Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH Giáo trình môn: Kinh tế chính trị Bài 5 CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.98 KB, 36 trang )

CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
Giáo trình môn: Kinh tế chính trị
Bài 5
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
Người biên soạn: PGS, TS An Như Hải
Số tiết giảng trên lớp: 10
Mục tiêu của bài:
- Kiến thức: Trang bị những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự cần
thiết, nội dung và điều kiện, tiền đề để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh mới
của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Kỹ năng: Trên cơ sở các kiến thức trên và kinh nghiệm thực tiễn của
bản thân, người học có thể phát triển việc nghiên cứu, đề xuất việc vận dụng chủ
trương, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về CNH, HĐH gắn
với phát triển kinh tế tri thức vào thực tiễn ngành, địa phương mà mình công tác.
- Tư tưởng: Nhận thức đúng tầm quan trọng của đẩy mạnh CNH, HĐH
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong các nhiệm vụ kinh tế xã hội
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong yêu cầu phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta để chủ động sáng tạo
trong hoạch định chính sách và tổ chức thực tiễn.
Nội dung chi tiết:
1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ
KINH TẾ TRI THỨC
1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa
1
Vào cuối thế kỷ thứ XVIII, cuộc Cách mạng công nghiệp được diễn ra
ở nước Anh với sự xuất hiện “chiếc thoi bay” trong lĩnh vực se sợi. Nước Anh
trở thành quê hương của Cách mạng công nghiệp, là nước tiến CNH đầu tiên.
Manchester là thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Kể từ đây, nhân


loại bước vào một giai đoạn phát triển mới – giai đoạn CNH.
Sau Anh là lần lượt các nước: Pháp vào đầu thế kỷ XIX, Mỹ và Đức vào
giữa thế kỷ XIX, Nhật, Nga và nhiều nước châu Âu khác vào cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX tiến hành CNH và đã lần lượt trở thành nước công nghiệp.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (giữa thế kỷ XX), nhiều nước thuộc
Thế giới thứ ba
1
tiến hành quá trình này với Chiến lược CNH riêng của mình.
Một số dựa theo mô hình CNH của Liên xô (cũ), một số dựa theo mô hình của
Mỹ. Đến nay, một số nước đã thực hiện CNH rút ngắn thành công, đã trở thành
nước công nghiệp. Tuy nhiên, còn không ít nước trong đó có Việt Nam vẫn
trong tình trạng nền kinh tế nông nghiệp, đang trong giai đoạn tiến hành CNH.
Do thời điểm lịch sử tiến hành CNH ở các nước không giống nhau nên
đã có những quan niệm khác nhau về CNH. Việc nhận thức đúng phạm trù
CNH trong một giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước là rất cần thiết, nó
không chỉ có ý nghĩa về lý luận mà còn có tính thiết thực trong hoạch định và
thực thi chính sách phát triển.
Thực tế lịch sử cho thấy, những nước đi đầu về CNH như Anh, Pháp và
một số nước Tây Âu khác vào thời điểm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX,
đi liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất với công nghệ chủ đạo là
máy hơi nước. Trong điều kiện đó, CNH được hiểu là quá trình thay thế lao
động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, quá trình chuyển nền kinh tế
từ nông nghiệp là chủ yếu lên công nghiệp, biến một nước nông nghiệp
truyền thống thành nước công nghiệp.
1
"Thế giới thứ ba" được sử dụng lần đầu tiên năm 1952 bởi nhà nhân khẩu học Pháp Alfred Sauvy đặt ra khi
liên tưởng đến Đẳng cấp thứ ba trong Cách mạng Pháp. Về sau, nó trở thành từ ngữ chỉ các nước không
thuộc thế giới phương Tây, cũng không thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trong Chiến tranh lạnh. Những nước
này tham gia Phong trào không liên kết thành lập năm 1955 sau Hội nghị Bandung (Indonesia). Ngày nay, từ
ngữ này để chỉ các nước đang phát triển, bất kể hình thức chính trị ra sao.

2
Những biểu hiện đầu tiên của CNH được gắn với nội dung của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Đó là: (i) Chuyển chỗ làm việc từ gia
đình vào các công xưởng trên quy mô lớn; (ii) Tập trung dân cư ở các khu đô
thị; (iii) Thay thế hệ thống kỹ thuật thủ công dựa vào gỗ, sức cơ bắp, sức
nước, sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật cơ khí với
nguồn động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và năng
lượng mới là sắt và than đá, tạo ra sự đột phá trong phát triển lực lượng sản
xuất, tạo bước phát triển vượt bậc của công nghiệp; (iv) Tạo ra những công
việc kinh doanh mới nhờ có được những mạng lưới giao thông, vận tải và
thông tin liên lạc mới; (v) Tăng mạnh quy mô của thị trường và việc sử dụng
tín dụng, ngân hàng và các dịch vụ tài chính có liên quan; và (vi) Áp dụng
rộng rãi các phát minh mới. Với những biểu hiện đó, CNH còn được hiểu là
quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế
của một vùng hay một nền kinh tế, quá trình chuyển nền kinh tế dựa chủ yếu
vào nông nghiệp lên nền kinh tế dựa chủ yếu vào công nghiệp. Đây không chỉ
là quá trình chuyển biến về kinh tế mà còn chuyển biến cả về văn hóa và xã
hội để đạt tới một xã hội mới - xã hội công nghiệp.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được
diễn ra với quy mô và thành quả lớn hơn rất nhiều so với cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất. Nhiều công nghệ mới được sản xuất ra và đưa vào
sử dụng. Điển hình là con người đã sản xuất ra động cơ điện vào năm 1872,
sản xuất ra động cơ đốt trong (động cơ diesel) vào năm 1883, sản xuất ra kim
loại màu và các hóa phẩm tổng hợp. Trong điều kiện đó, quan niệm về CNH
có sự thay đổi. Nó không còn đơn thuần là cơ khí hóa, mà còn được gắn với
quá trình điện khí hóa, hóa học hóa và cơ giới hóa.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (khoảng giữa thế kỷ XX), cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ ba được diễn ra trên thế giới với sự phát triển vượt
bậc và có tính đột phá của khoa học và công nghệ. Trong giai đoạn này, tuy
3

những quốc gia đã hoàn thành CNH đang tiến rất mạnh vào nền kinh tế hiện
đại, nhưng còn không ít quốc gia vẫn trong tình trạng nền kinh tế lạc hậu,
đang hoặc thậm chí có nước còn chưa bước vào giai đoạn CNH. Trong bối
cảnh đó, việc nhận thức phạm trù CNH còn được hiểu đó là quá trình tự động
hóa sản xuất và phát triển các công nghệ chất lượng cao…
Ngoài những quan niệm trên, trong kho tàng tri thức của nhân loại còn có
những quan niệm khác về CNH dựa trên một số mục tiêu nhất định về trình độ
phát triển của tư liệu lao động, phương thức tổ chức sản xuất, thu nhập quốc
dân, cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp, cơ cấu lao động, mức độ phát triển
công nghiệp chế tác, loại công cụ sản xuất, các hàm sản xuất cơ bản, phương
thức sản xuất
Tuy có những quan niệm khác nhau về CNH, nhưng về cơ bản các
quan niệm trên vẫn có những điểm chung và có thể được hiểu theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa hẹp, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp
(hay tiền công nghiệp) lên nền kinh tế lấy công nghiệp làm chủ đạo, từ chỗ tỷ
trọng lao động nông nghiệp chiếm chủ yếu giảm dần và nhường chỗ cho lao
động công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn.
- Theo nghĩa rộng, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông
nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp
lên xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp.
Nó không chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm cả các biến
đổi về văn hóa và xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, tức
là trình độ văn minh cao hơn.
1.2. Quan niệm về hiện đại hóa
Theo cách hiểu thông thường, hiện đại hóa (HĐH) là quá trình “làm
cho mang tính chất của thời đại ngày nay”
2
, Đó là quá trình biến đổi từ tính
chất truyền thống cũ lên trình độ tiên tiến của thời đại hiện nay.
2

Viện Ngôn ngữ học (1995), Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), NXB Đà Nẵng, tr 422.
4
Theo ý nghĩa về kinh tế - xã hội, HĐH là quá trình chuyển dịch căn bản
từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế và
đời sống xã hội mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay.
HĐH về kinh tế vừa có sự thay đổi về tính chất, vừa có tính xác định về
thời gian. Giai đoạn đầu của hiện đại hóa được xác định trùng với thời kỳ diễn
ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (còn gọi là thời kỳ CNH). Trong
giai đoạn này, CNH là nội dung cốt lõi của HĐH.
Tuy một số nước đi trước đã hoàn thành CNH và đã trở thành nước
công nghiệp phát triển, nhưng quá trình HĐH ở các nước đó vẫn tiếp tục diễn
ra ở trình độ cao hơn. Thực tế cho thấy, ở mỗi trình độ phát triển khác nhau,
HĐH mang những đặc trưng khác nhau.
Đối với các nước phát triển, HĐH là quá trình chuyển dịch từ xã hội
dựa trên nền kinh tế công nghiệp lên xã hội dựa trên nền kinh tế tri thức.
Đối với các nước đang phát triển, HĐH là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ
trình phát triển để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn. Do tiến hành
CNH trong bối cảnh mới của thế giới nên bên cạnh việc dựa vào các nguồn lực
trong nước, các nước đang phát triển còn tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài
thông qua thu hút đầu tư để tìm kiếm nguồn vốn và công nghệ mới. Đây chính
là kiểu CNH rút ngắn hiện đại. Nó khác với kiểu CNH rút ngắn cổ điển đã từng
tiến hành ở các nước như Liên Xô (cũ) và Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX trước đây.
CNH rút ngắn hiện đại là cách thức mà nước đi sau tiến hành CNH khi
trên thế giới đã có những quốc gia hoàn thành CNH, những nội dung của CNH
đã được triển khai ổn định ở các nước đi trước (gọi là nước công nghiệp phát
triển). Do sự biến đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là
từ khi diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên những công
nghệ hiện có của các nước này dễ bị lạc hậu. Do cạnh tranh trên thị trường, các
nước này phải “chiếm lĩnh đỉnh cao công nghệ”, nên họ sẵn sàng chuyển giao

5
công nghệ hiện có của họ cho nước đi sau để bước vào thế hệ công nghệ mới.
Bởi vậy, nước đi sau có rất nhiều phương án lựa chọn trong phát triển công
nghệ mà không nhất thiết phải dựa vào phát minh. Đây chính là “lợi thế của
nước đi sau”. Dựa vào lợi thế này, nước đi sau có thể rút ngắn đáng kể thời
gian để sớm trở thành nền kinh tế hiện đại. Tại các nước này, quá trình tiến
hành CNH được gắn kết với quá trình HĐH.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân
loại về CNH và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là một nước
đi sau đang trong quá trình phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam tại Hội nghị
Trung ương lần thứ bảy khóa VII (năm 1994), nêu chủ trương tiến hành xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai
đoạn mới bằng con đường CNH, HĐH và nêu quan niệm: “CNH, HĐH là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện,
phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
3
.
Theo quan niệm này, quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung CNH và
HĐH. Nó không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp mà còn phải thực
hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân theo hướng hiện đại. Nó không chỉ là một quá trình phát triển tuần
tự từ cơ giới hóa lên tự động hóa, tin học hóa mà còn kết hợp giữa thủ công
truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những
khâu có thể và mang tính quyết định. Quan niệm trên không bó hẹp CNH
trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần
3

Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa VII,
Hà Nội, tr 65.
6
để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khi như cách hiểu trước đây,
mà còn là một sự kết hợp với những thành tựu mới nhất về khoa học và công
nghệ của nhân loại.
1.3. Quan niệm về kinh tế tri thức
Bên cạnh cách giải thích truyền thống về lịch sử phát triển nhân loại
tiếp cận từ phương thức sản xuất xã hội, vào đầu những năm 90 thế kỷ XX
nhiều nhà khoa học còn phân chia giai đoạn lịch sử văn minh nhân loại căn cứ
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo cách này, nhân loại đã
trải qua nền văn minh nông nghiệp (từ khi xuất hiện xã hội loài người đến
những năm 70 của thế kỷ XVIII) lên nền văn minh công nghiệp (từ những
năm 70 thế kỷ XVIII đến nay) và đang trong giai đoạn quá độ chuyển lên một
nền văn minh cao hơn gọi là nền văn minh trí tuệ. Trong đó, nền kinh tế được
chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và đang quá độ chuyển
lên kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là gì?
Vào đầu những năm 90 thế kỷ XX, do nhận thức về vai trò quan trọng
hàng đầu của sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trong tăng trưởng kinh
tế, các nhà khoa học và tổ chức thực tiễn đã sử dụng thuật ngữ “kinh tế tri
thức”. Thuật ngữ này nhanh chóng được thừa nhận và đưa vào sử dụng rộng
rãi. Tuy đã có nhiều quan niệm và giải thích khác nhau về thuật ngữ này
4
,
song các nhà khoa học đều có sự thống nhất trong nhận thức về bản chất của
nền kinh tế tri thức khác với hai nền kinh tế trước nó. Nếu trong quá trình sản
xuất của cải của nền kinh tế nông nghiệp dựa chủ yếu vào sức cơ bắp của con
người và tài nguyên thiên nhiên, còn trong nền kinh tế công nghiệp tuy đã có
4

Xem: Ngân hàng Thế giới: Báo cáo về tình hình phát triển thế giới: Tri thức cho phát triển, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1998; OECD, The Knowledge-based Economy, A Set of Facts and Figures, Paris
1999; Nền kinh tế tri thức – nhận thức và hành động, NXB Thống kê, Hà Nội, 2000; Báo Nhân Dân ngày
11/7/2001: Kinh tế tri thức; GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên): Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004; Tạp chí Cộng sản, ngày 7/5/2012:
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường trong thời kỳ quá
độ, http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/ …
7
sự trợ giúp của máy móc nhưng sức cơ bắp của con người và tài nguyên thiên
nhiên vẫn giữ trọng yếu, thì trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò
quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Trên thực tế, không có một nền kinh tế nông nghiệp hay nền kinh tế
công nghiệp thuần túy. Tức là trong nền kinh tế nông nghiệp cũng đã chứa
đựng một số yếu tố của nền kinh tế công nghiệp và trong nền kinh tế công
nghiệp cũng vẫn còn một số yếu tố của nền kinh tế nông nghiệp. Trong nền
kinh tế nông nghiệp, tri thức chủ yếu là những kinh nghiệm được tích lũy từ
các hoạt động thực tế, năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất đều hết sức
thấp kém. So với nền kinh tế nông nghiệp, trong nền kinh tế công nghiệp, tri
thức đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng hơn. Nó không chỉ là kinh nghiệm
từ các hoạt động thực tế, mà còn khám phá ra những quy luật vận động của tự
nhiên, xã hội và tư duy để đưa ra những sáng chế, phát minh nhằm tăng năng
suất, chất lượng và hiệu quả. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức là bộ phận
nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất hiện đại,
mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại đóng vai trò quyết định sự
phát triển xã hội.
Nền kinh tế tri thức có các đặc điểm chủ yếu như sau:
- Tri thức là nguồn vốn vô hình to lớn, quan trọng trong đầu tư phát
triển, nền kinh tế dựa chủ yêu vào tri thức.
- Sáng tạo là động lực của sự phát triển.
- Nền kinh tế có tính chất toàn cầu hóa, trong đó mạng thông tin trở

thành kết cấu hạ tầng quan trọng nhất của xã hội.
- Sự di chuyển cơ cấu lao động theo hướng giảm số lao động trực tiếp
làm ra của cải, tăng số lao động xử lý thông tin, làm dịch vụ, di chuyển sản
phẩm và làm văn phòng.
- Học suốt đời, đào tạo liên tục, giáo dục thường xuyên để không
ngừng phát triển tri thức, sáng tạo công nghệ mới, làm chủ công nghệ cao,
8
hoàn thiện các kỹ năng, thích nghi nhanh với sự phát triển là một yêu cầu
nghiêm ngặt; xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức.
- Tri thức hóa các quyết sách kinh tế.
- Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công
cụ cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền kinh tế tri thức, chủ thể là
công nhân trí thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng
tri thức.
Như vậy, nền kinh tế tri thức là một nền kinh tế tiếp nối nền kinh tế công
nghiệp, phát triển ở trình độ cao hơn nền kinh tế công nghiệp, là nền kinh tế mà
nhân loại đang hướng tới. Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong
đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự
phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
2. BỐI CẢNH MỚI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC Ở VIỆT NAM
2.1. Bối cảnh mới của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Việt Nam tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh mới của tình hình kinh
tế thế giới và trong nước.
2.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới
Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới được phát triển theo hai xu
hướng bao trùm là sự phát triển của kinh tế tri thức và toàn cầu hóa kinh tế.
2.1.1.1. Sự phát triển của kinh tế tri thức
Phát triển kinh tế tri thức là xu hướng dựa trên trình độ rất cao của lực

lượng sản xuất hơn hẳn so với kinh tế công nghiệp. Theo xu hướng này, nền
kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc và toàn diện cả về trình độ công nghệ,
ngành sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Tri thức khoa học và công nghệ, kỹ năng
của con người là những yếu tố quyết định nhất của sản xuất và trở thành lực
lượng sản xuất quan trọng hàng đầu. Những yếu tố đó trở thành nguyên nhân
9
trực tiếp của mọi biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội thông qua việc tạo ra
những ngành sản xuất mới với những công nghệ mới, phương pháp sản xuất
mới, những vật liệu và nguồn năng lượng mới với những ưu thế vượt trội so
với những công cụ, nguyên liệu, năng lượng và phương pháp truyền thống do
nền kinh tế công nghiệp tạo ra.
Với xu hướng này, tuy vai trò của con người trong lực lượng sản xuất
không thay đổi, họ vẫn là chủ thể của quá trình sản xuất, sáng tạo và áp dụng
những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, nhưng tính chất hoạt động
và yêu cầu đặt ra đối với họ đã có sự thay đổi căn bản so với người lao động
trong nền kinh tế nông nghiệp và nền kinh tế công nghiệp. Trong nền kinh tế
công nghiệp, cường độ lao động của con người đã được giảm nhẹ đáng kể
nhờ sự trợ giúp của máy móc, thiết bị ngày càng hiện đại, để sử dụng chúng
có hiệu quả, người lao động phải có sự hiểu biết về tính năng, tác dụng của
máy móc đó và về quá trình sản xuất nói chung. Trong nền kinh tế tri thức,
người lao động là người lao động trí óc, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất, sản
phẩm của họ là những phát minh được ứng dụng ngay vào sản xuất. Tri thức
khoa học và công nghệ là yêu cầu hàng đầu đối với người lao động.
Trên thực tế, xu hướng phát triển kinh tế tri thức đã được khởi động
cách đây hàng chục năm, nhất là từ cuối những năm 70 thế kỷ XX khi trên thế
giới bắt đầu diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Theo xu
hướng này, đến nay bên cạnh những phát minh mới trong khoa học cơ bản, con
người đã đi rất xa trong việc sáng tạo ra các công cụ sản xuất mới (máy tính
điện tử, máy tự động, hệ thống máy tự động, robot ), những năng lượng mới
(nguyên tử, nhiệt hạch, mặt trời, thủy triều, gió…), vật liệu mới (pô-ly-me, vật

liệu tổ hợp composite, gốm cao cấp như siêu bền, siêu cứng, siêu dẫn…), công
nghệ sinh học (có những đột phá phi thường trong công nghệ di truyền tế bào,
vi sinh, enzim… góp phần giải quyết nạn đói, chữa bệnh), nông nghiệp (tạo
được cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp: cơ khí hóa, điện khí hóa lai
10
tạo giống mới, không sâu bệnh, nhờ đó con người đã khắc phục được nạn
đói), giao thông vận tải và thông tin liên lạc (máy bay siêu âm, tàu hỏa siêu
tốc, cáp sợi thủy tinh quang dẫn,… truyền hình trực tiếp, điện thoại di động,
công nghệ chinh phục vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, thám hiểm mặt trăng, du hành
vũ trụ…), công nghệ thông tin phát triển và bùng nổ mạnh trên toàn cầu,
mạng thông tin máy tính toàn cầu (Internet) ứng dụng sâu rộng trong mọi
ngành kinh tế và xã hội. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
chính là bước quá độ chuyển nền kinh tế công nghiệp lên nền kinh tế tri thức.
Xu hướng phát triển kinh tế tri thức đã và đang được diễn ra ngày càng
mạnh mẽ ở các nước công nghiệp phát triển. Do sức hấp dẫn đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của xu hướng này mà nó đã và đang cuốn hút ngày càng
nhiều nước đang phát triển. Đã có một số nước đang phát triển thành công
nhờ phát triển theo xu hướng này
5
.
2.1.1.2. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng trong đó sự gia tăng mạnh mẽ
các mối quan hệ kinh tế vượt ra biên giới quốc gia, vươn tới quy mô toàn cầu,
tạo nên sự gắn kết các nền kinh tế thành một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Theo xu hướng này, nhân loại đang đẩy nhanh việc đi đến một thị trường thế
giới thống nhất, một hệ thống tài chính tín dụng toàn cầu, phát triển và mở
rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu, mở rộng giao lưu kinh tế và
khoa học, công nghệ giữa các nước, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội có
tính toàn cầu. Với xu hướng này, thương mại quốc tế phát triển rất nhanh, đầu
tư nước ngoài tăng trưởng mạnh, thị trường tài chính quốc tế được mở rộng

và các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn
6
.
5
Ví dụ: Cách đây 40 năm, Gana và Hàn Quốc có cùng mức thu nhập quốc dân theo đầu người. Nhưng vào
đầu những năm 1990, thu nhập bình quân theo đầu người của Hàn Quốc cao hơn thu nhập theo đầu người của
Gana 6 lần. Một số người cho rằng một nửa của sự khác nhau đó là do Hàn Quốc có sự thành công lớn hơn
trong việc thu nhập và sử dụng tri thức (Nguồn: WB, Báo cáo về tình hình phát triển thế giới: Tri thức cho
phát triển, NXB CTQG, Hà Nội, 1998, tr. 37).
6
Theo thông tin thì trong vòng ba chục năm gần đây, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của thương mại
quốc tế cao gấp khoảng 1,5-1,6 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu. Nếu tốc độ tăng trưởng mậu dịch
hàng năm của thế giới từ năm 1980 lại đây khoảng 5,5-5,6% thì tốc độ chu chuyển vốn quốc tế đạt 20%. Chỉ
riêng từ năm 1979 đến năm 2006, kim ngạch mậu dịch hai chiếu Mỹ - Trung Quốc tăng 144 lần.
11
Hiện nay, bên cạnh Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một hình
thức toàn cầu hóa kinh tế lớn nhất, trên thế giới còn có các tổ chức khác mang
tính toàn cầu hóa và nhiều tổ chức kinh tế khu vực như NAFTA, EU,
ASEAN, AFEC, MERCOSUR… và các tổ chức tiểu vùng như Hiệp hội
thương mai tự do châu Âu, Tam giác tăng trưởng Singapore – Malaixia –
Inđônêxia, Hành lang kinh tế Đông – Tây…
Xu hướng toàn cầu hóa đã và đang thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản
xuất, đẩy nhanh đầu tư và khai thác triệt để khoa học, công nghệ, tăng cường
hợp tác của các nước theo hướng ngày càng toàn diện và nâng cao tốc độ tăng
trưởng kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Nó không chỉ tạo ra cơ hội mới cho phát
triển kinh tế của các nước mà còn đặt các nước, nhất là các nước đang phát
triển trước những thách thức cạnh tranh gay gắt. Trong xu hướng này, có sự
chuyển dịch căn bản lợi thế lợi thế phát triển: từ đất đai, tài nguyên (lợi thế
trong nền kinh tế nông nghiệp) và vốn tài chính (lợi thế quyết định của nền
kinh tế công nghiệp) chuyển sang trí tuệ của con người (lợi thế của nền kinh

tế tri thức). Việc sản xuất của mỗi quốc gia sẽ ngày càng chuyển mạnh theo
hướng trở thành một bộ phận trong cấu trúc mạng toàn cầu.
Bối cảnh của kinh tế thế giới đã và đang làm xuất hiện những cơ hội
mới và thời cơ mới cho sự phát triển nhảy vọt của nước đi sau, tiến hành
CNH muộn như Việt Nam.
2.1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước
Quá trình CNH ở nước ta được thực hiện từ đầu những năm 60 của thế
kỷ XX. Hơn 50 năm qua, đường lối CNH đất nước đã có những điều chỉnh
khá cơ bản theo sự phát triển của tư duy và điều kiện cụ thể.
Thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1985 là thời kỳ CNH được thực hiện
nhằm phục vụ cho nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Quá trình CNH được
thực hiện có kết quả ở miền Bắc vào những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất (1960-1965). Sau khi đất nước được thống nhất, đường lối, chính
sách CNH đó được thực hiện trên phạm vi cả nước với những điều chỉnh và
12
bổ sung nhất định. Song, do việc duy trì khá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập
trung trong khi bối cảnh kinh tế trong nước và trên thế giới đã thay đổi, nên
nước ta đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm 80.
Từ năm 1986 đến nay là thời kỳ thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ
cả về tư duy, quan điểm đường lối và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đường lối
CNH đã có những điều chỉnh và bổ sung quan trọng. Năm 1994, tại Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã đề ra đường lối đẩy
tới một bước CNH, HĐH. Năm 1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đề ra đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Từ sau Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001) đến nay, đường lối đẩy mạnh
CNH, HĐH được gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam thời gian qua đã đạt được những
thành tựu rất quan trọng. Nổi bật là trình độ công nghệ của một số lĩnh vực
được nâng cao theo kịp trình độ của của các nước trong cùng khu vực. Đã
phát triển một số ngành công nghiệp chất lượng cao (công nghệ thông tin và

truyền thông, điện tử ). Trình độ công nghệ trong các ngành công nghiệp đã
có những tiến bộ vượt bậc, điển hình như trong cơ khí chế tạo máy, đã làm
chủ được các công nghệ CAD, CAM, CNC trong thiết kế chế tạo các loại máy
công cụ như máy phay CNC, máy tiện… đa chức năng tiêu thụ trong nước và
bước đầu xuất khẩu; ngành đóng tàu sau 15 năm đã rút ngắn khoảng cách lạc
hậu so với thế giới từ 70 – 80 năm còn 20 – 30 năm, hiện được đánh giá xếp
thứ 5 thế giới về năng lực đóng mới. Cả nước đã có 286 khu công nghiệp, khu
chế xuất được thành lập đóng vai trò quan trọng và có tác động lan tỏa trong
phát triển công nghiệp của các vùng, miền, địa phương. Trong nông nghiệp,
nhờ đưa vào áp dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, năng
suất lao động, năng suất cây trồng, vật nuôi đã tăng lên. Đã hình thành các
vùng chuyên canh lúa gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, thủy sản, rừng nguyên
liệu. Từ một nước phải nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực, đến nay Việt
13
Nam đã có một số hàng nông sản xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới (xuất
khẩu hạt điều xếp thứ nhất thế giới; xuất khẩu gạo, cà phê xếp thứ hai; hạt
tiêu, chè xếp thứ năm; thủy sản xếp thứ mười). Ngành dịch vụ được phát triển
đa dạng, tăng khá nhanh về quy mô, ngành nghề và thị trường với sự tham gia
mạnh mẽ của các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế.
Nhờ đó, từ khi chuyển sang thực hiện CNH, HĐH đến nay, nước ta đã
đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các giai đoạn trước đó và được xếp vào
nhóm những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm cao nhất
thế giới. Theo chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, năm 2009 Việt Nam đã
vượt qua ngưỡng nghèo để tham gia vào nhóm các nước thu nhập trung bình;
thành tựu xóa đói, giảm nghèo được thế giới thừa nhận là ấn tượng…
7
.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phấn đấu đến năm 2020 trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức ở nước ta vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Đó là,

tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp và chưa bền vững. Tăng trưởng
kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên và sử dụng nhiều lao
động, ít kỹ năng, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ. Chỉ số
kinh tế tri thức còn rất thấp, chưa đạt được điểm trung bình. Theo phương
pháp đánh giá do Viện nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra, thì
Chỉ số kinh tế tri thức của Việt Nam năm 2008 là 3,02, xếp thứ 102 trong số
133 quốc gia được phân tích. Chỉ số này của Việt Nam tuy cao hơn của nhóm
thu nhập thấp nhưng thấp hơn nhiều so với chỉ số của nhóm nước thu nhập
trung bình thấp (4,1). So với các nước trong cùng khu vực, chỉ số kinh tế tri
thức của nước ta chưa bằng 1/2 chỉ số đạt được của nhóm nền kinh tế công
nghiệp mới (NIEs gồm Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông), thấp
hơn khá nhiều so với Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc và Philippines. Năng
suất lao động của Việt Nam tuy đã có chiều hướng tăng (tốc độ tăng năng suất
7
22/2/2013.
14
bình quân giai đoạn 2001 - 2010 đạt khoảng 4,8%/năm), nhưng vẫn còn thấp
hơn so với năng suất lao động của Trung Quốc khoảng 2,6 lần và Thái Lan
4,3 lần
8
. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền
kinh tế còn thấp do chi phí sản xuất của nhiều sản phẩm còn ở mức cao. Cơ
cấu nền kinh tế chuyển dịch chậm và thiếu vững chắc; tính hiện đại còn thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa
thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động còn mang
nặng tính tự phát, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hiệu quả. Việc sử dụng nguồn lực của nền kinh tế chưa có hiệu quả,
còn nhiều lãng phí. Mức sống của người dân ở nhiều nơi còn khó khăn.
2.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

CNH là con đường thiết yếu mà mọi quốc gia đều phải trải qua để đi tới
một xã hội hiện đại.
CNH, HĐH của Việt Nam được tiến hành bối cảnh xu hướng trên thế
giới đang chuyển mạnh lên nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hóa kinh
tế đã và đang tác động sâu sắc với tốc độ cao đến đời sống kinh tế - xã hội của
mọi quốc gia, trong khi đó Việt Nam vẫn trong tình trạng của một nước có
điểm xuất phát thấp, nhiều yếu tố lạc hậu, phát triển thiếu bền vững. Trong
bối cảnh nhiều cơ hội và thách thức đan xen, để đi tới một nền kinh tế hiện
đại, Việt Nam phải có những giải pháp bứt phá. Sự lựa chọn giải pháp đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là cấp thiết.
2.2.1. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là
cách thức để đất nước sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu
Trong những năm qua, tuy đã có những bước phát triển tích cực,
nhưng về cơ bản, nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nước nghèo và kém
phát triển. Chúng ta vẫn phải đương đầu với những thách thức gay gắt và
8
Ngọc Tuyên, Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn nhiều trở ngại, />doanh/ /32621, Thứ năm 24/02/2011.
15
những nhiệm vụ nan giải: một mặt, tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản đặt
ra cho nền kinh tế trong quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên trình độ
của nền kinh tế công nghiệp, như bảo đảm lương thực, thực phẩm, nhu cầu
nước sạch, trường học, đi lại cho người dân; mặt khác, phải nhanh chóng nắm
bắt các xu thế phát triển hiện đại không những chỉ để chống tụt hậu ngày càng
xa hơn so với trình độ chung của thế giới, mà còn phải thu hẹp khoảng cách
với các nước phát triển khi bản thân họ đã·có trình độ phát triển cao hơn. Khi
các yếu tố cho phát triển không chỉ đơn thuần là vốn, lao động, tài nguyên
thiên nhiên, mà còn có thêm yếu tố tri thức với ý nghĩa là yếu tố quan trọng
và trực tiếp đối với quá trình phát triển, thì việc không nhanh chóng nắm bắt
và vận dụng được tri thức mới sẽ không thể tránh khỏi sự tụt hậu tuyệt đối so
với các nước khác. Tri thức đã trở thành yếu tố của lực lượng sản xuất trực

tiếp và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều
kiện đó, nước ta không thể bỏ lỡ cơ hội, mà phải tìm giải pháp bứt phá, tức là
phải đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Là một nước đang phát triển vừa mới nằm trong nhóm nước có thu
nhập trung bình (nhưng mới chỉ là mức trung bình thấp) lại đặt trong xu thế
mở cửa, hội nhập, việc gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức ngay
trong quá trình chuyển nền kinh tế nông nghiệp lên nền kinh tế công nghiệp là
một thách thức rất lớn đối với nước ta. Điều này xuất phát từ thực tiễn của
một nước đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với
các nước trong khu vực và trình độ phát triển chung của thế giới. Đây cũng là
yêu cầu cấp thiết, bắt buộc phải giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ: phát triển
để vượt khỏi sự lạc hậu và chuyển sang phát triển kinh tế tri thức.
2.2.2. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là
yêu cầu bắt buộc để tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
Lịch sử đã chứng minh, mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng dựa
trên một cơ sở vật chất – kỹ thuật nhất định để tồn tại và phát triển. Nó bao
16
gồm toàn bộ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất tương ứng với trình độ
kỹ thuật, công nghệ nhất định; dựa vào đó lực lượng lao động của xã hội tiến
hành sản xuất của cải. Một trình độ nhất định của cơ sở vật chất – kỹ thuật là
nội dung kinh tế, là “cốt vật chất” có ý nghĩa xác định một thời đại kinh tế,
phân biệt với phương thức sản xuất chứa đựng nó thuộc loại hình kinh tế - xã
hội lịch sử nào.
Thực tế đã chứng minh, các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư
bản đều đã dựa trên cơ sở vật chất – kỹ thuật với công cụ lao động thủ công,
lạc hậu, năng suất thấp. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sở dĩ chiến
thắng phương thức sản xuất phong kiến vì nó tạo ra nền đại công nghiệp để có
năng suất lao động cao “chưa từng có dưới chế độ nông nô”. Do vậy, phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa tất yếu phải phát triển dựa trên cơ sở vật chất –
kỹ thuật ở trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản.

Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn
hiện đại với cơ cấu kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng
khoa học và công nghệ tiên tiến, được hình thành có kế hoạch trên toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ kế thừa những thành quả văn minh mà
nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, mà còn được phát triển và hoàn
thiện trên cơ sở những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, tham
gia tích cực và có hiệu quả vào phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Đối với các nước đã qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, bước
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc xác lập cở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội được tiến hành thống qua kế thừa, điều chỉnh và hoàn thiện cơ sở vật chất
– kỹ thuật đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản theo yêu cầu của chế độ mới và
phát triển nó lên trình độ cao hơn. Đối với các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
từ điểm xuất phát thấp, ở giai đoạn đầu hoặc không qua giai đoạn phát triển của
chủ nghĩa tư bản, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội càng trở nên cấp thiết hơn.
17
Theo V.I. Lênin, “Cơ sở vật chất duy nhất và thực sự để làm tăng của
cải của chúng ta, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là đại công
nghiệp Không có một nền đại công nghiệp tổ chức cao thì không thể nói đến
chủ nghĩa xã hội được, mà lại càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội ở một
nước nông nghiệp được”
9
.
Tạo lập cơ sở vật chất – kỹ thuật để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực
là đòi hỏi có tính bắt buộc đối với tất cả các nước muốn quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
10
. Điều này càng trở nên cấp thiết đối với một nước có điểm xuất phát thấp
như Việt Nam. Con đường cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh hiện nay tất yếu phải là đẩy mạnh CNH,

HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Cần nhấn mạnh rằng, xu hướng phát triển kinh tế tri thức đã và đang là
thách thức và cơ hội lớn đối với nước ta trên con đường xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Nếu không kịp thời nắm bắt thời cơ, dựa
vào kinh tế tri thức để đẩy nhanh CNH, HĐH thì nước ta sẽ tụt hậu ngày càng
xa hơn. Phải đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức để
nhanh chóng đuổi kịp các nước, thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đó là yêu cầu cấp bách, là sự chuyển hướng chiến lược trọng đại. Đây
chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại đã tạo ra.
2.2.3. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức bắt
nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn
Nước ta hiện đang tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó xây dựng một
nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung
có tầm chiến lược. Vì tham gia vào nền kinh tế thế giới trong xu hướng toàn
cầu hóa là những quốc gia có chủ quyền, nên muốn thực hiện nội dung này,
đòi hỏi chúng ta phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phải hội nhập sâu
9
V.I.Lênin: Toàn tập, Tập 32, NXB Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 528-529.
10
Xem: V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 41, NXB Tiến Bộ, Matxcơva, 1978, tr. 218.
18
hơn, đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương
11
.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung chủ yếu của toàn cầu hóa kinh
tế, đó là quá trình các quốc gia gắn kết nền kinh tế của nước mình với nền
kinh tế khu vực và thế giới bằng các nỗ lực thực hiện tự do hóa, mở cửa kinh
tế trên các cấp độ song phương, đa phương và giảm thiểu sự khác biệt để trở
thành một bộ phận hợp thành chỉnh thể nền kinh tế toàn cầu. Nó không chỉ
đơn thuần là quá trình hợp tác, mà còn là quá trình cạnh tranh có tính quyết

định sống còn giữa các doanh nghiệp và các nền kinh tế quốc gia.
Nếu trước đây, sự phân công và trao đổi bị giới hạn bởi tính vùng, địa
phương và quốc gia, thì ngày nay trong xu hướng toàn cầu hóa, sự phân công
và trao đổi được thực hiện thông qua mạng liên kết toàn cầu. Xu hướng này
tất yếu làm cho ngày càng nhiều các sản phẩm công nghiệp được sản xuất ra
có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau, rồi tổ
hợp chúng lại với nhau. Sự phân công lao động đã làm cho biên giới quốc gia
không còn giới hạn chặt chẽ như trước đây, mà xích lại gần nhau. Tri thức,
đặc biệt là công nghệ thông tin, kinh tế mạng là những yếu tố quan trọng kết
dính các doanh nghiệp và các quốc gia với nhau. Do vậy, hội nhập kinh tế
quốc tế làm cho hệ thống thông tin không còn là của riêng từng quốc gia, mà
là chung của nhiều quốc gia trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho
các doanh nghiệp và các quốc gia sẵn sàng hợp tác với nhau để cùng hưởng
lợi do hợp tác mang lại.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra những thách thức cạnh
tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp và các nền kinh tế. Thành công trong
cuộc cạnh tranh này, tất nhiên sẽ thuộc về các doanh nghiệp và quốc gia có lợi
thế về tri thức khoa học và công nghệ trong việc tạo ra sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ. Quốc gia nào giàu về tài nguyên thiên nhiên và nhân công dồi dào,
giá tài nguyên và giá nhân công rẻ sẽ dần dần mất đi lợi thế của mình do tri
11
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006, tr. 112-114.
19
thức ngày càng trở nên quyết định nhiều hơn trong giá trị sản phẩm.
Trong bối cảnh đó, để chủ động hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào
các quan hệ kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, một đòi hỏi có tính bắt
buộc là nước ta phải đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức,
coi tri thức là đòn bẩy làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh
nghiệp và của cả nền kinh tế, thúc đẩy quá trình hội nhập.

2.2.4. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức còn
do tác động nhiều mặt của quá trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị
và xã hội
Ngoài những nguyên nhân trên, việc đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở nước ta còn do chính tác động tích cực của quá
trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Nó không chỉ tạo ra cơ
sở vật chất – kỹ thuật và kiểu tổ chức một nền kinh tế mới, thúc đẩy mạnh mẽ
phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ,
bảo đảm không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội mà còn sớm có
được cơ sở vật chất – kỹ thuật tiên tiến hiện đại để khai thác và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực của đất nước cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Tạo nhiều việc
làm và tăng thu nhập cho người lao động
12
. Cải thiện điều kiện lao động, giải
phóng người lao động, phát triển trí tuệ, đưa tri thức vào các lĩnh vực đời
sống xã hội, thúc đẩy xã hội học tập, làm chủ, tiếp thu và sáng tạo tri thức
mới, nhờ đó nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội. Quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức còn là quá trình tạo ra điều kiện để
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trên cơ sở đó mà chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế có hiệu quả; tạo điều kiện vật chất kỹ thuật để củng cố và tăng
cường quốc phòng, an ninh, tăng cường vai trò và chức năng của Nhà nước.
Với sự cần thiết và tác động nhiều mặt như trên, để tăng tốc, sớm rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển, trước đòi hỏi bức thiết
12
Xem: C.Mác và Ph, Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr 568, 630-635.
20
của sản xuất và đời sống, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là phải đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Thực tế mấy chục năm tiến hành CNH cho đến nay, nước ta đã có được
những cơ sở vật chất ban đầu của một nền công nghiệp mới, trong đó có

những yếu tố đã cận với hiện đại; công nghệ thông tin và lĩnh vực viễn thông
phát triển với tốc độ nhanh, việc phát triển nền kinh tế mở đã bước đầu thâm
nhập vào các doanh nghiệp và dân cư; đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực
đã được cả xã hội coi trọng. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến
thúc đẩy quá trình phát triển có ý nghĩa trọng đại này. Đây chính là những khả
năng thực tế rất quan trọng để nước ta có thể thực hiện thành công sự nghiệp
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX (năm 2001) của Đảng đã đề ra đường lối gắn CNH, HĐH với phát triển kinh
tế tri thức. Đường lối này đã được bổ sung và phát triển qua các kỳ Đại hội
của Đảng
13
. Đến nay, “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện
CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”
14
.
3. NỘI DUNG ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, chúng ta
không tiến hành CNH theo kiểu cũ, không lặp lại sai lầm nóng vội, chủ quan.
Nội dung CNH không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất
công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi
mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao
và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mục tiêu của CNH, HĐH là làm cho nước ta sớm trở thành một nước
công nghiệp phát triển. Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định: ra sức phấn đấu
để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp, với tỷ trọng
ngành công nghiệp vượt trội hơn các ngành khác. Mức tăng trưởng tổng sản
13
Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, Hà Nội, tr 91
14

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, Hà Nội, 2011,
tr 72-75.
21
phẩm trong nước (GDP) bình quân 7-8%/năm với tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản
phẩm ứng dụng công nghệ đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm
công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công
nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn
với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30-35%
lao động xã hội
15
. Nhiệm vụ đặt ra là “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn đảng,
toàn dân ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện
đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
16
.
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ trên, nội dung chủ yếu của việc đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta phải là:
3.1. Lựa chọn việc trang bị công nghệ tiên tiến, hiện đại cho các
ngành kinh tế quốc dân
Việc trang bị công nghệ cho các ngành kinh tế quốc dân là một nội
dung cơ bản của CNH. Vận dụng thực hiện nội dung này vào đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, không chỉ đơn thuần là
nhằm tăng nhanh năng suất lao động và tăng sức cạnh tranh của từng sản
phẩm, từng doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, mà quan trọng hơn là tạo lập cơ sở vật chất – kỹ thuật và tri
thức tiên tiến, hiện đại bảo đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh mới của CNH, HĐH của Việt Nam, việc trang bị công
nghệ cho các ngành kinh tế quốc dân cần được kết hợp các bước đi tuần tự

với các bước phát triển nhảy vọt, kết hợp phát triển công nghệ nội sinh với
phát triển công nghệ ngoại sinh bằng nhiều con đường. Một mặt, phải tạo ra
điều kiện thuận lợi huy động mọi nguồn lực cho sự tăng trưởng nhanh theo
15
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, Hà Nội, tr 104-105
16
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, Hà Nội, tr 106,
70.
22
chiều rộng trên tất cả các ngành, lĩnh vực; mặt khác, phải tăng tốc và phát
triển rút ngắn bằng con đường lựa chọn mạnh dạn bỏ qua một số thế hệ công
nghệ cũ, công nghệ trung gian, đi thẳng vào công nghệ cao, công nghệ mới
nhằm tăng nhanh các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ có hàm lượng
tri thức, giá trị gia tăng cao phù hợp với thực tế trong nước và xu hướng thị
trường, tập trung phát triển các ngành, sản phẩm chủ lực có tính đột phá.
Theo hướng này, phải kết hợp xây dựng cơ cấu kỹ thuật, công nghệ
nhiều tầng, nhiều quy mô, nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ tiên tiến, cải
tiến công nghệ truyền thống, coi trọng loại công nghệ có vốn đầu tư thấp, thu
hồi vốn nhanh, tạo nhiều việc làm với mạnh dạn bỏ qua một số giai đoạn
17
.
Trong những năm trước mắt, phải cấu trúc lại hệ thống công nghệ sản
xuất của toàn bộ nền kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng khoa học, công
nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm. Đồng thời, phải sử dụng tri
thức mới để phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin,
khai khoáng, luyện kim, hóa chất, chế biến nông sản, năng lượng và đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thông qua việc đưa tri thức sản
xuất, kinh doanh, tri thức khoa học và công nghệ đến với người nông dân; sử
dụng công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nước ta có được sự lựa chọn rộng rãi để

tăng nhanh hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản phẩm. Phải coi trọng
việc tham gia ngày càng càng sâu, rộng vào phân công lao động quốc tế, tham
gia hiệu quả, toàn diện vào chuỗi giá trị toàn cầu ở những nấc thang có hàm
lượng trí tuệ và giá trị gia tăng ngày càng cao hơn, hội nhập vững chắc hơn
vào mạng lưới sản xuất quốc tế và không ngừng học hỏi (có bỏ qua những
giai đoạn thấp), nâng dần trình độ từ bắt chước, thích nghi, tiến tới nghiên cứu
17
Ví dụ, thời kỳ đầu có thể bỏ qua giai đoạn nghiên cứu khoa học cơ bản để tập trung vào nghiên cứu ứng
dụng, nhập công nghệ thích hợp để triển khai tạo đột phá và nâng cao sức cạnh tranh trong một số sản
phẩm của doanh nghiệp và của đất nước.
23
sáng tạo cái mới trong các lĩnh vực, sản phẩm và công nghệ có lợi thế so sánh
cao nhất.
Phải đẩy mạnh việc sử dụng những tri thức mới của nhân loại bằng
nhiều hình thức khác nhau, như nhập khẩu trực tiếp công nghệ; nhập khẩu
công nghệ gián tiếp qua thu hút đầu tư; mua bằng sáng chế hay mời chuyên
gia nước ngoài vào làm việc. Bên cạnh nhập khẩu “công nghệ cứng”, cần chủ
động học hỏi và nhập khẩu những “công nghệ mềm” như công nghệ quản lý,
kinh nghiệm sử dụng nhân tài, đổi mới thể chế kinh tế và đổi cách cải tiến
để thích nghi với điểu kiện nước ta
18
.
Do sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
vòng đời sản phẩm có xu hướng rút ngắn, nên sự thay thế công nghệ và tri thức
cũ bằng công nghệ và tri thức mới luôn diễn ra. Bởi vậy, việc tiếp cận với
chúng là liên tục và không có điểm dừng. Đây là một nội dung rất quan trọng
để thực hiện phương thức phát triển rút ngắn hiện đại, để thực hiện đẩy nhanh
CNH, HĐH gắn với việc vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế.
Đảng ta chủ trương: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo
ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi
kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển
mạnh các ngành và sản phẩm có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
Kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức
mới nhất của nhân loại”
19
.
Phải nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế -
xã hội. Phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều
18
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, các công ty xuyên quốc gia (TNCs) là lực lượng đóng vai trò then chốt
trong việc kiến tạo, duy trì và thúc đẩy hoạt động của mạng (kết nối thị trường, bảo đảm tài chính, công
nghệ). Thông qua việc việc thiết lập hệ thống sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị, TNCs đóng vai trò là
lực lượng kiến tạo mạng, tác động mạnh đến sự vận động của các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu. Do
vậy, để tạo bước nhảy vọt mạnh trong quá trình trang bị công nghệ cho các ngành kinh tế, chúng ta phải
tranh thủ được sự lan tỏa của xu hướng phát triển này.
19
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, Hà Nội, tr 87-88.
24
rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy
mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững
20
.
3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành
công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao
3.2.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành kinh tế của một cơ sở,
một ngành, một vùng hay nền kinh tế, các bộ phận này quan hệ chặt chẽ với
nhau có tính hệ thống, tác động lẫn nhau để có thể phát triển và được thể hiện
bằng tỷ trọng của mỗi bộ phận trong tổng thể.

Cơ cấu kinh tế của một nước được xác định theo nhiều tiêu thức, trong
đó có 3 tiêu thức chủ yếu để xem xét đó là cơ cấu ngành, cơ cấu vùng hay cơ
cấu thành phần kinh tế. Tỷ trọng của các ngành trong cơ cấu ngành kinh tế là
thước đo tập trung nhất trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia trong một
giai đoạn lịch sử nhất định, dùng để đánh giá thành tựu của các nỗ lực kinh tế
của quốc gia đó và so sánh mức độ hiện đại hóa với các quốc gia khác trong
cùng một thời gian.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cấu trúc của các yếu
tố cấu thành cơ cấu đó theo một chủ đích và phương hướng nhất định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là yêu cầu khách quan, trước hết nó phụ thuộc vào
trình độ phát triển của khoa học và công nghệ mà nền kinh tế đó đã đạt được
trong mỗi thời kỳ lịch sử. Tuy nhiên, nước đi sau có thể sử dụng lợi thế của
nước phát triển muộn để chủ động trong việc lựa chọn hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế phù hợp với khả năng, dựa vào đó mà lựa chọn việc phát triển
khoa học và công nghệ trong tiến trình CNH, HĐH để thực hiện được các
bước phát triển rút ngắn.
Do nguồn lực sản xuất có giới hạn mà nhu cầu sản phẩm ngày càng
nhiều và tăng nhanh, nên việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một doanh
20
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, Hà Nội, tr 191.
25

×