Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư, làm rõ sự cần thiết phải tuân thủ nguyên tắc này trong quá trình lập kế hoạch đầu tư và liên hệ với thực tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.42 KB, 28 trang )

Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
MỤC LỤC
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế xã hội của đất nước muốn phát triển với tốc độ cao và tăng trưởng
bền vững cần phải đầu tư phát triển. Công cuộc đầu tư phát triển phải tiến hành trong
thời gian khá dài và chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Trong thời gian chuẩn bị đầu tư,
khâu lập kế hoạch đầu tư là hết sức quan trọng, đầu tư sai, không đúng mục đích sẽ
gây lãng phí các nguồn lực, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội đất nước;
ngược lại đầu tư đúng mục đích, hiệu quả sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển
nền kinh tế đất nước, các vấn đề xã hội cũng được giải quyết. Trong quản lý đầu tư
và lập kế hoạch đầu tư, việc tuân thủ các nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư cần phải
được quán triệt và tuân thủ nghiêm túc nhằm xây dựng một nền kinh tế phát triển
đúng hướng và bền vững.
Kế hoạch hoá đầu tư, quản lý đầu tư đang được Đảng, Nhà nước quam tâm đặc biệt,
được tập trung chỉ đạo và quyết liệt. Đây là vấn đề lớn đang đặt ra cho đất nước ta, cho mỗi
ngành, mỗi cấp, mỗi người dân đặc biệt là trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới
hiện nay. Các nguồn vốn được huy động không chỉ từ trong nước mà còn từ nước ngoài
thông qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài, các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức,… Việc tuân thủ tốt các nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư đảm bảo cho các nguồn vốn
đầu tư được sử dụng có hiệu quả cao và xây dựng, giữ uy tín vị thế của đất nước ta trên
trường quốc tế.
Nếu các nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư không được tuân thủ nghiêm túc sẽ gây
ra những tổn thất lớn cho nền kinh tế, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đất
nước. Từ nguyên nhân đó, tiểu luận này với đề tài: “Nguyên tắc lập kế hoạch đầu
tư, làm rõ sự cần thiết phải tuân thủ nguyên tắc này trong quá trình lập kế hoạch
đầu tư và liên hệ với thực tế Việt Nam” nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan về
các nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư về mặt lý luận và thực tiễn từ đó đưa ra một số
kiến nghị đối với Nhà nước và một số giải pháp đối với các chủ đầu tư góp phần vào
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F


1
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
sự thành công của các dự án đầu tư, đảm bảo mục tiêu phát triển nhanh và bền vững
nền kinh tế đất nước.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, tiểu luận gồm có ba nội dung:
Phần I: Lý luận chung về nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư
Phần II: Thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư tại Việt Nam
Phần III: Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao việc tuân thủ các nguyên
tắc lập kế hoạch đầu tư
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu nên bài viết còn nhiều thiếu sót, mong nhận
được sự cảm thông và góp ý của cô giáo để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F
2
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC
LẬP KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ
1.1. Khái luận chung về Đầu tư
Khái niệm Đầu tư: Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để thu được các kết quả đó.
Có 3 loại hình đầu tư:
Đầu tư phát triển: là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra các tài sản vật
chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu
phát triển.
Đầu tư tài chính: Là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay
hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để hưởng lãi
suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lợi nhuận tuỳ thuộc
vào kết quả hoạt động sản xuất của công ty phát hành (mua cổ phiếu…)

Đầu tư thương mại: Loại hình đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản tài chính của
người đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng
góp tài chính tích luỹ của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển nhằm thúc đẩy sự
lưu thông, phân phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra.
Ba loại đầu tư này luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Phạm vi
nghiên cứu của môn học chỉ tập trung nghiên cứu về Đầu tư phát triển.
1.2. Sơ lược về kế hoạch hoá hoạt động Đầu tư phát triển
Kế hoạch hoá là nhận thức và phản ánh tính kế hoạch khách quan của nền kinh
tế quốc dân thành hệ thống các mục tiêu , những định hướng phát triển kinh tế xã hội,
những biện pháp, phương tiện và thời hạn thực hiện những mục tiêu đó nhằm đạt
hiệu quả cao nhất.
Kế hoạch hoá hoạt động đầu tư phát triển là một nội dung của công tác kế hoạch
hoá, là quá trình xác định mục tiêu của hoạt động đầu tư và đề xuất những giải pháp
tốt nhất để đạt mục tiêu đó với hiệu quả cao nhất.
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F
3
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
Tác dụng của công tác kế hoạch hoá đầu tư:
Một là kế hoạch hoá đầu tư cho biết mục tiêu và phương tiện để đạt được mục
tiêu đầu tư, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nền kinh tế và cơ sở. Kế hoạch
đầu tư cho phép hoạt động giữa các bộ phận, ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế
cũng như của cơ sở. Một kế hoạch đầu tư hợp lý sẽ góp phần giảm bớt những thất
thoát và lãng phí.
Hai là kế hoạch đầu tư góp phần hạn chế và điều chỉnh những khuyết tật của
nền kinh tế thị trường như hạn chế xu hướng đầu tư bất hợp lý, điều chỉnh cơ cấu đầu
tư theo hướng ngày càng hợp lý hơn, hạn chế việc phân hoá giàu nghèo.
Kế hoạch hóa hoạt động đầu tư vừa là nội dung vừa là công cụ để quản lý hoạt
động đầu tư.
1.3. Các nguyên tắc lập kế hoạch Đầu tư
Xuất phát từ các yếu tố, bản chất và tác dụng cũng như thực tế công tác Kế

hoạch hoá đầu tư của Việt nam trong quá trình đổi mới đất nước, ta thấy kế hoạch
hoá vẫn đóng vai trò quan trọng hiện nay, nó là công cụ quản lý kinh tế xã hội ở tầm
vĩ mô và là công cụ kinh doanh ở tầm vi mô. Cũng vì vai trò quan trọng đó việc lập
kế hoạch đầu tư phải đảm bảo thực hiện và tuân thủ đúng 8 nguyên tắc cơ bản sau:
(1) Kế hoạch đầu tư phải dựa vào quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của quốc gia, ngành, địa phương và cơ sở.
(2) Kế hoạch đầu tư phải xuất phát từ tình hình cung cầu của thị trường.
(3) Coi trọng công tác dự báo, phải có mục tiêu rõ ràng khi lập kế hoạch đầu tư
trong cơ chế thị trường.
(4) Đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá đầu tư theo các chương trình, dự án.
(5) Kế hoạch đầu tư của nhà nước trong cơ chế thị trường cần coi trọng cả kế
hoạch định hướng và kế hoạch trực tiếp.
(6) Phải đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, kịp thời và linh hoạt của kế hoạch.
(7) Kế hoạch đầu tư của nhà nước phải đảm bảo những mặt cân đối lớn của nền
kinh tế, kết hợp tốt giữa nội lực và ngoại lực, kết hợp hài hoà giũa lợi ích hiện tại và
lợi ích lâu dài, lợi ích tổng thể với lợi ích cục bộ, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu
chuẩn để xem xét đánh giá.
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F
4
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
(8) Kế hoạch đầu tư trực tiếp của nhà nước phải được xây dựng theo nguyên tắc
từ dưới lên.
1.4. Sự cần thiết phải tuân thủ các nguyên tắc lập ké hoạch đầu tư
Trên cơ sở các nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư trên thấy sự cần thiết phải tuân
thủ các nguyên tắc này trong công tác lập kế hoạch đầu tư vì:
(1) Kế hoạch đầu tư phải dựa vào quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của quốc gia, ngành, địa phương và cơ sở:
Như ta biết Nhà nước thống nhất quản ý đầu tư và xây dựng đối với tất cả các
thành phần kinh tế về mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch và kế
hoạch phát triển ngành, lãnh thổ, quy hoạch và kế hoạch xây dựng đô thị và nông

thôn, quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng, lựa chọn công nghệ, sử dụng đất đai tài
nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, thiết kế kỹ thuật, kiến trúc, xây lắp, bảo hiểm,
bảo hành công trình và các khía canh xã hội khác của dự án.
Các quy hoạch chiến lược và kế hoạch phát triển ngành, lãnh thổ nói riêng và
của toàn đất nước nói chung đều được xây dựng một cách khoa học dựa trên tổng thể
các nguồn lực, những lợi thế của từng ngành, vùng lãnh thổ và của đất nước. Nó
hướng các đến mục tiêu chung và đảm bảo các ngành, vùng lãnh thổ khai thác, huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, phát huy được lợi thế so sánh. Vì vậy
các quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, ngành, địa phương
và cơ sở là căn cứ khoa học để lập kế hoạch đầu tư trong phạm vi nền kinh tế quốc
dân cũng như từng ngành, địa phương và tổ chức cơ sở.
Bên cạnh đó nếu kế hoạch đầu tư dựa vào các quy hoạch, chiến lược phát triển
kinh tế xã hội sẽ hướng kế hoạch đầu tư đó đạt được các mục tiêu phát triển lâu dài
và hướng đến sự phát triển bền vững, tránh được tình trạng đầu tư tự phát, manh
mún, tạo ra sự đồng bộ cũng như hiệu quả tổng thể trong đầu tư.
Ngoài ra các các quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội khi xây dựng
được dựa trên từ tình hình cung cầu của thị trường, do đó nếu kế hoạch đầu tư xây
dựng căn cứ vào đó sẽ đảm bảo đáp ứng đúng và đầy đủ đòi hỏi thực tế của thị
trường, từ đó sẽ đem lại tính khả thi cao của dự án đầu tư.
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F
5
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
(2) Kế hoạch đầu tư phải xuất phát từ tình hình cung cầu của thị trường:
Khác với kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, kế hoạch đầu tư
trong cơ chế thị trường cần xuất phát từ tình hình cung cầu của thị trường. Căn cứ
vào tín hiệu thị trường cho biết nên đầu tư cái gì sẽ có lợi nhất, phù hợp với thị
trường nhất, nó đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của sản phẩm cũng như dự án.
Căn cứ vào tín hiệu thị trường cho biết nên đầu tư bao nhiêu vốn, từ đó có kế hoạch cụ
thể để xây dựng phương án nguồn vốn cũng như các nguồn lực khác để đảm bảo và có
hiệu quả nhất cho dự án. Căn cứ vào tín hiệu thị trường cho biết nên đầu tư khi nào,

thời điểm đầu tư cũng có quyết định rất quan trọng đến việc phát huy dự án sau này
cũng như cơ hội đầu tư của dự án, sự thành công hay thất bại của dự án. Ngoài ra tuổi
đời sản phẩm của dự án phụ thuộc rất nhiều vào thị trường, do đó việc quyết định đầu
tư để đưa sản phẩm ra kịp thời cũng là yếu tố rất quan trọng trong đầu tư.
Xuất phát từ các nhân tố trên việc dựa trên cơ sở nghiên cứu thị trường để quyết
định phương hướng đầu tư là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn để đạt được hiệu quả
của hoạt động đầu tư. Tuy nhiên cũng cần thấy rõ và phân tích kỹ để tránh vấp phải
mặt trái của thị trường khi lập kế hoạch đầu tư.
(3) Coi trọng công tác dự báo, phải có mục tiêu rõ ràng khi lập kế hoạch đầu tư
trong cơ chế thị trường:
Dự báo là một công cụ để kế hoạch, trong cơ chế thị trường kế hoạch định
hướng giữ vị trí rất quan trọng nên cần phải phát huy hiệu quả công tác dự báo cả
trong ngắn hạn và dài hạn, dự báo cung và cầu sản phẩm, dự bảo vốn và nguồn vốn
đầu tư, dự báo tình hình đầu tư của các chủ thể.
Bản chất của công tác kế hoạch là đưa ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, do
đó phải xây dựng được các mục tiêu thực hiện cụ thể rõ ràng. Để có được các mục
tiêu đó đòi hỏi phải làm công tác dự báo, công tác dự báo có chính xác, có được coi
trọng thì mục tiêu và thực hiện mới đảm bảo đúng đắn, phù hợp và hiệu quả.
Kế hoạch đầu tư có mục tiêu rõ ràng giúp cho việc kiểm tra việc sử dụng vốn
đầu tư có đúng mục đích hay không. Hiện nay, nhu cầu về vốn lớn, nguồn lực thì hạn
chế vì vậy qua kế hoạch đầu tư có mục tiêu rõ ràng thì việc phân bổ vốn sẽ hợp lý và
đảm bảo đúng theo quy hoạch, định hướng của từng cơ sở, ngành, lĩnh vực kinh tế và
nền kinh tế nói chung.
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F
6
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
(4) Đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá đầu tư theo các chương trình, dự án:
Điểm mới của kế hoạch trong cơ chế thị trường là việc lập kế hoạch theo
chương trình phát triển dự án. Chương trình phát triển dự án là công cụ thực hiện kế
hoạch, là tập hợp các mục tiêu, biện pháp nhằm phối hợp thực hiện một cách hiệu

quả nhất mục tiêu kế hoạch đề ra trong điều kiện thời gian và nguồn lực nhất định.
Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo
mới, mở rộng hoặc cải tạo cơ sở vật chất nhất định, nhằm đạt được sự tăng trưởng về
số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc đơn vị trong
khoảng thời gian xác định. Để dự án đầu tư khi đi vào hoạt động đạt được hiệu quả
cao nhất về tổng hợp các mặt lợi ích, việc xây dựng dự án phải đảm bảo theo các
nguyên tắc nhất định. Trong đó phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp với định hướng
phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, địa phương và cả nước.
Xuất pháp từ cơ sở đó thực chất của công tác kế hoạch hoá đầu tư theo chương
trình và dự án là lập kế hoạch đầu tư phát triển trên cơ sở các mục tiêu, nhiệm vụ của
kế hoạch, lựa chọn các vấn đề vào chương trình phát triển và xây dựng các dự án đầu
tư để thể hiện chương trình đó. Thực hiện tốt các chương trình phát triển và dự án là
cơ sở thực hiện thành công kế hoạch đầu tư.
(5) Kế hoạch đầu tư của nhà nước trong cơ chế thị trường cần coi trọng cả kế
hoạch định hướng và kế hoạch trực tiếp:
Kế hoạch đầu tư của nhà nước cần đảm bảo những mặt cân đối lớn của nền kinh
tế, phản ánh toàn bộ hoạt động đầu tư và có sự định hướng phân công đầu tư hợp lý
giữa các thành phần kinh tế. Một số công trình đầu tư quan trọng, then chốt có ảnh
hưởng quan trọng đến đời sống kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng và nguồn vốn
đầu tư của nhà nước,.. cần được nhà nước lập kế hoạch đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên,
Nhà nước quản lý quá trình đầu tư chủ yếu bằng pháp luật bằng các biện pháp
khuyền khích hay hạn chế, bằng cơ chế chính sách, bằng các đòn bẩy kinh tế, sử
dụng triệt để quan hệ thị trường và lợi ích vật chất.
(6) Phải đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, kịp thời và linh hoạt của kế hoạch:
Kế hoạch đầu tư phải dựa trên những căn cứ khoa học về khả năng và thực
trạng vốn đầu tư, tình hình cung, cầu sản phẩm thị trường, chiến lược phương hướng
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F
7
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
phát triển kinh tế xã hội, chiến lược đầu tư chung của nền kinh tế, ngành, địa phương

và đơn vị,.. Kế hoạch đầu tư phải đồng bộ giữa các nội dung đầu tư, giữa mục tiêu và
biện pháp, đảm bảo tạo ra một cơ cấu đầu tư hợp lý, đồng thời có tính linh hoạt cao.
Kế hoạch sẽ được điều chỉnh khi thay đổi nhu cầu và nguồn lực thực hiện, dựa trên
cơ sở khoa học để đảm bảo tính chính xác, đảm bảo khả năng thực hiện kế hoạch đầu
tư và đảm bảo hiệu quả của kế hoạch đầu tư.
(7) Kế hoạch đầu tư của nhà nước phải đảm bảo những mặt cân đối lớn của nền
kinh tế, kết hợp tốt giữa nội lực và ngoại lực, kết hợp hài hoà giũa lợi ích hiện tại và
lợi ích lâu dài, lợi ích tổng thể với lợi ích cục bộ, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu
chuẩn để xem xét đánh giá:
Kế hoạch đầu tư của nhà nước là bộ phận rất quan trọng của kế hoạch đầu tư nói
chung. Với quy mô vốn lớn tập trung trong tay thành phần kinh tế nhà nước, nhà
nước xây dựng và thực hiện các kế hoạch đầu tư có vị trí chiến lược quan trọng, có
ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những cân đối lớn của nền
kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tiềm năng đầu tư của các thành phần kinh
tế khác và thu hút đầu tư nước ngoài.
(8) Kế hoạch đầu tư trực tiếp của nhà nước phải được xây dựng theo nguyên tắc
từ dưới lên:
Để kế hoạch có tính thực thi cao, đặc biệt trong điều kiện sử dụng vốn nhà nước
thì kế hoạch đầu tư cần được thực hiện từ dưới lên. Dự án đầu tư là công cụ thực hiện
kế hoạch đầu tư của các tổ chức cơ sở. Cơ sở lập dự án đầu tư trình lên Bộ, ngành,
địa phương. Nhà nước xem xét trên cơ sở đảm bảo sự cân đối chung của toàn bộ nền
kinh tế giữa các ngành, các địa phương và cơ sở. Tổng hợp kế hoạch đầu tư theo các
dự án của cơ sở sẽ là kế hoạch đầu tư của đơn vị và tư đó tổng hợp theo từng ngành,
từng địa phương và cho cả nước.
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F
8
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
PHẦN II: THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
LẬP KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM
2.1. Hạn chế của một số dự án đầu tư tại Việt Nam trong khâu lập kế

hoạch Đầu tư
2.1.1. Các dự án xi măng tại Việt Nam hiện nay
Tình hình đầu tư thực tế hiện nay của toàn ngành xi măng còn nhiều bất cập, các
nhà máy xi măng mới được xây dựng ồ ạt, tập trung ở một số vùng có khả năng gây
trở ngại trong tiêu thụ và vận chuyển sản phẩm tiêu thụ cũng như vật tư đầu vào.
Chẳng hạn như vùng Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An có tới hơn 10 nhà
máy xi măng công suất hơn 20 triệu tấn, tuy nhiên tại khu vực này chưa có các cảng
phù hợp để vận chuyển tiêu thụ ở các thị trường khác.
Số liệu của Hiệp hội xi măng Việt Nam (VNCA) cho thấy, nhu cầu tiêu thụ xi măng
năm 2006 của cả nước đạt 32,5 triệu tấn, cao hơn so với sản lượng khoảng 1 triệu tấn.
VNCA dự báo trong giai đoạn 2007-2010, tốc độ gia tăng nhu cầu xi măng bình quân là
11% và đến năm 2010, nhu cầu tiêu thụ xi măng cả nước khoảng 50 triệu tấn.
Trong khi đó, tính tới giữa năm 2006, cả nước có tổng công suất thiết kế là 24,7
triệu tấn xi măng (không bao gồm công suất các trạm nghiền xi măng). Hiện nay, có
khoảng 30 dự án xi măng đang triển khai xây dựng với tổng công suất khoảng 35
triệu tấn xi măng. Như vậy đến năm 2010, công nghiệp xi măng Việt Nam sẽ có tổng
công suất thiết kế khoảng 60 triệu tấn, thừa 10 triệu tấn so với nhu cầu. Trong khi đó,
khả năng xuất khẩu sản phẩm này còn hạn chế do đặc thù của ngành, việc sản xuất
chủ yếu phục vụ nhu cầu nội địa.
Với tốc độ đầu tư xây dựng ồ ạt các nhà máy xi măng như hiện nay, đến năm
2010 tổng sản lượng xi măng cả nước sẽ lên tới 60 triệu tấn, vượt nhu cầu tới 10 triệu
tấn và gây ra cuộc khủng hoảng thừa.
Các cơ quan chức năng cần căn cứ vào quy hoạch và trình tự thời gian để cấp
phép quy hoạch, tránh tình trạng đầu tư ồ ạt như hiện nay, tổng mức đầu tư lên tới
hàng tỉ USD chưa phát huy hết hiệu quả, gây nên cạnh tranh nội bộ quyết liệt và tiềm
ẩn hậu quả khôn lường.
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F
9
Tiểu luận Kinh tế Đầu tư
Kiến nghị các cấp có thẩm quyền nên cân nhắc thận trọng trong việc phê duyệt

thêm các dự án mới sẽ đi vào sản xuất trong giai đoạn 2007-2010; thường xuyên
kiểm tra quá trình xây lắp của các chủ đầu tư để đảm bảo tiến độ, nếu công ty yếu
kém thì tìm cách sáp nhập với các đơn vị có năng lực.
Từ khâu khai thác đá vôi cho đến hoạt động của các nhà máy xi măng đang để
lại những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường và cảnh quan đất nước. Dự trữ tài
nguyên để sản xuất xi măng ở nước ta như đá vôi, đất sét, than...tuy dồi dào nhưng
cũng là nguồn tài nguyên không tái sinh được. Vì vậy, Nhà nước cũng cần có chính
sách và quy định sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn tài nguyên này.
2.1.2. Dự án đánh bắt cá xa bờ
Dự án đánh bắt cá xa bờ không đảm bảo tính đồng bộ (đầu ra của sản phẩm);
không xác định rõ mục tiêu của dự án.
Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ được Thủ tướng giao Bộ Thủy sản thực
hiện. Dự án triển khai từ năm 1997 tại 29 tỉnh, thành phố với tổng số vốn tín dụng ưu
đãi đã giải ngân hơn 1.340 tỷ đồng.
Theo Bộ Thủy sản, tàu khai thác hải sản xa bờ đã hỗ trợ các đoàn tàu nhỏ hơn ra
khai thác ở các vùng biển Vịnh Bắc bộ, DK 1, các vùng biển Đông và Tây Nam Bộ.
Nhưng thực tế, hiệu quả kinh tế của chương trình này lại thấp. Nhiều dự án chỉ đánh bắt
ở những ngư trường truyền thống gần bờ, chưa vươn ra khơi. Hơn 1.300 tàu đánh bắt hải
sản đã được hoán cải và đóng mới bằng vốn vay của nhà nước. Nhưng có tới 520 tàu
hoạt động không hiệu quả, 250 phương tiện không đi biển nằm phơi sương.
Bộ Thủy sản thừa nhận đã lựa chọn chủ dự án đầu tư nhiều trường hợp không
đúng đối tượng; lập, thẩm định xem duyệt các dự án đầu tư không chặt chẽ, không đủ
các điều kiện theo quy định.
Khi triển khai dự án, tại nhiều địa phương, chủ đầu tư được tập trung ưu tiên là
các HTX. Hầu hết số này được thành lập sau khi Chính phủ có chủ trương cho vay
vốn ưu đãi, nhằm xin tiếp nhận tiền đầu tư... Kiểm tra hơn 280 HTX tại 9 tỉnh, thành
phố có gần 265 cơ sở vừa mới thành lập so với thời điểm xét duyệt. Có những HTX
đứng tên chủ dự án nhưng thực tế việc quản lý, sử dụng tàu, tài sản của dự án là do cá
nhân thực hiện. Lãi họ hưởng nhưng lỗ và trách nhiệm trả nợ lại là HTX.
Trần Thị Tuyết Nhung Lớp: CH18F

10

×