Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Đầu Tư Phát Triển Nguồn Nhân Lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.58 KB, 43 trang )

Đầu Tư Phát Triển Nguồn Nhân Lực
Lời mở đầu
Sau ba năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, với những thành tựu ban đầu đạt
được, Việt Nam đã chứng tỏ được khả năng của mình trong việc tận dụng các thời cơ để
phát triển một cách năng động. Tuy nhiên, nước ta đang phải tiếp tục vượt qua nhiều thách
thức ngày càng gay gắt mà một trong số đó là phải xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển và hội nhập quốc tế .
Trong những năm qua (2001-2009), nền kinh tế nước ta đã đạt tốc độ tăng trưởng cao,
GDP tăng trung bình trên 7%/năm; cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch mạnh theo hướng
CNH-HĐH. Các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các ngành
kinh tế mũi nhọn ngày càng phát triển, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, công nghệ mới
được đưa vào sản xuất ngày càng nhiều. Tuy nhiên, nếu chất lượng nguồn nhân lực không
được cải thiện, thì năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ gặp khó khăn lớn.
Bối cảnh mới đã đặt ra những cơ hội cũng như thách thức cho hoạt động “Đầu tư phát
triển nguồn nhân lực” mà chúng ta cần xem xét để có thể đưa ra những định hướng hợp lý,
đáp ứng được những yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
Phần1: Cơ sở lý luận
I. Đầu tư , đầu tư phát triển.
1.1 Đầu tư:
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự bỏ ra hay sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt các kết quả ,thực hiện được các mục tiêu nhất
định trong tương lai. Tuy nhiên đứng dưới các góc độ khác nhau thì nó cụ thể như sau:
1
-Theo quan điểm tài chính : Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư
nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn sinh lời.
-Theo góc độ tiêu dùng : Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu về một
mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Để có thể hiểu rõ bản chất của hoạt động đầu
tư chúng ta cần làm rõ những yếu tố như :Nguồn lực đầu tư,hoạt động đầu tư , đối tượng
của hoạt động đầu tư .
-Nguồn lực đầu tư: Theo nghĩa hẹp được hiểu là bao gồm tiền vốn,còn theo


nghĩa rộng nó bao gồm vốn bằng tiền , đất đai,máy móc,lao động.
Mục tiêu của hoạt động đầu tư :bao gồm những lợi ích về mặt tài chính gắn liền với
doanh nghiệpchủđầu tư ;những lợi ích về mặt kinh tế và những lợi ích về mặt xã hội mà do
hoạt động đầu tư tạo nên.
Đối tượng của hoạt động đầu tư : Đầu tư vào tài sản hữư hình(tài sản vật chất), đầu
tư vào tài sản vô hình (nghiên cứu và phát triển,dịch vuh,quảng cáo, thương hiệu), đầu tư
vào tài sản sản xuất hay đầu tư vào tài sản lâu bền.
1.2 Đầu tư phát triển :
-Khái niệm: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính,nguồn
lực vật chất,nguồn lực lao động và trí tuệđể xây dựng ,sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ
tầng,mua sắm trang thiét bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và,bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân
lực,thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhăm duy trì
tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế-xã
hội,tạo ra việc làm và nâng cao đời ssống của mọi thành viên trong xã hội. Đầu tư phát
triển làm gian tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển giữa đơn vị này
sang đơn vị kia của nền kinh tế.
II. Khái niệm NNL và phát triển NNL:
2.1 Nguồn nhân lực:
Đến nay đã có khá nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu đưa ra các định nghĩa khác
nhau về NNL. Theo Liên Hợp Quốc thì “NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá
nhân và của đất nước”.
Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực,
kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi
như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên
thiên nhiên.
2
Theo tổ chức lao động quốc tế thì NNL của một quốc gia là toàn bộ những người
trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động .
NNL được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức lao

động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, NNL
bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, NNL là khả năng
lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân
cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn
bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí
lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy
định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số
lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà
nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và
trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động
là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang
tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất
lượng. Như vậy theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại
không phải là nguồn lao động, đó là: Những người không có việc làm nhưng không tích
cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, những người
trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…
Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu:
nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã
hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của
một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục
vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
2.2 Phát triển NNL:
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '' tài nguyên đặc biệt '', một
nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển Nguồn
nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực.
Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh
vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tinh chiến lược, là cơ sở chắc
chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách hiểu

khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, phát
triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. nguồn nhân lực.
3
Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực: là gia tăng giá trị cho con người,
cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm
cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn,
đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển là quá trình nâng cao năng lực của con
người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát
huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết
việc làm để phát triển kinh tế- xã hội.
Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia:
chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực,
kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu
nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình
tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn
thiện bản thân mỗi con người.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến vấn
đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một quốc gia.
III. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành công hay không, tuỳ thuộc
vào việc chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt
Nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa"1 (với ý nghĩa là đặc biệt chú ý đến vấn đề nhận thức của con người về chủ nghĩa xã
hội - tức là phải giác ngộ xã hội chủ nghĩa).
Để làm rõ hơn quan điểm trên của Hồ Chí Minh, cần nghiên cứu vai trò nguồn lực con
người trong một số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.

3.1 Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế
Trong lĩnh vực kinh tế, cần xem xét con người với tư cách là lực lượng
sản xuất và vai trò trong quan hệ sản xuất.
Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng
sản xuất. Ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, hàm lượng chất xám
trong giá trị hàng hoá ngày càng cao, thì vai trò của người lao động có trí tuệ lại càng quan
trọng trong lực lượng sản xuất. V.I. Lênin đã chỉ ra: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân
loại là công nhân, là người lao động".
Con người khi được làm chủ những tư liệu sản xuất, được đào tạo một
cách chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một
cách có hiệu quả tiềm năng đất đai, biết kết hợp các yếu tố của quá trình sản
4
xuất như huy động vốn, động viên khuyến khích người lao động làm việc có
hiệu quả, quản lý chặt chẽ nguyên liệu vật tư, do vậy, hiệu quả sản xuất kinh
doanh sẽ tốt hơn. Ngày nay vai trò người quản lý trong sản xuất kinh doanh
ngày càng trở nên quan trọng, do vậy, các quốc gia thường rất quan tâm tới
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, người lao động đã trở
thành những người làm chủ đất nước, làm chủ trong quá trình tổ chức quản
lý sản xuất, từ việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tới tổ chức sản
xuất kinh doanh và làm chủ trong quá trình phân phối sản phẩm. Điều đó
tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con người, phát
triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước ngày càng giàu
đẹp.
3.2 Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị
Từ khi giai cấp công nhân và đảng của nó lãnh đạo toàn xã hội thì con
người đã được giải phóng khỏi áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, trở thành
người làm chủ đất nước, nhân dân tự tổ chức thành nhà nước dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin về xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản, Hồ Chí Minh nhiều lần
lưu ý rằng, nước ta phải đi đến dân chủ thực sự, "Chúng ta phải ra sức thực
hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiệndân chủ thực sự".
Xét nguồn lực con người trên phương diện chính trị, khi mà người dân
có tri thức, có năng lực, thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa
chọn những người có đức có tài vào các cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây
dựng nhà nước vững mạnh.
Cán bộ nhà nước có hiểu biết lý luận, hiểu biết thực tiễn, thấy được
trách nhiệm của mình đối với nhân dân, sẽ hết lòng phụng sự nhân dân và
thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân sẽ được dân mến, dân tin, dân
ủng hộ.
Cán bộ tích cực tuyên truyền đường lối của đảng, phổ biến luật pháp
của nhà nước đến nhân dân, làm cho dân hiểu dân tin; người dân chủ động
tích cực thực hiện đường lối đó, có ý thức tôn trọng luật pháp, thực hiện
những nghĩa vụ công dân, hiểu rõ quyền lợi của mình, kiên quyết đấu tranh
với những hiện tượng tiêu cực trong xã hội sẽ làm tăng sức mạnh của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Nói về vai trò của quần chúng tham gia công việc của Nhà nước, Hồ
Chí Minh đã viết: khi người dân "... biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm", "thì việc gì khó khăn mấy họ
cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ".
Có thể khẳng định, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng trong
việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì
dân; trong quá trình đấu tranh bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ
5
chế độ xã hội chủ nghĩa; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của
kẻ thù.
3.3 Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hoá
Dưới chủ nghĩa xã hội nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ
trong đời sống văn hóa xã hội. Hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình do

nhà nước quản lý nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hoá cho
quần chúng nhân dân lao động.
Mặt khác, quần chúng nhân dân lao động cũng là những người góp phần
xây dựng nên những công trình văn hoá, những người sáng tạo ra các tác
phẩm nghệ thuật.
Một khi, con người có tri thức, có hiểu biết về các hình thức nghệthuật, sẽ tham gia
sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao như:
những bộ phim hay, những điệu múa đẹp, những tác phẩm văn học có nội
dung phong phú, v.v.. Những công trình văn hóa, nghệ thuật như vậy dễ đi
vào lòng người, có tác dụng giáo dục đạo đức, góp phần hình thành nhân
cách cho mỗi con người trong xã hội.
Con người có văn hoá cũng là những người có nghĩa vụ bảo tồn những
di sản văn hoá tinh thần của đất nước, của nhân loại. Do vậy, nếu mỗi con
người có ý thức, năng lực thực hiện tốt công việc này, thì những giá trị văn
hoá tinh thần, giá trị văn hoá vật chất của xã hội được bảo tồn, lưu giữ,
được nâng cao.
Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, mỗi con người
chúng ta có điều kiện tiếp cận với nền văn hoá nhiều nước trên thế giới.
Trình độ tri thức của mỗi người về văn hoá sẽ là tiền đề cho họ tiếp nhận
những giá trị tốt đẹp của dân tộc khác, loại bỏ những yếu tố không phù
hợp để làm giàu cho nền văn hoá dân tộc mình, làm phong phú đời sống
tinh thần cá nhân.
Con người có tri thức khoa học, có năng lực nghiên cứu tạo ra những
khả năng cho họ có những đóng góp xứng đáng trong sự phát triển khoa
học của đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ trí thức, tạo điều kiện cho họ cống hiến hết khả năng trí tuệ
cho đất nước, cho sự phát triển của xã hội.
3.4 Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội
Những vấn đề xã hội bao gồm: Vấn đề lao động việc làm, thực hiện

công bằng xã hội, thực hiện xoá đói, giảm nghèo, v.v. Muốn giải quyết tốt
những vấn đề này, đòi hỏi chúng ta phải phát huy tốt vai trò nguồn lực con người.
Giải quyết lao động việc làm là một vấn đề được từng gia đình, toàn
xã hội chúng ta quan tâm, vì có giải quyết tốt vấn đề lao động việc làm mới
phát huy được những thế mạnh của đất nước, mới giải quyết tốt được
những vấn đề xã hội khác. Song, muốn giải quyết tốt vấn đề lao động việc
6
làm, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người từ
nâng cao sức khoẻ, trình độ học vấn, tay nghề, năng lực quản lý, tới ý
thức chính trị cho người lao động.
Chính sách xoá đói giảm nghèo là một chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay. Chính sách này chỉ phát huy hiệu quả khi chính
những người nghèo thấy được trách nhiệm của mình, cố gắng nỗ lực phấn
đấu vươn lên, đồng thời được sự đồng tình ủng hộ của toàn xã hội, sự trợ
giúp của Nhà nước, v.v.
Như vậy, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật
chất, mà còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội. Bằng
hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người cải tạo tự
nhiên, biến đổi xã hội, bắt tự nhiên phục vụ cho mình, và làm đẹp cho tự
nhiên; đồng thời trong quá trình đó con người cải tạo chính bản thân mình. Dovậy, sự phối
hợp giữa các thành viên trong cộng đồng đó cũng tạo ra sức
mạnh to lớn trong việc phát huy nguồn lực con người để nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã
hội. Ngược lại, sự thiếu thống nhất, sự phối hợp không đồng bộcủa các thành viên trong xã
hội cũng sẽ làm giảm đi, thậm chí triệt tiêu cả
động lực phát triển tự nhiên và xã hội. Nguồn lực con người, xét về mỗi cá nhân, còn là
những yếu tố tiềm năng cấu thành con người có thể được khai thác. Nhưng hiệu quả việc
phát huy nguồn lực con người lại tuỳ thuộc vào chế độ xã hội, tuỳ thuộc vào cách tổ chức
xã hội, phụ thuộc vào năng lực và nghệ thuật của người quản lý xã hội, phụ thuộc vào cơ
chế và chính sách xã hội.Nguồn lực con người không khai thác, không phát huy được là
lãng phí lớn nhất. Đặc biệt là với đội ngũ trí thức càng hoạt động, càng nghiên cứu, càng

làm việc trí tuệ của họ càng đa dạng, càng phong phú và sâu sắc.Nước ta đang còn là một
nước nghèo, kinh tế kém phát triển, thì việc phát huy nguồn lực con người để xây dựng đất
nước càng trở nên quan trọng.
3.5 Vai trò của NNL chất lượng cao đối với nền kinh tế:
NNL CLC là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ
lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân
loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao
động kỹ thuật lành nghề).
Có rất nhiều yếu tố tác động tới sự phát triển của một đất nước: Con người, khoa học
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên... Nhưng hơn tất cả là yếu tố con người. Con người là
trung tâm của mọi hoạt động và là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển của đất
nước.
7
Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn luôn
đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển
kinh tế.
Theo nhà kinh tế người Anh William Petty cho rằng lao động là cha, đất đai là mẹ
của mọi của cải vật chất; C.Mác cho rằng con người là yếu tố số một của LSX. Trong
truyền thống VN xác định ''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ". Nhà tương lai Mỹ Avill
Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, theo ông ta "Tiền bạc tiêu mãi cũng hết,
quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất
đi mà còn lớn lên"
Thứ nhất là, NNL CLC là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác,
sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa
học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó NNL được xem là
năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các
nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó
không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác

dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với
NNL một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là NNL, là chủ thể sáng tạo, là
yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết
định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không
mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội
đủ bốn điều kiện :
-Quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
-Quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
-Quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.
-Quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Thứ hai là, NNL CLC là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự
nghiệp CNH, HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một
quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
8
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri
thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng
NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn
nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Thứ ba là, NNL CLC là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm phát triển bền vững
Thứ tư là, NNL CLC là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và quốc tế, NNL đặc biệt là NNL CLC của Việt Nam đang đứng trước
nhiều thách thức lớn.
Phần 2: Thực Trạng nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn
2000-2009

I.Các nguồn nhân lực và sự phân bố nguồn nhân lực hiện nay :
1.1 Các nguồn nhân lực của nước ta hiện nay:
Là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ đầu năm
2007, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu. Điều đó mở
ra nhiều thời cơ, song cũng tạo ra những thách thức lớn đối với sự phát triển của nhiều lĩnh
vực kinh tế, xã hội của đất nước. Trước những đòi hỏi và yêu cầu mới phát triển đất nước,
với vai trò là một trong những nhân tố quyết định nhất và là chủ thể thực hiện các sứ mạng
lịch sử của đất nước, một câu hỏi lớn thường đặt ra là làm thế nào để nguồn nhân lực Việt
Nam có đủ trình độ, năng lực và sức mạnh để đẩy nhanh công cuộc đổi mới nhằm phát
triển đất nước nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế có hiệu quả trong điều kiện khoa học-
công nghệ tiến nhanh, hình thành nền kinh tế tri thức và cạnh tranh khu vực và toàn cầu
ngày càng gay gắt. Được như vậy, cần phải có cách nhìn thẳng thắn và khách quan về
những đặc điểm thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và có những
phương hướng và giải pháp đúng đắn, hiệu quả để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
nước ta.
1.1.1 Nguồn nhân lực từ nông dân:
Tính đến nay, số dân của cả nước là 85,8 triệu người, trong đó, nông dân chiếm
khoảng hơn 60 triệu, bằng khoảng 70% dân số của cả nước. Số liệu trên đây phản ánh một
thực tế là nông dân nước ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội. Theo các nguồn
9
số liệu mà tôi thống kê được, hiện nay, cả nước có khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp
tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề và 40% sản phẩm từ các ngành, nghề
của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông thôn
nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác, chưa
được tổ chức, vẫn bị bỏ mặc và từ bỏ mặc đã dẫn đến sản xuất tự phát, manh mún. Người
nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều tự làm, đến lượt con cháu họ cũng tự
làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có
thể làm được. ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều
được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Nhìn chung, hiện có

tới 90% lao động nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được
đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự
yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình
trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp.
Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) chỉ là hình
thức.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở nông
thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2009, mỗi năm nhà nước thu hồi
khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị và rơi vào
túi những ông có chức, có quyền ở địa phương, gây nên bất hợp lý trong chính sách đối với
người nông dân.
Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn không được khai thác, đào tạo, nên một bộ
phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công trường. Tình
trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi
đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều.
Vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn Việt Nam đang rất đáng lo ngại. Nông dân
ở những nơi bị thu hồi đất thiếu việc làm; chất lượng lao động thấp, nhưng cho đến nay,
qua tìm hiểu, tôi thấy vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chính sách đối với nông dân, nông thôn, nông
nghiệp chưa rõ ràng.
1.1.2 Nguồn nhân lực từ công nhân:
Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng dưới 10 triệu người,
chiếm 11% dân số của cả nước, trong đó, công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước
chiếm tỷ lệ thấp, khoảng gần 4 triệu người, bằng khoảng 40% so với lực lượng công nhân
10
nói chung của cả nước; lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước có khoảng 2,70
triệu, chiếm gần 60%. Xu hướng chung là lực lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà
nước ngày càng ít đi, trong khi đó, lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày
càng tăng lên. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ công nhân nói
chung. Trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp. Số công nhân có trình

độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người, chiếm khoảng 3,3% so với
đội ngũ công nhân nói chung ở Việt Nam. Số công nhân xuất khẩu lao động tiếp tục tăng,
tuy gần đây có chững lại. Từ năm 2001 đến năm 2006, Việt Nam đã đưa được gần 375
nghìn người lao động đi làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ, tăng gấp 4 lần so với
thời kỳ 1996-2000 (95 nghìn người). Hiện nay, lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài
có khoảng 500 nghìn người, làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm
ngành nghề.
Vì đồng lương rẻ mạt, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm
thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công,
buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không
phải là công nhân. Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công
nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước, trong khi đó,
công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao,
khoảng 40%. Sự già đi và ít đi của đội ngũ công nhân Việt Nam đã thấy xuất hiện. Với tình
hình này, công nhân khó có thể đóng vai trò chủ yếu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Về mặt chính trị, thực chất, công nhân Việt Nam chưa có địa vị bằng trí
thức, công chức, viên chức, rất khó vươn lên vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội và trong
sản xuất, kinh doanh.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự quan tâm chưa đầy đủ và chưa có chính
sách có hiệu quả trong việc xây dựng giai cấp công nhân.
1.1.3 Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức:
Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí
thức Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng
phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020,7 nghìn
người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1
nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn người,… Cả nước đến nay có
14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có
trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại
học, cao đẳng, trong đó có 49% của số 47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn
giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ

phổ thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30%
11
thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300
nghìn người trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ
đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới. Số trường đại học tăng nhanh. Tính
đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường đại học, 178 trường cao đẳng, 285 trường
trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và khối
trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và 7 trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên
so với tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế giới.
Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia trung
học phổ thông năm học 2007-2008.
Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng Chính phủ
Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và
ngoài nước.
Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo là 76.200 tỷ
đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với thực hiện năm 2007.
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công chức, viên chức
(cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất nước cũng tăng nhanh:
Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5 nghìn người làm
việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42, địa phương 12).
Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp và hàng nghìn
cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn
người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị
quảng cáo, phát hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử,
đài phát thanh, truyền hình.
Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần 39 nghìn người;
ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho bạc là 13.536 người.
Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp luật
của các cơ quan trung ương là 824 người, trong đó có 43 tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến

sĩ khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459
đại học luật (chiếm 55,70%), 223 đại học khác (chiếm 27,06%), 64 người có 2 bằng vừa
chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác (chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính
ra cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người dân).
Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các cơ quan trung
ương và địa phương cũng tăng nhanh.
12
Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có 52,893 người.
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã dẫn ra
trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, công
chức, viên chức còn quá yếu. Có người tính rằng, hiện vẫn còn khoảng 80% số công chức,
viên chức làm việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một
công chức, viên chức như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng
nhiều đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có
việc làm, không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37%
sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt
Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp
đại học là 161.411. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng,
còn nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường
chưa có việc làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x
63% x 70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ đồng của dân và 3.050
tỷ đồng của nhà nước).
Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con số này có thể nói
tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.
1.2 Phân bổ NNL:
NNL nước ta phân bố không đồng đều giữa các lĩnh vực sản xuất, giữa các vùng
trong cả nước và các ngành kinh tế quốc dân. Thực tế này ngày càng được điều chỉnh cho
phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội nước ta.
1.2.1. Theo ngành
Sau 30 năm công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 56% lao động cả nước trong lĩnh vực

nông nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, sự phân bố trên
sẽ có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lực lượng lao động trong lĩnh vực nông - lâm -
ngư nghiệp và tăng dần trong các ngành công nghiệp dịch vụ.
Theo Bộ Lao động, cả nước có hơn 44 triệu người trong độ tuổi lao động. Trong số
có việc làm thì trên 70% là không ổn định, dễ bị tổn thương, dễ rơi vào nghèo đói.
Cơ cấu sử dụng lao động của một số ngành công nghiệp cao và dịch vụ (%)năm 2008
Trình độ
Lao động
phổthông
Công nhân kĩ
thuật sơ cấp
Trung
cấp
Cao đẳng, đại
học trở lên
CNTT 0 28.22 20.4 51.38
13
Lĩnh vực
Chuyển giao KH-CN 16.2 22.5 15.5 45.8
Viễn thông 10 47.8 22.7 20.3
Kinh doanh tài chính-
ngân hàng
8.5 28.1 21.4 42
Hoat động của tố
chức quốc tế
6.2 6.3 25 62.5
1.2.2 Theo khu vực.
Cũng giống như các nước đang phát triển khác trên thế giới, lực lượng lao động nước
ta hiện nay chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn và rất ít ở khu vực thành thị và ngày
càng có xu hướng tăng dần ở khu vực thành thị, giảm dần ở khu vực nông thôn. Dự báo

trong những năm tới, tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị còn tiếp tục tăng nhanh hơn cùng
với sự phát triển của quá trình đô thị hoá.
Sự phân bố lực lượng đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên cũng như từ công
nhân kỹ thuật có bằng trở lên chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, đặc biệt là các khu đô
thị trọng điểm. Lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 77,44% nhưng lao động đã qua đào
tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên chỉ chiếm 46,26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của
cả nước; với lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên tỷ lệ này chỉ
có40,96%. Trong tương lai, với sự tác động của nhiều hoạt động của nhà nước cùng với
quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đã qua đào tạo ở khu vực nông thôn sẽ ngày càng
tăng cả về quy mô và tỷ trọng so với khu vực thành thị.
1.2.3 Chất lượng NNL:
Những năm vừa qua, thị trường lao động ở nước ta đã hình thành và đang phát triển,
lực lượng lao động khá dồi dào, thể hiện trên các mặt. Về cung cấp lao động cho sự phát
triển thị trường trong nước và quốc tế, đến năm 2005, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chiếm
53,4% dân số (trên 44 triệu người); chất lượng cung lao động ngày càng cao, lao động qua
đào tạo chiếm 25%, trong đó 19% qua đào tạo nghề.
Về cầu lao động, lực lượng lao động có việc làm năm 2005 là 43,46 triệu người, chiếm
97,9%, tỷ lệ tăng trưởng việc làm là 2,67%; cơ cấu việc làm tiếp tục có sự chuyển dịch tích
cực, lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp chiếm 56, 79%, khu vực công nghiệp và
xây dựng chiếm 17,88%, và khu vực dịch vụ chiếm 25,33%. Tỷ lệ thất nghiệp chung của
cả nước là 2,09%, riêng khu vực thành thị là 5,31%. Tuy nhiên, chất lượng lao động lại quá
kém. Năng suất lao động của ta hiện nay đang kém từ 2 đến 15 lần so với các nước trong
khu vực ASEAN.
14
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, có một thực tế là NNL của ta rất dồi
dài nhưng rất nhiều doanh nghiệp lại kêu thiếu nhân lực. Sự khan hiếm tập trung ở số lao
động có trình độ, kỹ năng làm việc và có khả năng nắm giữ một số vị trí chủ chốt của
doanh nghiệp.
Trong khi đó, số lượng lớn lao động giản đơn đặt gánh nặng giải quyết việc làm lên
các cơ quan chức năng. Hơn nữa, việc cung lớn hơn cầu đối với lao động giản đơn đang

đẩy tiền công có xu hướng ngày càng thấp và lợi thế luôn thuộc về chủ sử dụng lao động.
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới, năm 2005, chất lượng NNL của Việt Nam xếp thứ 53
trong số 59 quốc gia được khảo sát. Cơ cấu NNL tỉ lệ đại học (cử nhân, bác sĩ, kỹ sư)/trung
học chuyên nghiệp/công nhân kỹ thuật trung bình ở nước ta (1:1,16: 0,92 ); còn trung bình
của thế giới (1:4:10), như vậy nước ta nghiêng tỉ lệ thầy nhiều hơn thợ quá lớn.
Do đó có thể thấy số lượng sinh viên đại học được đào tạo ở nước ta hiện nay không
phải là quá lớn và từ đó tạo nên thất nghiệp đại học, cũng không phải chúng ta cần ngăn
chặn sự phát triển về số lượng, mà vấn đề quan trọng là ở chỗ chúng ta phải đảm bảo và
tăng cường chất lượng đào tạo đại học.
Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh
viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và
có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả
những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực
chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học
mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng
khoảng ¼ của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sỹ của ta hàng năm
nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi…
NNL nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế
lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ
tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với tất các
nước trong nhóm ASEAN 6 và Trung Quốc.
Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: NNL Việt Nam về chất lượng
được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng:
- Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và
0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10
- Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100,
của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của TQ khoảng
gấp đôi của nước ta.
15
Kết quả chung là: Nhìn nhận theo góc độ đánh giá NNL, chất lượng con người Việt

Nam thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN6 và Trung Quốc, có nhiều ưu thế không
được nuôi dưỡng và phát huy đúng hướng.
Bảng: Lực lượng lao động có trình độ cao đẳng trở lên phân theo lĩnh vực đào tạo
II. Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực Việt Nam 2000-2009
16
2.1. Đầu tư cho kế hoạch hóa dân số và sức khỏe nhân dân :
Theo kết quả sơ bộ của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số cả nước
tại thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009 là 85,789 triệu người. Tốc độ tăng dân số
bình quân thời kỳ 1999-2009 là 1,2%. Trong tổng dân số, dân số thành thị 25,4 triệu người,
chiếm 29,6% tổng dân số; dân số nông thôn 60,4 triệu người, chiếm 70,4%; dân số nam
42,5 triệu người, chiếm 49,5% tổng dân số; dân số nữ 43,3 triệu người, chiếm 50,5%. Tỷ lệ
giới tính của dân số năm 2009 ở mức 98,1 nam trên 100 nữ.
Cũng theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số trong độ tuổi lao
động cả nước là 55 triệu người, trong đó 45,2 triệu người thuộc lực lượng lao động trong
độ tuổi, chiếm 82,2% tổng dân số trong độ tuổi lao động. Số lao động trong độ tuổi đang
làm việc là 43,9 triệu người, chiếm 51,1% tổng dân số, bao gồm: lao động khu vực thành
thị gần 12 triệu người, chiếm 27% tổng lao động trong độ tuổi đang làm việc; lao động khu
vực nông thôn 31,9 triệu người, chiếm 73%. Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn trung học
cơ sở trở lên là 56,7% so với tổng số lao động trong độ tưổi, trong đó tỷ lệ lao động có
trình độ trung học phổ thông trở lên là 27,8%. Lực lượng lao động trong độ tuổi có trình độ
đại học trở lên chiếm 5,3% tổng lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó thành thị
14,4%; nông thôn 1,8%; nam 5,6%; nữ 5%. Tại thời điểm điều tra, cả nước có 1,3 triệu lao
động trong độ tuổi thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 2,9% (cao hơn mức 2,38% của năm
2008), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,64%, xấp xỉ năm 2008; khu vực
nông thôn là 2,25%, cao hơn mức 1,53% của năm 2008.
Thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các cấp,
các ngành triển khai quyết liệt các chương trình, chính sách xoá đói giảm nghèo như:
Chương trình 134; Chương trình 135; Chương trình 30a và nhiều Chương trình quốc gia
khác hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các xã đặc biệt khó khăn; đồng thời đẩy mạnh việc
cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế, miễn giảm phí khám chữa bệnh, tiến hành nhiều hoạt động

khác hỗ trợ các gia đình chính sách và người nghèo.
Đời sống những người làm công ăn lương cũng tiếp tục được cải thiện. Theo Nghị
định số 33/2009/NĐ-CP ngày 06/4/2009 của Chính phủ, mức lương tối thiểu đã tăng 20%,
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Chi cho dân số
kế hoạch hóa
GD 559 434 841 666 397 483 489 612 653
17

×