Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

áp lực học đường và những hệ lụy của nó ở học sinh phổ thông hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.17 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
……………………….
Lời mở đầu.
I. Thực trạng.
1. Một số đặc điểm của học sinh phổ thông.
2. Thực trạng áp lực học đường ở học sinh phổ thông Việt Nam.
II. Nguyên nhân.
1. Nguyên nhân từ gia đình.
2. Nguyên nhân từ nhà trường.
3. Nguyên nhân từ xã hội.
4. Nguyên nhân từ bản thân học sinh.
III. Hậu quả và những hệ lụy lâu dài.
1. Hậu quả và hệ lụy đối với bản thân học sinh.
2. Hậu quả và hệ lụy đối với gia đình, nhà trường và xã hội.
IV. Một số giải pháp.
Tiểu
luận:
ÁP
LỰC
HỌC
ĐƯỜ
NG

NHỮ
Môn:
Nhập môn
Tâm lý học

G
iả


n
g
Vi
ê
n:
H
u

n
h
V
ă
n
S
ơ
n
Si
n
h
vi
ê
n:
V
ũ
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, giáo dục học đường hiện diện ở khắp nơi trong thế giới chúng ta sống. Số
lượng người tham dự vào công việc giáo dục trung bình trong một ngày nhiều hơn ở bất cứ
ngành nào khác, kể cả y tế, quân đội, và thậm chí toàn bộ thị trường lao động. Không chỉ trẻ
em từ năm hay sáu tuổi tới tuổi thiếu niên phải đi học, mà nó còn mở rộng cho những lứa

tuổi nhỏ hơn cũng như càng ngày càng nhiều thanh niên và người lớn tham gia vào những
loại hình giáo dục sau đại học, không chỉ giáo viên, nhà quản lí giáo dục mà cả các bậc phụ
huynh. Giờ đây, khi đánh giá về một quốc gia, ngoài những yếu tố kinh tế, quân sự thì giáo
dục là một lĩnh vực không thể thiếu.
Từ thực tế cuộc sống và những nghiên cứu đã cho chúng ta thấy rằng những thành công
mà xã hội loài người đạt được suốt hàng trăm năm qua là kết quả lớn lao từ đầu tư diện rộng
và giáo dục của các quốc gia. Giáo dục học đường được tổ chức để hướng dẫn và dạy dỗ trẻ
em trưởng thành theo những phương pháp tối ưu nhất và chuẩn bị cho các em cuộc sống
trưởng thành trong tương lai. Các trường học là một phần quan trọng của cấu trúc đời sống
và nó trở nên phổ biến ở tất cả mọi nơi trên thế giới. Một nền giáo dục quốc gia chất lượng
cao quyết định việc phát triển và phồn vinh của quốc gia đó.
Với vai trò quan trọng trong việc phát triển con người, phát triển quốc gia thì giáo dục
học đường ngày càng có liên hệ chặt chẽ hơn tới thị trường lao động, cơ hội phát triển của
các cá nhân. Những người giỏi nhất và triển vọng nhất của quốc gia sẽ giữ những vị trí cao,
chủ chốt hơn và cũng có nhiều cơ hội nhận được sự giáo dục hay những điều kiện tốt hơn
nữa để phát triển so với những người ít tài năng hơn. Nhận thức được những giá trị đó, giáo
dục và thành tích giáo dục càng được xã hội xem trọng, nó gắn liền với những quan niệm
kiểu như: “Học giỏi thì sẽ có một tương lai tốt đẹp”. Thành tích học tập trở thành mục tiêu
phấn đấu của cả phụ huynh, học sinh lẫn những nhà quản lý giáo dục.
Giáo dục Việt Nam là một nền giáo dục non trẻ, chỉ mới thực sự được hình thành sau
kháng chiến chống Pháp ( sau năm 1954), đang trên đà bắt nhịp với các nền giáo dục tiên
tiến trên thế giới và thể hiện vai trò của nó. Việt Nam đã nhận thức được vai trò quan trọng
2
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
của giáo dục trong sự nghiệp trồng người và xây dựng đất nước, từ đó đã có những sự quan
tâm rất lớn của cả xã hội. Tuy nhiên, việc quá đề cao thành tích giáo dục và việc nền giáo
dục còn tồn tại nhiều yếu kém đã gây ra những hậu quả không nhỏ, một trong số đó chính là
việc gia tăng áp lực học tập nên học sinh từ đó gây ra những hệ lụy khôn lường cho cá nhân
các học sinh và nền giáo dục nước ta. Vì vậy, em đã chọn tìm hiểu về đề tài này và tập trung
vào học sinh phổ thông- đối tượng đang trực tiếp chịu những hệ lụy của áp lực học đường.

I. Thực trạng:
1. Một số đặc điểm của học sinh phổ thông.
Học sinh phổ thông là những người đang theo học các lớp từ lớp 1 đến lớp 12 thuộc các
trường phổ thông. Học sinh phổ thông chia theo cấp học khác nhau. Vì bao gồm nhiều lứa
tuổi khác nhau nên học sinh phổ thông có những đặc điểm phát triển tâm lý và nhu cầu khác
nhau:
- Học sinh tiểu học là học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 ( 6-10 tuổi): hoạt động chủ đạo của các
em đã chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Đây cũng là lứa tuổi bắt đầu
phát triển tư duy, nhận thức nhưng vẫn còn thiên về cảm tính, trực quan và chuyển dần sang
tư duy trừu tượng, ngôn ngữ cũng đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của học sinh
giai đoạn này. Sự chú ý của trẻ ở giai đoạn này còn yếu, chủ yếu là chú ý đến các sự vật cụ
thể, trực quan, sinh động, hành vi và tình cảm của học sinh còn phụ thuộc rất nhiều vào sự
tác động của người lớn và còn non nớt, dễ thay đổi và thường gắn liền với sự phát triển năng
khiếu.
- Học sinh trung học cơ sở là học sinh từ lớp 6 đến lớp 9 (11-14 tuổi): cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của cơ thể và các mối quan hệ xã hội, nên nhu cầu về nhận thức và đánh giá
bản thân các em rất lớn. Đây là thời kì quan trọng, phức tạp chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi
trưởng thành vì thế có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn” và có sự
khác biệt mức độ ở từng em. Học tập ngày càng có vai trò quan trọng đối với các em, sự phát
triển khả năng tư duy, ý thức học tập và hoạt động giao tiếp tăng cao. Nhu cầu muốn chứng
tỏ bản thân cũng như các nhu cầu tình cảm bạn bè và tình cảm khác giới đều tăng.
- Học sinh trung học phổ thông là học sinh từ lớp 10 đến lớp 12 (15-17 tuổi): là giai đoạn
đầu của tuổi thanh niên, đã đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể, đạt được sự phát triển hài
hòa trong tâm sinh lý. Hoạt động và vai trò xã hội ngày càng được khẳng định, đã có sự định
hướng nghề nghiệp tương lai. Khả năng tư duy, tri giác, trí nhớ, chú ý đều đạt mức độ phát
3
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
triển cao cùng với sự năng động, ý thức độc lập, xác định được mục đích, động cơ cho hoạt
động học tập của mình. Hình thành được cái nhìn, và sự đánh giá thế giới xung quanh tạo ra
tư tưởng, lý tưởng và thế giới quan cho mình. Tình bạn và tình yêu ngày càng phong phú và

sâu sắc hơn. Đây là giai đoạn mà các em đã bước vào trưởng thành.
Từ những đặc điểm trên, ta nhận thấy vai trò của giáo dục trong từng giai đoạn sẽ là khác
nhau, phải có từng phương pháp, cách thức cho từng đối tượng. Đặc biệt quan trọng là song
song với việc dạy kiến thức khoa học, giáo dục học đường cần có sự quan tâm đúng mức cho
những nhu cầu tâm sinh lý của các em trong từng giai đoạn, nếu không sẽ tạo ra những sự
phát triển lệch lạc.
2. Thực trạng áp lực học đường ở học sinh phổ thông Việt Nam.
Hệ thống giáo dục Việt Nam bao gồm nhiều cấp bậc khác nhau:
a. Giáo dục cấp nhà trẻ - mẫu giáo
b. Giáo dục cấp phổ thông (giáo dục cơ bản): cấp Tiểu học, THCS, THPT.
c. Giáo dục chuyên biệt: trung tâm GDTX, trường PT chuyên, năng khiếu…
d. Giáo dục sau phổ thông: dự bị đại học, đại học, cao đẳng, trung cấp.
e. Giáo dục sau đại học: cao học, nghiên cứu sinh.
Bảng 1: Tỷ lệ học sinh, giáo viên trong dân số cả nước( 2013)
Cả nước hiện có khoảng 22 triệu học sinh, sinh viên và 1.2 triệu giáo viên, giảng viên,
cán bộ giảng dạy, chiếm hơn ¼ dân số cả nước. Hàng năm, nhà nước đầu tư hàng ngàn tỉ
đồng cho giáo dục, năm 2012 là 17.349 tỉ( theo số liệu thống kê của Bộ giáo dục năm học
2012-2013). Ngoài ra, sự đầu tư của các gia đình cho việc giáo dục con cái mình là một con
số không nhỏ. Cùng với sự phát triển của kinh tế, các gia đình tận dụng mọi nguồn lực tối ưu
để đầu tư cho giáo dục của con cái, được coi như là sự đầu tư cho tương lai.
 !"
#! #$%&"#'()#**+,-.+#/'
"0*12,345#6789:0%;*<6
0&+34#=%>5#/?+@
Thế nhưng, trong khi việc đầu tư cho giáo dục càng ngày càng được nâng cao, thì vô hình
chung, học sinh lại bị đẩy vào áp lực học đường trầm trọng, đặc biệt là ở bậc phổ thông. Xuất
phát từ kì vọng của phụ huynh cùng xu thế chung của xã hội khi thành tích học tập ngày càng
được coi trọng, người người nhà nhà chạy vạy ngược xuôi để con cái được vào học trường
4
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài

điểm, trường tốt. Họ không ngại ngần dành ra những khoản chi phí lớn cho con cái được học
tập ở những ngôi trường tốt nhất, thuê gia sư về tận nhà kèm cặp, cho con đi học thêm ngoài
giờ tại nhà thầy cô giáo… và đặt ra những mục tiêu thành tích bắt con cái phải đạt được. Vì
vậy, mới dẫn đến những hiện tượng chạy trường chạy lớp, phụ huynh vì muốn nộp hồ sơ
nhập học cho con mà xô đổ cả rào chắn ở cổng trường mầm non hay cứ đến hè hoặc đầu năm
học là lại nhộn nhịp tìm kiếm gia sư cho con. Còn tại các trường học, bài tập về nhà được các
giáo viên giao cho học sinh nhiều tới mức quá tải, thời gian học thêm, học phụ đạo tại trường
tăng lên, có khi vừa nghỉ hè thì học sinh đã phải quay lại trường học theo kế hoạch của
trường, mỗi học kì có hàng chục bài kiểm tra, thi lớn nhỏ khiến học sinh không kịp thở. Có
những phụ huynh than thở “ Con đi học lớp 5 mà còn căng hơn cả bố học thạc sĩ” khi ngày
nào cũng thấy con đến trường lúc 7h sáng, mà 18h30 tối mới đi học về, lại phải làm bài tập
tới 22h30 mới được đi ngủ… Hay chuyện học
sinh lớp 1 luyện viết chữ đẹp đến mức phải
A0%7BC"@"DEF+
0G
nhập viện do không chịu được áp lực tâm lý,
sức khỏe chỉ vì sợ “bị cô giáo phạt” và vì “các
bạn trong lớp đã đi học hết, chữ đẹp nên toàn
được cô khen”, để rồi dẫn tới chuyện học sinh
xé vở khi viết sai, viết lỗi.
5
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
Chuyện luyện thi cũng đang trở thành chuyện của mọi nhà có con em đi học, không chỉ
luyện thi vào đại học, cao đẳng, nửa tháng
trước ngày thi các em học sinh lớp 10 cũng phải “khổ luyện”
trong các trung tâm từ sáng đến tối mịt. Và
điều nực cười hơn nữa, các cháu mẫu giáo,
lớp 1 cũng căng thẳng không kém, cũng đang
đánh vật với các khóa luyện thi cấp tốc về kỹ năng phát âm, kỹ
năng nhận dạng đồ vật… hòng tìm một chỗ

ngồi trong những ngôi trường “mơ ước”.
A0CH#*$>IJ
J
F+0G
Khổ luyện không biết có thành tài hay không, nhưng với cách học như vậy không hề phù
hợp với sự phát triển tư duy và tâm sinh lý của các em, khi mà phải học như một cái máy,
không có thời gian vui chơi giải trí, khám phá thế giới và cuộc sống xung quanh. Mặt khác,
hiện nay các bậc phụ huynh quá kỳ vọng và mong muốn con học thật giỏi. Học tốt hay chưa
tốt được đánh giá chính qua điểm số cao hay thấp. Rất nhiều cha mẹ đi đón con đi học về thì
thay vì hỏi con học tập vui không, có hứng thú không bằng câu hỏi hôm nay được mấy điểm.
Điểm cao thì dễ dàng trao thưởng này nọ, điểm thấp thì mắng mỏ, trừng phạt tạo ra sự lo
lắng, sợ hãi không cần thiết cho các em. Thậm chí có phụ huynh chẳng cần biết con điểm
thấp vì đâu, chỉ biết điểm thấp là học dốt và tăng cường bằng những lớp phụ đạo ngoại khóa.
Điều tra 2010 cho thấy số thanh thiếu niên Việt nam có ý định tử tử đã tăng gấp đôi so
với năm 2005. Có rất nhiều nguyên nhân trong đó áp lực học hành, thi cử là một trong những
nguyên nhân chính dẫn tới những cái chết thương tâm lứa tuổi học trò.
KL +M0%%#N/&/O(+-+1DHC
%J?+5P0>Q
M/RS9%T+*6O+UVWX"F TYZA"
"[\C,]GY66[99^[P(_5"3QM`#
*+$"+*6(Z$07a/>/0J%<+_([$bc
H43.+3*1&?+/5d/efHgN(
6
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
W9ShSijBhO+\&[A(0%7R/>A[`Ak?AZXI
l/3+d!+J*"0(_=T-A(Y 
%*P(
`#i9SmSijBB*ZnADo"p"/</>AqAr"q(`$
/X30%(l(F0%7BisBjGYt"%dP%
T+*#(`"T/iBSm(O*o"+&$

X0%3#0CV!3e#"+&$u
!5!uC(
$BhSRSijBjO+/[*`+u0%v/>&\&K
FlZYGY66/2w3<+u3+!!<(((
ZRSRSijBjD%Z((A%X+Baai<\?+UeY66/v(((*
C1x3#UA(Z>5?3O+A(Yue%J!/>
UAU\55/>Aq?A%#!n/c+A(w*C1
x3#@N
FZeQyO/OG
Theo BS Lâm Hiếu Minh (Phó trưởng khoa Phòng khám trẻ em và Bệnh viện ban ngày,
BV Tâm thần TPHCM) cho hay, nhiều năm nay, số trẻ em đến khám tâm thần tại phòng
không ngừng tăng. Năm 2011 có 25.000 lượt khám, 2012 có 28.000 lượt và 2013 có đến
32.000 lượt trẻ khám chữa tâm thần. "Sức khỏe tâm thần của học sinh cấp bánh lắm rồi. Nếu
cứ tình trạng này thì khoa tâm thần nhi sẽ quá tải, bác sĩ khám không xuể”, ông Minh bày tỏ
lo lắng. Ông cũng chỉ ra thực tế đa phần sức khỏe tâm thần của học sinh có liên quan đến áp
lực học đường, nhưng các em lại không được sự tư vấn học đường kịp thời cũng như sự phát
hiện, xử lí kịp thời của cha mẹ, thầy cô để khi phát hiện ra thì đã nặng rồi, ảnh hưởng rất
nhiều đến học tập, sinh hoạt.
“Ngồi cạnh bên đứa con gái gầy gò, khuôn mắt hốc hác trong khu vực chờ khám bệnh của khoa tâm
lý tâm thần trẻ em, Bệnh viện tâm thần TPHCM, anh Q.( ngụ quận 1, TPHCM) rầu rỉ cho biết, thời gian
gần đây, con gái anh, cháu H (14 tuổi, học sinh lớp 9) gần như đêm nào cũng không ngủ.
Anh Q. kể: Phòng học riêng của H. lúc nào cũng đèn sáng, cửa đóng kín. Có lần thấy đèn sáng gần
như thâu đêm, đến tận 3 giờ sáng, mẹ H. đẩy cử phòng xông vào, bất ngờ thấy H. đang chỉnh tề quần
áo, khăn quàng, cặp mang trên vai và nói với mẹ, con chuẩn bị đi học đây, bạn con đang đứng dưới cửa
sổ gọi con.
Mẹ H. thấy vậy hoảng quá, liền nói: mới có 3 giờ mà đi học gì hả con?. H. trả lời: “Giờ này sáng rồi, đi
học trễ là bị la đó mẹ”.
Anh Q.cho biết, trước đây, nhiều lần H. đi học về thường tâm sự bị thầy cô giáo mắng, đưa lên trước
lớp làm tấm gương xấu và em cảm thấy xấu hổ với bạn bè.”
FZeQyO/OG

II. Nguyên nhân:
7
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
Để lý giải nguyên nhân của vấn nạn trên, chúng ta phải đi tiếp cận từ nhiều góc độ:
gia đình, nhà trường, xã hội và bản thân học sinh vì mỗi góc độ lại góp thêm một phần
làm cho vấn đề càng trầm trọng hơn.
1. Nguyên nhân từ gia đình:
Các bậc phụ huynh đã nhận thức tốt về vai trò của giáo dục, tuy nhiên chưa có cái
nhìn đúng đắn về giáo dục toàn diện và sự phát triển hài hòa của con. Tùy từng lứa
tuổi mà phải có những định hướng phát triển khác nhau, các bé lớp 1 không thể học
giống các em lớp 9, lớp 12 được vì có những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau. Điều
quan trọng là việc giáo dục phải bao gồm cả phát triển về nhân cách cho các em, thế
nhưng phụ huynh lại đặt nặng thành tích học tập mà quên đi việc tìm hiểu sự phát
triển tâm tư, tình cảm của các em, thiếu sự định hướng đúng đắn, bảo bọc con quá
mức khiến các em( nhất là lứa tuổi THCS) không có ý thức tự tập, không tự rèn luyện
bản lĩnh để đối phó được với áp lực.
Thông thường, phụ huynh luôn luôn mong muốn những điều tốt đẹp nhất với con
cái của mình, và họ thường cho rằng con cái họ chưa đủ lớn để chọn lựa hướng phát
triển cho chúng và tự cho mình quyền tự áp đặt tương lai con trẻ mà không quan tâm
gì đến suy nghĩ của con. Một số phụ huynh vì trước đây không được học hành đến nơi
nên giờ đặt cả những mong muốn, mơ ước của mình lên con trẻ, hoặc những người có
trình độ, có vai vế trong xã hội không muốn con mình tụt hậu vì danh dự gia đình,
dòng tộc Nhiều bậc phụ huynh biết rất rõ mình đang tạo áp lực vì đặt kỳ vọng quá
lớn cho con nhưng họ cho rằng không thể làm khác được bởi sợ con thiệt thòi, thua
kém bạn bè.
Một nguyên nhân khác là các bậc cha mẹ ngày nay thường quá bận rộn, không có
đủ thời gian để trò chuyện, gần gũi với con cái, khiến mối quan hệ giữa họ và các em
ngày càng trở lên xa cách. Nên khi có vấn đề trong học tập thì các em thường âm
thầm chịu đựng, giải quyết chứ không chia sẻ với người lớn, hay có chia sẻ cũng khó
tìm được tiếng nói chung và sự sẻ chia đúng mức từ phía cha mẹ, từ đó các em ngày

càng cảm thấy cô độc và dễ cảm thấy áp lực tinh thần hơn.
2. Nguyên nhân từ nhà trường:
Chương trình học còn quá nặng khiến học sinh mệt mỏi, đuối sức mà cách dạy của
giáo viên thì quá nặng về lý thuyết, máy móc không có sáng tạo để hấp dẫn, lôi cuốn
tạo đam mê học tập cho các em. Nhà trường vẫn còn đặt nặng vấn đề thành tích, chăm
8
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
lo củng cố cho vị thế của mình nên chỉ quan tâm tới việc dạy các kiến thức khoa học
mà không quan tâm nhiều đến giáo dục kỹ năng sống, giáo dục toàn diện con người
cho học sinh. Thầy cô chưa thật sự là những tấm gương cho các em học tập để hình
thành đam mê, nỗ lực học tập, vượt qua khó khăn. Đội ngũ tư vấn học đường còn
thiếu trầm trọng và yếu trong chuyên môn, không kịp thời tiếp cận được với những
học sinh đang gặp vấn đề áp lực.
Một yếu tố khác cũng góp phần làm tăng áp lực cho học sinh, chính là cách kiểm
tra, đánh giá thông qua điểm số. Hiện nay, cách đánh giá năng lực học tập của học
sinh đều dựa vào điểm số từ những bài kiểm tra, bài thi học kỳ. Điều này đã hình
thành ở học sinh ý nghĩ tiêu cực “muốn chứng tỏ mình học giỏi là phải đạt điểm càng
cao càng tốt”.
3. Nguyên nhân từ xã hội:
Xã hội ngày nay quá coi trọng thành tích, phân biệt bằng cấp. Việc đỗ đại học được
coi như một tấm vé thông hành vào đời là tâm lý chung của nhiều người, hay việc
phân biệt bằng cấp giữa trường đại học công lập và dân lập, giữa đại học và cao đẳng,
trung cấp. Nó đã tạo ra xu hướng chung của toàn xã hội là phải học phổ thông thật tốt
để sau này thi đậu được vào những trường đại học danh tiếng thì tương tai mới được
rộng mở. Những yếu tố đạo đức, nhân cách ngày càng bị xem nhẹ khi nhìn nhận một
con người trong xã hội.
4. Nguyên nhân từ chính bản thân học sinh:
Do bị định hướng từ gia đình, nhà trường cũng như xã hội, các em luôn mang tâm
lý hơn thua, ganh đua và coi trọng thành tích, lỡ có thua kém bạn bè hay bị thầy cô
chê trách thì không chịu đựng được và lấy thành tích học để chứng minh bản thân

mình. Ngoài ra, vì được gia đình bao bọc quá nhiều, các em không có đủ tính tự lập, ý
kiến cá nhân và bản lĩnh để vượt qua các vấn đề học tập, phụ thuộc và buông xuôi
trước những quyết định của cha mẹ, thầy cô. Các em cũng không định hình được cho
mình động cơ, mục đích học tập cũng như mục đích sống sau này. Vì thế, các em luôn
ở thế bị động và trong trạng thái ức chế nhiều mặt nên rất dễ rơi vào áp lực do học
hành gây ra.
III.Hậu quả và những hệ lụy lâu dài:
1. Đối với bản thân học sinh
9
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
Như chúng ta đã thấy trong phần thực trạng, áp lực
học tập gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tinh
thần và tâm lý của học sinh. Đó là những con số
thống kê cụ thể, tuy nhiên ngoài ra, áp lực học
đường còn bao trùm lên hầu hết mỗi em học sinh
khi cùng chung một hệ thống giáo dục như nhau,
chỉ là còn khác nhau ở mức độ.
Ngay từ nhỏ, các em đã bị cuốn vào chương trình
học, không có đủ thời gian quan tâm thế giới bên ngoài, không có cơ hội thể hiện những sở
thích, đam mê của mình để nó bị thui chột đi. Các em học vì sự thúc ép của cha mẹ, không
có động cơ học tập nên dễ rơi vào hoang mang, chán nản, dễ có tâm trạng tiêu cực mà không
vượt qua được. Các em bị đào tạo như những con robot, theo những chương trình được đặt
sẵn nên mất đi khả năng tư duy, sáng tạo khi mà một dạng bài tập phải làm đi làm lại cả chục
lần vẫn không hiểu, chương trình học ở trường, ở lớp học thêm, của gia sư khác biệt làm rối
tung hết hệ thống kiến thức. Dẫn đến những hiện tượng chữ thầy trả lại thầy, sau khi học
xong không có ứng dụng vào thực tế, không giao lưu, giao tiếp nên thiếu tinh thần
“Teamwork” ( làm việc nhóm) từ đó giải thích tại sao một số lượng lớn sinh viên đại học ra
trường nhưng vẫn thất nghiệp vì thiếu kĩ năng.
Một trong những điều nguy hiểm nhất là nó tạo ra sự lệch lạc trong phát triển tâm sinh lý.
Ví dụ như lứa tuổi tiểu học là lứa tuổi trẻ rất dễ bị tách động từ người lớn, vì thế những

sự quan tâm, lời khen, phê bình đúng lúc, đúng mức là vô vùng quan trọng cho tâm lý. Hơn
nữa, giai đoạn này nhận thức của các em thiên về trực quan, cảm tính nên cần những phương
pháp giáo dục sinh động để phát triển tư duy cũng như bộc lộ năng khiếu. Thế nhưng các em
lại bị ép nhồi nhét một lượng lớn kiến thức khô khan, với thời gian học quá nhiều trong ngày
không có điều kiện để vui chơi, giải trí, phát triển bản thân. Thầy cô, cha mẹ cũng không
dành thời gian để khuyến khích, động viên các em đúng lúc. Những học sinh luôn luôn rơi
vào trạng thái mệt mỏi, áp lực thì hỏi làm sao có đủ điều kiện để phát triển tâm sinh lý bình
thường được? Đến lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, các em đang trong thời kỳ “ẩm ương”,
nhạy cảm, muốn chứng tỏ bản thân cùng với sự thay đổi tâm sinh lý rất lớn nên rất cần thời
10
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
gian và sự quan tâm của người lớn. Nhưng thực tế chúng ta thấy rằng các em phải học không
có cả thời gian ăn, ngủ dẫn đến sức khỏe chịu ảnh hưởng, tinh thần mệt mỏi. Nếu các em có
trở lên khó bảo, cáu gắt và chống đối thì người lớn lại tìm đủ mọi cách trừng phạt, ép các em
vào nề nếp, khuôn phép của mình mà không hề tìm hiểu căn nguyên của vấn đề. Cách giáo
dục đó thật sự không phù hợp và chỉ càng làm các em căng thẳng hơn, xa cách với người lớn
hơn khi không ai hiểu được cho mình.
Từ những sự lệch lạc trong tâm lý lứa tuổi đó, các em có thể thể hiện những hành vi
chống đối thể hiện sự bất mãn, ở mức độ nhẹ thì có thể là không nghe lời, nói dối, trốn học,
gây gổ với bạn bè… nặng hơn thì có thể gây ra những bệnh lý về tâm lý: trầm cảm, tress,
hoang tưởng… và tiêu cực nhất là các em có thể chọn việc tự sát để giải thoát mình khỏi
những áp lực.
Trong những năm gần đây, nạn bạo lực học đường ngày càng tăng cao, nhiều nghiên cứu
mổ xẻ nguyên nhân của nó: việc giáo dục đạo đức, lối sống, ảnh hưởng của môi trường xã
hội( phim ảnh, game ) ảnh hưởng từ gia đình… nhưng có một nguyên nhân ít được đề cập
tới nhưng nó lại là căn nguyên của đa số vụ bạo lực học đường đó là áp lực học tập.
Rất nhiều vụ bạo lực học đường xảy ra do nguyên nhân từ sự ganh ghét nhau trong thành tích
học tập, lâu dần trở thành sự ganh ghét bất cứ ai có điểm gì hơn mình. Các em phải chịu
những áp lực quá lớn lâu ngày không được giải tỏa, nên đôi khi sử dụng việc dung vũ lực với
bạn bè để cảm thấy thoải mái hơn, để gây sự chú ý của người lớn và chứng tỏ bản thân theo

cách tiêu cực.
11
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
Với những sự phát triển lệch lạc như vậy, sẽ là một hệ lụy rất lớn cho sự phát triển của
các em sau này khi mà một thế hệ tương lai của đất nước học tập không động cơ, không mục
đích, không có lý tưởng sống, cái gì cũng bị ép buộc và phụ thuộc vào người lớn như những
con robot. Nó còn tạo ra những đức tính xấu như gian dối, làm đối phó, thích gây gổ…và sau
này khi đào tạo các thế hệ sau, các em lại lặp lại cái vòng luẩn quẩn đó.
2. Hậu quả và hệ lụy đối với gia đình, nhà trường và xã hội.
Không bậc cha mẹ nào muốn tạo áp lực cho con cái mình cả, nhưng chính những kì vọng,
sự chạy theo xu thế xã hội khiến họ làm ngơ trước những áp lực mà chính mình đang đè lên
vai con cái. Dần dà, cha mẹ và con cái càng trở lên xa cách khi người lớn chỉ muốn làm theo
ý mình và con cái thì không được thấu hiểu, chia sẻ, những mối quan hệ trong gia đình trở
lên gay gắt. Thêm vào đó, chính sự bảo bọc quá mức, chỉ bắt ép con học mà không cho tham
gia vào các hoạt động khác trong cuộc sống, khiến con cái ỷ lại vào cha mẹ, nghiễm nhiên
coi cha mẹ mình như là người phải có trách nhiệm chu cấp, lo toan cho mình, không có ý
thức tự lập. Còn nếu trường hợp các em gặp phải những áp lực tâm lý nặng nề trở thành bệnh
lý, thì chính các bậc cha mẹ là người sẽ gánh trách nhiệm, hao tổn tiền bạc, công sức và thời
gian của gia đình.
Nhà trường và xã hội cũng sẽ phải chịu những hệ lụy lớn từ việc học sinh quá áp lực
trong học tập, thể hiện qua việc gia tăng những trường hợp học sinh cá biệt, có hành vi lệch
chuẩn, chống đối dẫn tới ảnh hưởng rất lớn tới công việc giáo dục. Nó còn là nguyên nhân
gây ra sự mất cân bằng trong giáo dục, khi học sinh không có đủ thời gian học nên chỉ dành
cho những môn chính yếu, liên quan đến việc thi đại học của các em mà bỏ qua những môn
còn lại. Ví dụ rõ nhất cho vấn đề này chính là việc học sinh xem nhẹ các “môn phụ” như
Lịch sử, Giáo dục công dân… hay chuyện học sinh tại một trường phổ thông trung học xé đề
cương môn Sử trong ngày công bố môn thi tốt
nghiệp, để rồi dẫn đến chuyện “dân ta nhưng
không cần biết sử ta???”.
Dần dà, nó sẽ tạo ra một xã hội chỉ chạy theo

thành tích mà không còn coi trọng đến đạo
đức, nhân cách của con người vì chỉ lo đánh
giá bằng cấp. Cả một thế hệ trẻ phải
12
Tiểu luận Nhập môn Tâm lý học – SV: Vũ Thị Thu Hoài
học như một cái máy, nhưng sau đó thì chữ
A0%T.,J+*`P/
*36+*6"(
13
thầy lại trả lại thầy vì các em vốn chẳng đam mê gì những thứ mình đã học. Và có một
nghịch lý ở đây là trong khi bằng cấp bị đòi hỏi ở khắp nơi thì trí thức lại không được coi
trọng? Hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp ra trường, có khi với tấm bằng khá, giỏi nhưng vẫn
thất nghiệp? Phải chăng là những thành tích được đánh giá ở đây là không có giá trị, khi tấm
bằng không nói lên được bản chất cho người chủ của nó. Thế hệ trẻ của chúng ta, còn thiếu
và còn yếu nhiều, thế nhưng lại đang bị chính cách giáo dục hiện hành kìm hãm, giới hạn.
IV.Một số giải pháp:
Những giải pháp thì luôn được đưa ra từ chính những nguyên nhân gây ra nó.
+ Đối với gia đình
Phụ huynh phải thay đổi cách nhìn về thành tích học tập và vai trò của giáo dục đối với
con cái của họ. “Học để làm gì?”, không phải học để lấy điểm số, bằng cấp và công việc
lương cao mà học chính vì sự phát triển toàn diện của chính con em mình. Hãy để các em
được học bằng đam mê, sở thích, tạo điều kiện cho các em phát huy thế mạnh, khả năng tiềm
ẩn của mình chứ đừng nuôi nhốt các em như những chú gà công nghiệp, nếu Bill Gates cũng
bị cha mẹ ông bắt ông trở thành một bác sĩ, thì liệu sẽ có Microsoft ngày nay và có ông như
bây giờ hay không? Hãy để con trẻ sống với ước mơ của chính mình. Ngoài ra, không được
coi nhẹ việc giáo dục nhân cách của trẻ, mỗi giai đoạn sẽ có một đặc điểm khác nhau mà ta
cần phải quan tâm đúng mức, việc quan tâm đến tâm tư, tình cảm và giáo dục cho các em
động cơ, mục đích của cuộc sống là vô cùng quan trọng trong việc phát triển toàn diện của
các em.
+ Đối với nhà trường:

Phải giảm thiểu việc chạy theo thành tích trong giáo dục mà quan tâm nhiều hơn tới chất
lượng thực sự, thể hiện qua việc nên thay đổi cách đánh giá thành tích bằng điểm số như hiện
nay. Chương trình học nên được giảm tải và chú trọng hơn đến giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh, thầy cô nên là tấm gương cho học trò của mình để các em noi theo và tự định
hướng cho mình. Chúng ta cũng nên tìm tòi và học hỏi thêm những kinh nghiệm quản lý giáo
dục của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới để tìm ra một triết lý giáo dục đúng
đắn cho giáo dục nước nhà.
+ Đối với xã hội:
Phải thay đổi cái nhìn của xã hội về bằng cấp, đánh giá dựa vào năng lực thật sự của mỗi
người chứ không phải thông qua những tấm văn bằng. Chúng ta phải nhìn thẳng vào thực tế
rằng thành tích học tập không đủ tạo ra năng lực của một cá nhân mà nó là tổng hòa của
nhiều yếu tố khác nhau, vì thế, chạy theo thành tích chỉ khiến cho chính thế hệ trẻ của chúng
phải chịu áp lực và mất đi cơ hội phát triển toàn diện mà thôi.
+ Đối với bản thân học sinh:
Các em nên giảm bớt sự phụ thuộc của mình vào gia đình để rèn luyện cho mình ý chí và
bản lĩnh đối phó với mọi khó khăn của cuộc sống, hay trước những vấn đề như áp lực học.
Các em cũng nên tìm cho mình động cơ, mục đích học rõ ràng để có sự đam mê, yêu thích
học tập. Đồng thời, nên chia sẻ nhiều hơn các vấn đề các em gặp phải trong học tập với
người lớn để cùng thảo luận, tìm cách giải quyết kịp thời.
Tuy nhiên, những giải pháp trên vừa được đưa ra cũng thật khó để áp dụng ngay vào thực
tế để giảm thiểu cho các em những hệ lụy của áp lực học tập gây ra, vì muốn thay đổi định
kiến của một xã hội thật sự là một vấn đề khó. Khó có thể khuyên một phụ huynh rằng không
nên tăng giờ học thêm ngoài trường cho con cái họ nữa khi mà những đứa trẻ khác, bạn của
con họ đang tất bật chạy như con thoi từ chỗ phụ đạo này đến chỗ học thêm kia. Một giải
pháp khả thi nhất lúc này là tại mỗi trường phổ thông, chúng ta nên thành lập ra một phòng
tham vấn học đường cho học sinh, nhất là cấp THCS và THPT. Với chuyên môn, sự hiểu
biết, trách nhiệm của các chuyên viên tham vấn, sẽ có những cách giải pháp đúng đắn và phù
hợp hơn cho các vấn đề học sinh gặp phải và đảm bảo cho sự phát triển đúng đắn của các em.
Vì sự phát triển của tương lai các em cũng như của nền giáo dục nước nhà, chúng ta đang rất
cần một giải pháp ở tầm vĩ mô và tính thiết thực cao đòi hỏi các nhà quản lí phải mau chóng

đưa ra những quyết sách sáng suốt.
Tài liệu tham khảo:
Phạm Tấn Hoàng Sơn dịch (2009), K#3"H6e!52, NXB Văn hóa Sài
Gòn.
Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (1995), ?+0=;%5+, Hà
Nội.
Phạm Minh Hạc (2002), 'C?+0, NXB Giáo dục.
Trang web: google.com, dantri.com.vn….

×