HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN KHC DU
CHấT LƯợNG ĐàO TạO
CAO CấP Lý LUậN CHíNH TRị CHO CáN Bộ
LãNH ĐạO, QUảN Lý TRONG GIAI ĐOạN HIệN NAY
LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: XY DNG NG V CHNH QUYN NH NC
Mó s: 62 31 02 03
Ngi hng dn khoa hc: 1. PGS.TS. NGUYN VIT THO
2. PGS.TS. NGUYN VN GIANG
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực và có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Khắc Dịu
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
6
1.1. Những nghiên cứu trong nước
6
1.2. Những nghiên cứu nước ngoài
15
1.3. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan và những
vấn đề luận án sẽ tập trung nghiên cứu
21
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ
2.1. Cán bộ lãnh đạo, quản lý và đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý
2.2. Chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý - khái niệm, yếu tố quy định và tiêu chí đánh giá
24
24
43
Chương 3: CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA
62
3.1. Thực trạng chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay
3.2. Nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra
62
100
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
110
4.1. Dự báo tình hình tác động và quan điểm nâng cao chất lượng đào tạo
cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn
hiện nay
4.2. Các giải pháp chủ yếu
110
116
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
149
151
152
162
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCLLCT
:
Cao cấp lý luận chính trị
CCLLCT - HC
:
Cao cấp lý luận chính trị - hành chính
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DHTC
:
Dạy học tích cực
LLCT
:
Lý luận chính trị
Nxb
:
Nhà xuất bản
TC
:
Tiêu chuẩn
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 3.1: Mức độ ưu tiên đối với việc học lý luận chính trị
89
Biểu đồ 3.1: Kết quả học tập tại Trung tâm Học viện
96
Biểu đồ 3.2: Kết quả học tập tại Học viện Chính trị khu vực IV
97
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị (LLCT) cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý là một trong những khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ.
Thực tiễn không ngừng biến đổi, lý luận cũng không ngừng được bổ sung,
phát triển phù hợp với sự vận động phát triển của xã hội trong từng giai đoạn cách
mạng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải không ngừng học tập, nghiên
cứu để nâng cao trình độ ngang tầm nhiệm vụ. Đào tạo cao cấp lý luận chính trị
(CCLLCT) cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là một trong nội dung quan trọng
của đào tạo, bồi dưỡng LLCT, nhằm trang bị kiến thức lý luận chính trị, lãnh đạo
quản lý, tư duy khoa học, tầm nhìn chiến lược góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ nhận thức, năng lực lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ.
Trong những năm qua, công tác đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý được các cấp uỷ đảng quan tâm và đạt nhiều kết quả quan trọng: hệ thống cơ sở
đào tạo CCLLCT đã được củng cố và phát triển; quy mô đào tạo không ngừng mở
rộng, bảo đảm thực hiện kế hoạch được giao, một số lượng lớn cán bộ lãnh đạo,
quản lý đã được đào tạo CCLLCT; đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi
dưỡng; đội ngũ giảng viên tăng cả về số lượng và chất lượng; công tác quản lý đào
tạo được chú trọng, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo được cải
thiện…. Những kết quả của công tác đào tạo CCLLCT đã góp phần làm cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý nhận thức đúng đắn về tình hình đất nước, nâng cao năng lực, tư
duy công tác góp phần quan trọng vào công tác xây dựng đảng, chính quyền và
đoàn thể chính trị - xã hội, giữ vững ổn định chính trị và thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội.
Những thành tựu và kết quả nói trên là do có sự quan tâm, chăm lo của Đảng,
Nhà nước; của các cấp uỷ đảng và tinh thần trách nhiệm của các cơ sở đào tạo, sự tận
tuỵ của đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý đào tạo đã tích cực đổi mới trong chỉ
đạo, tổ chức thực hiện đào tạo LLCT; sự ổn định về chính trị cùng với những thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, chất lượng công tác đào
tạo CCLLCT trong thời gian qua còn hạn chế: nội dung, chương trình đào tạo chưa
đảm bảo yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn và rèn luyện tư tưởng chính
trị, đạo đức, tác phong cho học viên; phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, nặng về
truyền đạt kiến thức, chưa phát huy được tính tích cực và sáng tạo của học viên;
cách đánh giá kết quả học tập của học viên còn lúng túng, chưa phản ánh đúng thực
chất, quản lý đào tạo có mặt còn yếu kém, nhất là quản lý tự học của học viên; đội
ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo có mặt chưa tương xứng với yêu cầu của
công tác đào tạo LLCT.
Những hạn chế, yếu kém nói trên do nhiều yếu tố như: một số cấp ủy, cơ
quan đơn vị chưa nhận thức sâu sắc và toàn diện về công tác đào tạo LLCT, không
ít cán bộ, đảng viên xác định chưa đúng mục tiêu đào tạo CCLLCT là nâng cao
trình độ LLCT để phục vụ công tác tốt hơn, mà coi mục tiêu đào tạo là có đủ bằng
cấp, chứng chỉ để hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh; việc cán bộ có xu hướng tập
trung vào học CCLLCT với hình thức đào tạo tại chức để hoàn thiện về tiêu chuẩn
bằng cấp, tạo ra mất cân đối giữa yêu cầu học tại chức và tập trung; hệ thống văn
bản chỉ đạo, hướng dẫn còn có bất cập, chưa đồng bộ; quy định về tiêu chuẩn trình
độ LLCT đối với các chức danh cán bộ còn có điểm chưa phù hợp, chậm đổi mới
nên việc thực hiện phân cấp đào tạo LLCT theo đối tượng, tiêu chuẩn chức danh
còn có khó khăn, lúng túng; đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo bất cập về
chất lượng, số lượng và cơ cấu, có một số hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, năng
lực hoạt động thực tiễn; một bộ phận thiếu gương mẫu đã góp phần làm cho chất
lượng dạy và học chưa bảo đảm yêu cầu
Trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, quán triệt sâu sắc quan điểm về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo được nêu tại Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban
Chấp hành Trung ương (khoá XI), Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26 tháng 5 năm
2014 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý”, để bảo đảm góp phần thực hiện thắng
lợi sự nghiệp đổi mới, việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo CCLLCT cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý là cần thiết, cấp bách.
3
Với tinh thần đó, việc nghiên cứu đề tài “Chất lượng đào tạo cao cấp lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay” có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất cấp thiết.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đào tạo CCLLCT cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý thời gian qua; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao
chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý thời gian qua, xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ là vấn đề lớn, phạm vi rộng với nhiều
vấn đề liên quan. Luận án này tập trung nghiên cứu về chất lượng đào tạo CCLLCT
cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.
Luận án khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng đào tạo CCLLCT cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh từ năm 2011
đến nay và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đào tạo cán
4
bộ lãnh đạo, quản lý. Luận án có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài.
- Luận án cũng được nghiên cứu dựa trên cơ sở thực tiễn đào tạo CCLLCT
cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án sử
dụng hệ thống tài liệu, tư liệu, số liệu lưu trữ của các cơ quan, địa phương, đơn vị cũng
như kết quả điều tra, khảo sát trong quá trình thâm nhập thực tế của tác giả.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lôgíc
kết hợp phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, tổng kết thực
tiễn, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, phương pháp chuyên gia….
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học
Một là, làm rõ quan niệm chất lượng đào tạo CCLLCT; xây dựng hệ thống
tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Hai là, đề xuất một số giải pháp mới, mang tính đặc thù nâng cao chất lượng
đào tạo CCLLCT trong giai đoạn hiện nay:
- Tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung đào tạo cao cấp lý luận
chính trị theo hướng hiện đại, thiết thực, sát hợp với từng đối tượng, từng loại chức
danh cán bộ.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập theo hướng nghiên cứu, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm.
- Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý đào tạo cao cấp lý luận chính trị, gắn
học tập lý luận với việc rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, tác phong của người
cán bộ lãnh đạo, quản lý.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu luận án góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực
trạng công tác đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời gian vừa qua.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là căn cứ cho việc đề xuất các giải pháp và
áp dụng trong thực tiễn nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo
CCLLCT, góp một phần phục vụ cho việc tham mưu đề xuất Bộ Chính trị ra Nghị
quyết về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán
5
bộ lãnh đạo, quản lý” và các hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về thực hiện
Nghị quyết trên.
- Luận án có thể làm tài liệu để các tỉnh, thành ủy trong cả nước tham khảo
trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng và nghị
quyết của cấp ủy ở từng địa phương về đào tạo CCLLCT cho đội ngũ cán bộ lănh đạo,
quản lý; đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy và học tập môn Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước ở hệ thống Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị của các tỉnh, thành phố.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Vai trò của công tác đào tạo cán bộ nói chung, đào tạo LLCT cho đội ngũ
cán bộ nói riêng đã được khẳng định ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng ta.
Trong thực tiễn, công tác này luôn được sự chỉ đạo của Đảng và được nhiều nhà
khoa học trong nước, ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Sau đây là những công trình
nghiên cứu tiêu biểu trong thời gian gần đây:
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
1.1.1. Đề tài khoa học
Do tầm quan trọng của công tác đào tạo LLCT đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý,
những năm gần đây, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề có liên quan: công
tác cán bộ; công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT. Trong các nghiên cứu đó, có nhiều đề
tài cấp Nhà nước, cấp bộ. Có thể điểm qua một số nghiên cứu quan trọng sau:
- “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Nguyễn Phú Trọng [111]
đã nghiên cứu công phu, có giá trị lớn cả về phương diện lý luận và và tổng kết thực
tiễn về công tác cán bộ, đặc biệt là về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- “Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giảng viên lý luận chính trị các
trường đại học cao đẳng” của Tô Huy Rứa [92] đã đánh giá khái quát năng lực đào
tạo lý luận Mác - Lênin của một số trường Đại học tại Hà Nội, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất một khung chương trình
tổng thể để đào tạo giảng viên các môn lý luận Mác - Lênin.
- “Đổi mới quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên
cứu khoa học Mác - Lênin - Kiến nghị và giải pháp” của Phạm Tất Dong [41] đã làm
rõ thực trạng đào tạo và giảng dạy của đội ngũ khoa học Mác - Lênin, đồng thời đề
xuất những chế độ, chính sách để phát triển đội ngũ này. Trong số những giải pháp,
đề xuất này, có những giả pháp không còn phù hợp với yêu cầu mới, cần phải nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung phù hợp giai đoạn phát triển hiện nay.
7
- “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống
chính trị trong thời kỳ đổi mới” của Trần Xuân Sầm [94] đã tập trung nghiên cứu và
phân tích rõ vấn đề cơ cấu cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, mối quan hệ giữa cơ cấu và
tiêu chuẩn của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong hệ thống chính trị trong thời
kỳ đổi mới.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn Trọng Bảo [11]
đã làm rõ một số vấn đề về lý luận, đồng thời đánh giá một cách khái quát đội ngũ
cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, trên cơ sở đó đã đề xuất
phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh ở Việt Nam trong
thời kỳ mới.
- “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của
Trần Đình Hoan [68] đã tập trung làm rõ những cơ sở khoa học, phân tích sâu sắc
tình hình thực tiễn, kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp cơ bản về đánh giá, quy
hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đồng thời, đánh giá, phân tích
về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, góp phần làm sáng tỏ thêm các quan điểm của Đảng về luân
chuyển cán bộ và kiến nghị các giải pháp để triển khai thực hiện tốt công tác điều
động, luân chuyển cán bộ ở các cấp, các ngành.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Vũ Văn Hiền [63] có phạm
vi nghiên cứu rộng, nội dung đề cập tới một số vấn đề và nhiệm vụ cấp bách đặt ra
đối với công tác cán bộ nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng của
Đảng trước yêu cầu của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Bộ Nội vụ [28] đã phân tích
tính tất yếu khách quan của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN); thực trạng đội ngũ
8
và thể chế quản lý cán bộ, công chức cấp xã; phương hướng và giải pháp xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta.
- “Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở Việt
Nam- Những vấn đề chung” của Nguyễn Hữu Vui [122] đã đánh giá thực trạng sử
dụng phương pháp trong giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin hiện nay và đề ra
những giải pháp cơ bản để đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học này.
- "Đổi mới phương thức đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và
nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” của Nguyễn Việt Chiến
[32] đã đánh giá thực trạng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và
nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay và đề ra các giải
pháp cơ bản để đổi mới phương thức đào tạo tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng
dạy và nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- “Rà soát và đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung một số nội dung giáo dục đạo
đức công dân, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường ở
từng cấp học” của Ban Tuyên giáo Trung ương [10] là một công trình nghiên cứu
có mục tiêu tìm ra các giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học các môn
LLCT, đạo đức công dân trong các bậc học khác nhau. Theo nhóm tác giả, đội ngũ
giảng viên Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng nước
ta hiện nay tuy tăng nhanh về số lượng, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo.
Tình trạng dạy vượt giờ, quá tải khiến một số đông đội ngũ không có thời gian đầu tư,
hoàn thiện chuyên môn, ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng của đội ngũ.
- "Đào tạo giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay” của Hoàng
Đình Cúc [38] đã minh chứng luận điểm: chất lượng đào tạo giảng viên các môn
LLCT quyết định chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy LLCT và do đó chi phối quá
trình dạy - học các môn khoa học lý luận trong các trường đại học hiện nay.
- Các đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục lý luận
chính trị trong hệ thống các trường chính trị nước ta giai đoạn hiện nay” của Ngô
Ngọc Thắng [98] và “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào giáo dục lý
luận chính trị trong giai đoạn hiện nay” của Ngô Ngọc Thắng [99] đã khái quát các
9
luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về công tác giáo dục LLCT, khảo sát thực trạng
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào công tác giáo dục LLCT hiện nay.
Từ đó đưa ra giải pháp vận dụng tư tưởng về giáo dục LLCT vào giáo dục LLCT
hiện nay.
- “Tình hình giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng và chủ trương, giải pháp cho thời
gian tới” của Ban Tuyên giáo Trung ương [9] đã nghiên cứu một cách tổng quát
về đội ngũ giảng dạy các môn khoa học này với tư cách là một trong những yếu
tố quan trọng, trực tiếp tác động đến chất lượng quá trình dạy và học. Nhóm
nghiên cứu cho rằng, bên cạnh hàng loạt các ưu điểm về gia tăng học hàm, học
vị trong đội ngũ, thì hạn chế lớn nhất của số đông đội ngũ này là sức ỳ lớn, chậm
đổi mới tư duy, ngại trau dồi kiến thức, ít chịu tìm tòi phương pháp giảng dạy
phù hợp với những đối tượng khác nhau, chậm đổi mới phương pháp giảng dạy.
Đặc biệt, tâm lý coi các môn học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là môn học
phụ, nhất là trong các trường kỹ thuật cũng là một trong những nguyên nhân cản
trở đổi mới phương pháp.
- “Giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của Trần Thị
Anh Đào [53] đã làm rõ được những khái niệm LLCT, phân tích được vai trò của
giáo dục LLCT đối với sinh viên; tác giả đã đã nắm vững tâm sinh lý của sinh viên,
kết hợp lý luận và thực tiễn khảo sát đưa ra phân tích có cơ sở, cần thiết và thuyết
phục; nhìn thẳng vào bức tranh thực tế: mặt tốt - xấu của sinh viên để có những
đánh giá và đưa ra những giải pháp, định hướng nâng cao giáo dục LLCT cho sinh
viên đúng đắn và mang tính khả thi cao.
- “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh” của Trần Minh Tuấn [115]
đã tập trung giải quyết các vấn đề: luận giải yêu cầu cấp thiết hiện nay về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện, theo đó, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng phải phân định rõ các chương trình đào tạo và các chương trình bồi dưỡng;
mỗi chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới một loại đối tượng xác định,
phải hướng tới từng chức danh đào tạo nhất định.
10
Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã nêu ở trên có giá trị tham khảo tốt để
luận án nghiên cứu và đề xuất giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất
lượng công tác đào tạo CCLLTC phục vụ mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Sách
Có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến công tác đào tạo
LLCT đã được xuất bản. Có thể liệt kê một số nghiên cứu lớn sau:
- “Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay” của
Nguyễn Văn Tài [96] đã vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta,
đồng thời, kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trước đó, đã làm rõ một
số vấn đề như: nội dung và những động lực cơ bản của quá trình tích cực hoá nhân
tố con người đối với đội ngũ cán bộ; vai trò của đội ngũ cán bộ; phân tích, đánh giá
những mặt làm được, ưu điểm, những yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân của
những ưu điểm và hạn chế trong tích cực hoá nhân tố con người của đội ngũ cán bộ
nước ta hiện nay. Đề xuất một số vấn đề và những giải pháp cơ bản nhằm phát huy
tính tích cực nhân tố con người của đội ngũ cán bộ trong tình hình hiện nay.
- “Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay” của Hồ
Bá Thâm [102] đã khẳng định, tư duy và trí tuệ con người, đặc biệt là ở người cán
bộ lãnh đạo có tác dụng lớn đến hoạt động của họ và thông qua đó ảnh hưởng đến
sự phát triển của xã hội. Đó là một tiềm lực, nguồn lực to lớn của dân tộc trong phát
triển, nhất là đối với thời đại ngày nay. Tác giả xem xét một cách hệ thống bản chất,
nội dung của năng lực tư duy, phong cách tư duy, đồng thời kiến nghị một số giải
pháp, định hướng phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo trong đổi
mới tư duy, phát triển trí tuệ hiện nay.
- “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ
sở của trong giai đoạn hiện nay” của Vũ Ngọc Am [1] đã làm rõ mối quan hệ giữa
công tác giáo dục chính trị tư tưởng với việc nâng cao tính tự giác cách mạng cho
cán bộ, đảng viên và phân tích quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo
dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên nhằm chống lại âm mưu "diễn biến hoà
bình" của các thế lực thù địch.
11
- “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học” của Nguyễn Duy Bắc [5] đã tập hợp
những bài viết của các nhà nghiên cứu lý luận chuyên sâu, tập trung phân tích chất
lượng dạy và học các môn LLCT. Các nhà khoa học thống nhất cho rằng nội dung,
chương trình, phương pháp giảng dạy các môn Mác - Lênin và chất lượng học tập
các môn học này làm nên bức tranh tổng thể chất lượng đào tạo các môn LLCT cho
sinh viên nước ta hiện nay.
- “Hồ Chí Minh với công tác giáo dục lý luận chính trị” của Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia [86] đã giới thiệu các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa Mác - Lênin với con đường cách mạng Việt Nam, trong đó, Người nhấn
mạnh đến nhiệm vụ xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đến
việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của người đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
xác định rõ nội dung và nhiệm vụ học tập LLCT; vấn đề để nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác giáo dục LLCT cho cán bộ, đảng viên của Đảng.
- “Phương pháp giảng dạy lý luận chính trị (Chương trình bồi dưỡng chuyên
đề dành cho giảng viên giảng dạy các chương trình lý luận chính trị tại Trung tâm
bồi dưỡng chính trị cấp huyện)” của Ngô Văn Thạo [101] đã khái quát chung khái
niệm LLCT và giáo dục LLCT; một số vấn đề tâm lý và giáo dục học trong giảng
dạy học LLCT, phẩm chất nghề nghiệp, nghệ thuật diễn giảng, kiểm tra, đánh giá
trong dạy học LLCT.
- “Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy lý luận chính trị” của Vũ Ngọc
Am [2] được coi như cẩm nang nghiệp vụ của những người làm công tác giáo dục
LLCT nói chung và những người trực tiếp làm công tác giảng dạy LLCT nói riêng.
Nội dung chủ yếu của cuốn sách gồm có ba phần chính, đặc biệt, trong phần thứ hai
(phần trọng tâm của cuốn sách này) có một nội dung rất mới, đó là đề cương một số
bài giảng khá chi tiết và hữu ích dành cho giảng viên tham khảo.
- “Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị” của Phạm
Huy Kỳ [78] đã trình bày một số vấn đề lý luận và phương pháp của công tác
nghiên cứu, giáo dục LLCT và công tác nghiên cứu, biên soạn, giáo trình lịch sử
đảng bộ địa phương. Riêng phần lý luận và phương pháp giáo giáo dục LLCT, cuốn
sách chủ yếu tập trung trình bày lý luận và phương pháp dạy học LLCT - nội dung
hoạt động chủ yếu trong hệ thống giáo dục LLCT của Đảng ta hiện nay.
12
- “Công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của
Trần Thị Anh Đào [54] đã làm rõ được một số vấn đề chung về công tác giáo dục
LLCT cho sinh viên Việt Nam. Từ việc phân tích thực trạng công tác giáo dục
LLCT cho sinh viên Việt Nam hiện nay, tác giả đã đề xuất một số phương hướng cơ
bản và giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác giáo dục LLCT cho sinh
viên Việt Nam hiện nay, từ đó đã chỉ ra những giải pháp khả thi để góp phần hữu
hiệu vào việc nâng cao chất lượng giáo dục LLCT cho sinh viên, nhằm đáp ứng nhu
cầu càng tốt hơn yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- “Đo lường và đánh giá hoạt động học tập trong nhà trường” của Lâm
Quang Thiệp [103] đã nêu bật được các khái niệm về đo lường và đánh giá trong
giáo dục, từ đó đưa ra các nội dung cơ bản về đo lường và đánh giá trong giáo dục ở
mọi bậc học. Đặc biệt, đã nêu ra các phương pháp đánh giá kết quả học tập, điều
kiện, nội dung, xây dựng, thiết kế tiêu chí đánh giá kết quả của các phương pháp.
Ngoài ra còn một số nghiên cứu cũng đề cập đến một số nội dung của luận
án về giáo dục, về giảng dạy, về giáo dục chính trị trị tư tưởng liên quan đến công
tác đào tạo LLCT, như: “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam” của Lê Hữu Nghĩa và cộng
sự [85]; “Các lý thuyết tổ chức hiện đại và việc vận dụng vào công tác tổ chức xây
dựng Đảng hiện nay” của Nguyễn Văn Giang, Phạm Tất Thắng [59]; “Một số ý kiến
trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở đại học và cao
đẳng” của Lê Xuân Nam và cộng sự [84]; “Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Nguyễn Văn Sơn [95]; “Quán triệt
vận dụng nghị quyết Đại hội IX, nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” của Vũ Hiền, Đinh Xuân Lý [62]; “Học tập phương
pháp tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh” của Nguyễn Hữu
Đổng [58]; “Một số ý kiến trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học
Mác - Lênin ở các trường Đại học, Cao đẳng” của Trường đại học Kinh tế quốc
dân - Ban Triết học [113]; “Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới
nội dung, chương trình các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” của
Lương Gia Ban [5]; “Phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá các môn khoa học
13
xã hội và nhân văn” của Phân viện Báo chí và Tuyên truyền [87]; “Hồ Chí Minh với
Công tác tư tưởng” của Hồng Vinh, Đào Duy Quát [120]; “Dạy và học các môn tư
tưởng Hồ Chí Minh theo phương pháp tích cực” của Nguyễn Đăng Quang [89];
“Công tác tư tưởng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của
Trần Thị Anh Đào [54]; “Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác
tư tưởng” của Trần Thị Anh Đào [56]; “Công tác tư tưởng lý luận trong thời kỳ đổi
mới - Thực trạng và giải pháp” của Phạm Tất Thắng [100]; “Vấn đề đổi mới công
tác giảng dạy và học tập lý luận chính trị hiện nay” của Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh [71]...
1.1.3. Luận án tiến sĩ
Việc đào tạo LLCT, do vai trò quan trọng cũng như đặc thù của công tác này
cũng được nhiều nghiên cứu sinh chọn làm đề tài nghiên cứu.
- “Giáo dục lý luận Mác - Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách
của sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay” của Hoàng Anh
[4] đã khái quát có hệ thống các vấn đề lý luận về giáo dục lý luận Mác - Lênin, sự
hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên, kinh tế thị trường. Tác giả tiến
hành khảo sát sinh viên các trường đại học ở Hà Nội, từ đó chỉ ra thực trạng và
những vấn đề đặt ra trong giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên hiện nay.
Luận án đã đưa ra được hệ thống 4 giải pháp có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
- “Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống
chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ” của Lê Hanh Thông [104] đã trình bày
khái quát các vấn đề lý luận về giáo dục LLCT, tiến hành khảo sát thực trạng giáo
dục LLCT cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã khu vực Nam Bộ, từ
đó đưa ra hệ thống các giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác giáo dục LLCT cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã
khu vực Nam Bộ.
- “Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các học
viện quân sự ở nước ta hiện nay” của Lương Ngọc Vĩnh [121] đã tập trung luận
giải, làm sáng rõ cấu trúc và bản chất của hiệu quả là sự tương quan giữa kết quả
với mục đích và nguồn lực; bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chí, phương pháp,
hình thức đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên
14
các Học viện Quân sự. Trên cơ sở khảo sát thực trạng sự tương quan giữa kết quả
với mục đích và sử dụng nguồn lực công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học
viên các Học viện Quân sự, khái quát được các mâu thuẫn cần giải quyết để nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng. Tác giả đã đề xuất được 4 nhóm
giải pháp dưới góc độ khoa học công tác tư tưởng theo hướng huy động tối đa tiềm
năng của các Học viện Quân sự một cách hợp lý, tiết kiệm để nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục chính trị - tư tưởng.
1.1.4. Hội thảo và bài báo
Có nhiều Hội thảo khoa học và các bài viết trên các báo, tạp chí liên quan tới
nội dung của luận án.
- “Đổi mới giảng dạy, học tập môn Triết học Mác - Lênin trong các trường
đại học toàn quốc” của Bộ Giáo dục và Đào tạo [24]; “Cơ sở lý luận và thực tiễn
của chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị” của Ban Tổ chức Trung ương [8]; “Nâng cao chất lượng giảng dạy,
học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng” của Bộ Giáo
dục và Đào tạo - Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh [27].
- Các bài báo trên các tạp chí khoa học có thể kể đến nghiên cứu của các tác
giả: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý luận” của Lương Gia Ban [6];
“Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị” của Lê Bình
[13]; “Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý luận
chính trị trong tình hình mới” của của Đào Duy Quát [90]; “Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào đổi mới phương pháp giảng dạy Lý luận chính trị tại học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh” của Vũ Thị Hoa [65]; “Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ về lý luận chính trị theo quan điểm của Hồ Chí Minh” của Mạch Quang
Thắng [97]; “Vài nét về thực trạng và giải pháp tiếp tục tiếp tục đổi mới công tác
nghiên cứu lý luận chính trị” của Nguyễn Tiến Hoàng [69]; “Để thực hiện tốt
chương trình đổi mới giáo dục lý luận Mác - Lênin ở trường Đại học và cao đẳng”
của Nguyễn Công Hưng [75]; “Đổi mới Phương pháp giảng dạy ở Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thành Khải [77]; “Hiệu quả
và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị” của Vũ Ngọc Am
[3]; “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý”
15
của Nguyễn Tuấn Khanh [76]; “Bồi dưỡng dự nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
cao” của Nguyễn Khắc Dịu [40]; “Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho bí thư, phó bí
thư cấp ủy cấp huyện” của Nguyễn Minh Tuấ [114]…
Các công trình trên đã tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về: Lý luận,
Lý luận chính trị, giáo dục LLCT nói chung và giáo dục LLCT cho cán bộ, đảng
viên, nhân dân, thanh niên, sinh viên… nói riêng. Một số công trình cũng tập trung
nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của giáo dục LLCT, thực trạng những vấn đề
đặt ra và từ đó đã đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục
LLCT hiện nay có giá trị tham khảo tốt.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Luận án tiến sĩ nước ngoài
- “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và
Nhà nước Lào hiện nay” của Xinh Khăm Phôm Ma Xay [123] đã trình bày những
vấn đề cơ bản về cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế; chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo; đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào hiện nay.
- “Nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên Đảng Nhân dân cách
mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” của Bu Phết Xu Ly Vông Xác [30] đã đưa ra
khái niệm về trình độ lý luận và nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên
Đảng Nhân dân cách mạng Lào; đánh giá thực trạng nâng cao trình độ lý luận, đề
xuất giải pháp nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên.
Các đề tài, công trình nêu trên cũng đã nói đến, hoặc đề cập đến công tác cán
bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ ở nhiều khía cạnh khác nhau; tuy
nhiên, chưa có đề tài, công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về chất lượng
đào tạo CCLLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Những kinh nghiệm về đào tạo công chức ở nước ngoài
Đào tạo công chức của nhiều nước thường được thực hiện trong một môi
trường chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực quốc gia đồng bộ và hợp lý
gắn kết đào tạo theo ngành với việc phát triển nghề nghiệp, đồng thời chú trọng
công tác đào tạo nhân sự cho chính quyền các cấp địa phương.
16
Hầu hết các nước đều có quy định mang tính bắt buộc công chức phải trải
qua các khoá đào tạo, bồi dưỡng trước khi nhận nhiệm vụ như là điều kiện để được
bổ nhiệm cũng như phải tham gia các khoá đào tạo lại khi đang làm việc nếu muốn
được thăng tiến vào các vị trí quản lý cao hơn.
Nhìn chung các nước trên thế giới đều chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý và công chức, coi đây là nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược.
Ở nhiều nước quan niệm đây là công tác đào tạo công chức nhà nước thuộc hệ giáo
dục đặc biệt chứ không phải hệ thống giáo dục quốc dân nói chung.
Ở Trung Quốc, theo Triệu Lý Văn [117], căn cứ nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội và yêu cầu xây dựng năng lực cầm quyền của Đảng và cương vị công tác của
cán bộ, Đảng Cộng sản Trung Quốc xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ, công chức
hàng năm và dài hạn, lấy lý luận chính trị, chính sách pháp quy, kiến thức nghiệp
vụ, huấn luyện kỹ năng… làm nội dung cơ bản với nhiều phương thức khác nhau,
kết hợp giữa tổ chức điều động đào tạo, chọ học tự chủ và tự học tại chức. Nội dung
học tập là “một trung tâm, bốn mặt”, trung tâm là việc Trung Quốc hoá chủ nghĩa
Mác (gồm lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng 3 đại diện và quan điểm phát triển
khoa học), bốn mặt là: Nền tảng lý luận, nhãn quan thế giới, tư duy chiến lược và tu
dưỡng tính đảng. Phương pháp giảng dạy chủ yếu tại các trường đảng là phương
pháp gắn lý luận với thực tế, coi đây là phương pháp cơ bản; trong quá trình học tập
thì dạy và học bổ trợ nhau, học và học bổ trợ nhau nhằm huy động tính tích cực của
cả người học lẫn người dạy với phương châm “hai chính, một tăng cường”, tức tự
học là chính, đọc nguyên tác là chính, tăng cường thảo luận. Các trường đảng Trung
Quốc hiện nay đang chú ý cải cách và sáng tạo phương pháp giảng dạy, thúc đẩy
phương pháp dạy kiểu nghiên cứu và học kiếu nghiên cứu tuỳ thuộc vào nội dung
giảng dạy và đặc điểm của học viên.
Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là cơ quan chủ quản
công tác đào tạo cán bộ, chịu trách nhiệm xây dựng quy hoạch và chỉ đạo thống
nhất công tác đào tạo cán bộ, thiết lập cơ chế đào tạo cán bộ công chức cho từng cấp,
từng ngành. Cán bộ viên chức nhà nước do Học viện hành chính đào tạo, mỗi ngành lại
có trường riêng để đào tạo cán bộ, công chức cho ngành mình. Việc đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, quản lý cao cấp do Trường Đảng Trung ương đảm nhiệm.
17
Thời gian đào tạo ở Trường Đảng và Trường Hành chính cao nhất là một
năm, nếu ngắn thì 3 hoặc 4 tháng. Tất cả cán bộ, công chức trước khi bổ nhiệm đều
phải qua một khoá bồi dưỡng ít nhất 3 tháng tại các học viện theo hướng dẫn của
Ban Tổ chức Trung ương.
Đảng, Chính phủ có kế hoạch thường xuyên và gửi cán bộ lãnh đạo, quản lý
đi nước ngoài học tập chủ yếu là hình thức ngắn hạn. Chỉ cán bộ, công chức chuyên
môn kỹ thật mới gửi đi học nước ngoài dài hạn. Kinh phí có loại do Nhà nước đài
thọ, có loại do cá nhân tự bỏ tiền để đi học.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức rất linh hoạt: thiếu gì bồi
dưỡng nấy. Bồi dưỡng cả tư cách nhậm chức cho cán bộ công chức. Không bồi
dưỡng đủ thì không đề bạt. Đặc biệt, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức rất chú trọng năng lực thực hành của cán bộ trong thực tiễn. Coi trọng việc rèn
luyện trong thực tiễn là một trong 3 yếu tố chủ yếu tạo nên phẩm chất cán bộ công
chức. Ba tố chất đó là: trình độ LLCT, năng lực hoạt động thực tiễn, đức tính tự
trọng, tự lập, tự nghiêm (tự nghiêm túc yêu cầu, quản lý và giám sát công việc).
Trong tình hình mới, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức đặt ra yêu cầu
mới: phải hướng nội dung, phương thức, quy trình đào tạo, bồi dưỡng vào việc hình
thành các tố chất cao cho cán bộ, công chức
Nhiều địa phương ở Trung Quốc đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
theo cả 2 hướng: đưa đi đào tạo ở trường Đảng và đưa xuống cơ sở. Ví dụ: để đề bạt
giám đốc sở, người đó phải xuống cơ sở làm 2 năm, vào học ở trưởng Đảng, trường
hành chính ít nhất 3 tháng trở lên.
Theo các nghiên cứu về công chức của một số nước của Nguyễn Danh Châu
và Lê Minh Thông [31; 107], nhiều quốc gia đã xây dựng quy trình đào tạo cán bộ
quản lý và công chức của mình theo một công nghệ đào tạo chặt chẽ, khoa học. Các
quy trình này là một quá trình gắn liền với những khoá học bắt buộc với sự phân
công công việc hợp lý, diễn ra trong suốt quá trình làm việc của công chức. Sau đây
là công tác đào tạo đội ngũ công chức ở một số nước phát triển và trong khu vực.
Ở Nhật Bản, quá trình làm việc và học tập của công chức thường xuyên đi
liền với nhau, việc đào tạo diễn ra hàng năm và trên thực tế là diễn ra liên tục trong
suốt thời gian làm việc của công chức. Đào tạo một viên chức nhà nước ở mỗi cấp
18
đều có quy trình rất chặt chẽ và cụ thể. Viện Nhân sự Nhật Bản mỗi năm chọn từ 56 vạn sinh viên năm thứ tư để lấy 1000 người đào tạo quan chức nhà nước của các
bộ, ngành. Sau 1-3 năm thực tập, gửi đi đào tạo ở nước ngoài 2-3 năm, làm trưởng
nhóm công tác 2 năm, làm giám đốc trách nhiệm độc lập 1 năm, làm phó phòng 10
năm ở 5 nơi khác nhau, làm phó ty hoặc tuỳ viên sứ quán ở nước ngoài 3-4 năm,
làm trưởng phòng 6 năm di chuyển nhiều lần, làm trưởng ty, làm phó vụ trưởng, vụ
trưởng, thứ trưởng. Như vậy, để được bổ nhiệm chức trưởng phòng, công chức cần
làm việc cật lực và có thành tích xuất sắc trong 10 năm, để lên chức phó ty cần 20
năm, trưởng ty cần 25-30 năm, thứ trưởng trên 30 năm. Thời gian là một vấn đề,
nhưng quan trọng hơn là quá trình làm việc, người công chức phải có thành tích
xuất sắc. Nhật Bản đã xây dựng được một phương thức tuyển chọn và quy trình đào
tạo, không chỉ qua các lớp học nâng cao kiến thức, trình độ mà là một quá trình rèn
luyện kinh qua công việc thực tế, với một trình tự chặt chẽ và khoa học.
Ở Pháp, công tác đào tạo công chức hiện nay có sự thay đổi về mục tiêu và
nội dung, nhằm trang bị cho công chức những kiến thức và kỹ năng để thích ứng
với sự biến động của xã hội và nền hành chính diễn ra hàng ngày. Chính phủ Pháp
coi trọng việc xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn
cao, có khả năng thích ứng với những thay đổi và phát triển nghề nghiệp. Công tác
đào tạo cán bộ quản lý và công chức được coi là cốt lõi là trọng tâm của công cuộc
hiện đại hoá nền công vụ, tập trung vào 2 yếu tố cơ bản là phát huy cao độ tính
chuyên nghiệp và phát triển khả năng chịu trách nhiệm cao hơn của cán bộ quản lý
và công chức trong hệ thống công vụ hiện đại. Trường Hành chính quốc gia Pháp là
cơ sở đào tạo hành chính không chỉ cho cán bộ quản lý và công chức nước Pháp mà
còn nổi tiếng trên thế giới bởi những thành tựu nghiên cứu khoa học hành chính và
đào tạo cập nhật phát triển những kỹ năng hành chính.
Ở Phi-lip-pin, Uỷ ban công vụ là cơ quan giúp Chính phủ quản lý phát triển
nguồn nhân lực, có vai trò quan trọng trong việc đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý và công chức nhà nước. Uỷ ban công vụ có chương trình quản lý nhân sự
thích hợp và phối hợp với các cơ quan của Chính phủ đưa ra các loại hình đào tạo
nhằm tăng cường nhận thức, nâng cao năng lực nghề nghiệp cho cán bộ quản lý và
công chức, bao gồm nhiều loại công trình: đào tạo tiền công vụ, định hướng chuyên
19
môn kỹ thuật, phát triển năng lực lãnh đạo. Từ nhiều năm nay, Uỷ ban công vụ đã
thiết lập chương trình học bổng quốc gia, cho phép mọi cơ quan của Chính phủ lập
danh sách lựa chọn người và những nhu cầu ưu tiên cho đào tạo phát triển nguồn
nhân lực, đồng thời đưa ra chính sách yêu cầu tất cả những người được bổ nhiệm
vào cấp vụ trở lên đều phải có bằng trên đại học.
Ở Thái Lan, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và công chức nhà
nước do Uỷ ban công vụ đảm nhận, Uỷ ban này có trách nhiệm thực hiện các
chương trình đào tạo phát triển năng lực cán bộ quản lý và công chức theo Luật
Công vụ năm 1992 Luật Công vụ xác định rõ khi khi một công chức được sắp xếp,
bổ nhiệm sẽ phải trải quan một quá trình đào tạo nhất định để nâng cao kiến thức,
kỹ năng, thái độ nghề nghiệp và giá trị đạo đức nghề nghiệp. Cơ quan nhân sự
Trung ương phải tổ chức chức một cách hệ thống, thường xuyên các chương trình
đào tạo và phát triển cho công chức ngay từ lúc mới được tuyển dụng, đề bạt thuyên
chuyển ở mỗi cấp bậc công chức có những chương trình đào tạo riêng phù hợp với
chức nghiệp và phạm vi quản lý, không có loại chương trình dùng chung cho tất cả
các cấp. Các chương trình đều có những nội dung cụ thể riêng biệt và thiết thực cho
mỗi cấp, ví dụ, chương trình bồi dưỡng cho cao cấp gồm: phân tích giao tiếp với tổ
chức, giao lưu thông tin và tư vấn, xây dựng đồng bộ, đào tạo tầm nhìn đối với cuộc
sống. Để thực hiện tốt chức năng đào tạo, Uỷ ban công vụ thành lập nhóm chuyên
gia chuyên trách về công tác đào tạo và phát triển, thành lập tiểu ban huấn luyệnđào tạo và hình thành hệ thống các cơ sở đào tạo như: học viện công vụ, các trường
cao đẳng công vụ để thực hiện và thúc đẩy các chương trình đào tạo và phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý và công chức.
Ở Sing-ga-po, công tác bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức được tiến hành
hằng năm theo nhiều chương trình khác nhau. Thông thường nhất, thời gian bồi
dưỡng tối thiểu bắt buộc là 100 giờ trong một năm đối với mỗi công chức, trong đó
60% nội dung bồi dưỡng về chuyên môn, 40% nội dung bồi dưỡng liên quan đến
phát triển. Chương trình bồi dưỡng được xây dựng cho những nhóm cán bộ, công
chức khác nhau theo tư duy: công chức biết việc, thích ứng với công việc, đạt hiệu
quả cao trong công việc và làm được những công việc liên quan khi cần thiết nhằm
đáp ứng sự biến đổi phát triển của xã hội Sing-ga-po, đó chính là những vấn đề rất
hay trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ở Sing-ga-po.
20
Quy trình đào tạo gồm: 1) Đào tạo ban đầu: Bước này được thực hiện vào
tháng đầu đầu tiên khi người công chức mới vào cơ quan để hoà nhập vào tập thể,
làm đúng quy định, quy chế vận hành của cơ quan; 2) Đào tạo cơ bản: trang bị
những kiến thức, kỹ năng cần thiết tối thiểu để làm việc. Bước này thực hiện vào
năm đầu tiên khi viên chức mới vào cơ quan và 3) Đào tạo nâng cao (2-3 năm sau
khi vào cơ quan làm việc): giúp viên chức làm việc có chất lượng cao. Ngoài ra còn
có các hình thức đào tạo mở rộng: cung cấp các kiến thức, kỹ năng làm việc ở mức
độ cao hơn (được thực hiện từ năm thứ 4 đến năn thứ 6 của viên chức) và đào tạo
cấp nhật kiến thức để công chức có thể làm việc với chất lượng cao và có thể làm
các công việc khác liên quan.
Từ nghiên cứu kinh nghiệm các nước, có thể rút ra: Việc đào tạo công chức
liên quan tới nhiều bộ, ngành, do đó, hầu hết các nước đều giao việc xây dựng và
giám sát chính sách đào tạo cho một bộ ở cấp trung ương phụ trách, hoặc giao cho
một uỷ ban dịch vụ công phụ trách việc làm để cơ quan này có thể gắn kết quả đào
tạo với việc thăng tiến và đề bạt sau này.
Đối với các nước theo hình thức quản lý đào tạo tập trung, cơ quan quản lý
đào tạo cấp trung ương dựa trên cơ sở đánh giá nhu cầu đào tạo của Chính phủ nói
chung và của từng bộ, ngành cũng như khả năng của các cơ sở đào tạo để lập kế
hoạch đào tạo dài hạn và hàng năm cho Chính phủ. Kế hoạch đó phải bao gồm: ước
tính chi phí, nguồn tài chính, đảm bảo xác định các nhà cung ứng đào tạo ở cả khu
vực nhà nước và tư nhân, liên hệ với các cơ quan bộ, ngành hữu quan, thiết kế thời
gian và chương trình đào tạo.
Đối với các nước theo hình thức quản lý đào tạo phi tập trung, cơ quan quản
lý đào tạo trung ương chỉ chịu trách nhiệm đề ra các mục tiêu, chính sách đào tạo
tổng thể, còn việc quản lý hoạt động đào tạo, kể cả quản lý các chính sách ngành
được giao cho các bộ, ngành, cơ quan hữu quan. Việc phân quyền này thường đi
liền với việc thành lập các cơ quan điều hành và trao quyền cho giám đốc điều hành
quản lý nhân sự.
Tuy nhiên, ngay cả ở mô hình này, cơ quan quản lý nhân sự trung ương
ngoài trách nhiệm hoạch định chính sách và lập kế hoạch cấp quốc gia, còn phải
thực hiện một số chức năng như đào tạo công chức lãnh đạo cao cấp và các cán bộ