyền này.
Mặc dù bản án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án vẫn có quyền thông báo cho cơ
quan có thẩm quyền đó là Viện kiểm sát biết những tình tiết mới được phát hiện của chính vụ án mà
mình bị kết án. Điều này khẳng định sự công minh, khách quan của pháp luật .
Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cũng có quyền báo cho Viện kiểm sát biết về những
tình tiết mới của vụ án mà họ có liên quan, hay họ biết phát hiện ra.
Các cơ quan , tổ chức, người bị kết án hay mọi công dân khi thông báo cho Viện kiểm sát về
những tình tiết mới của vụ án có thể trình bày bằng Đơn từ và gửi đến bất cứ Viện kiểm sát hoặc

Tòa án nào khi chưa xác định được nơi có thẩm quyền nhận thông báo đó. Và nếu Tòa án nhận được
đơn từ thông báo đó thì chuyển cho Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Viện kiểm sát trước khi ra quyết định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì phải xem xét tình
tiết mới được phát hiện có xác thực hay không , nếu khi thấy cần thiết Viện kiểm sát tiến hành xác
minh tình tiết mới được phát hiện. Khi có đủ cắn cứ theo điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
thì Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án có
thẩm quyền. Nếu không có căn cứ để phải tái thẩm vụ án thì Viện kiểm sát trả lời cho chủ thể đã
báo tin.
3. Những người có quyền kháng nghị tái thẩm.
Khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ thuộc
thẩm quyền của Viện kiểm sát và nên trong phạm vi quyền hạn của mình thì Viện trưởng Viện kiểm
sát sẽ ra quyết định kháng nghị. Nội dung này được quy định tại điều 293 của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003:
“1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối
với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới.
3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối
với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với
những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.
4. Bản kháng nghị của những người quy định tại Điều này phải được gửi cho người bị kết án
và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị.”
- Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của tòa án các cấp : tòa hình sự TANDTC, Tòa phúc thẩm TANDTC , TAQSTƯ, Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, Tòa quan sự cấp quân khu, Tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu
vực, nhưng lại trừ quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Chỉ Chánh án TANDTC và Viện
4
trưởng VKSNDTC mới có quyền kháng nghị tái thẩm theo thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi

đưa ra thi hành.
- Viện trưởng VKSQSTƯ có quyền kháng nghị tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới : là Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án cấp khu
vực.
- Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân câp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu
có quyền kháng nghị tái thẩm đối với bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân
sự khu vực.
Sau khi đã kháng nghị thì bản kháng nghị phải được gửi cho người bị kết án và những người
có quyền lợi và nghĩa vụ lien quan tới việc kháng nghị.
4 . Tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đã bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Vì việc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có thể dẫn tới chỗ làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Nên người đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có
quyền tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, khi xét
thấy trong thời gian chờ xét xử tái thẩm mà việc thi hành bản án hoặc quyết định đó có thể gây ra
thiệt hại cho người phai thi hành.
Cơ sở pháp lí đó là Điều 294 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003:
“Những người đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án
hoặc quyết định bị kháng nghị”.
5. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được quy định tại Điều 295 của bộ luật tố tụng
hình sự như sau:
“1. Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án phải tiến hành trong thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của Bộ luật hình sự và thời hạn kháng nghị không
được quá một năm, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện.
2. Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được tiến
hành trong cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
3. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự”

- Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án có thể là : xử them tội khác, phạt nặng
hơn, kết tội và xử phạt người đã xác định là không phạm tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt .Luật quy định thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị
kết án là một năm , kể từ ngày Viện kiển sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện,với
mục đích giữ tính ổn định của bản án đã có hiệu lực pháp luật và thể hiện chính sách nhân đạo của
nhà nước. Kháng nghị tái thẩm trong trường hợp này chỉ được tiến hành trong thời hạn truy cứu
trách nhiệm hình sự.
- Kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian như: kháng
nghị để minh oan cho người bị kết án, kháng nghị bỏ bớt tội cho người bị kết án về nhiều tội, kháng
nghị giảm nhẹ hình phạt vì phát hiện tình tiết giảm nhẹ quan trọng…kháng nghị này còn đặt ra ngay
cả khi người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
- Kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự như: xử về người phải bồi thường, về mức bồi
thường thiệt hại… Kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền và nghĩa vụ lien quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự.
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×