Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.66 KB, 54 trang )

Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý trường phổ thông
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
MỤC LỤC
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài; 2. Mục tiêu nghiên cứu; 3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Chương I: Một số vấn đề lí luận của việc vận dụng nguyên tắc TTDC
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
1. Cơ sở khoa học của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
2. Cơ sở pháp lý của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên
3. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Chương II: Thực trạng của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ GV trường phổ thông .
1. Những thành tựu chung
2. Những yếu kém và bất cập
3. Nguyên nhân
4. Một số vấn đề đặt ra trong việc vận dụng nguyên tắc TTDC trong
quản lý trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV
Chương III: Một số biện pháp của việc vận dụng nguyên tắc TDC nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường phổ thông .
Phần kết luận
1. Kết luận
2. Bài học kinh nghiệm
3
5
1
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Nhân dân ta rất hiếu học và rất coi trọng vai trò của thầy giáo. Câu ca dao “
Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.” đã nói lên điều đó.
Trong lễ giáo trước đây, người ta sắp xếp thứ bậc: Quân - Sư – Phụ; xếp thầy trên cha.
Thứ bậc ấy tuy là của đạo Nho nhưng được nhân dân ta chấp nhận, điều đó chứng tỏ
nhân dân ta đánh giá cao vai trò của giáo dục, của học vấn trong sự phát triển của xã
hội. Bác Hồ rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đội ngũ thầy giáo. Về sự nghiệp
giáo dục, người đã từng nói: “ Vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người”. Về vai trò thầy giáo, Bác dạy “...nếu không có thầy giáo thì không có giáo
dục...”. Nhưng để thực hiện được vai trò vẻ vang của mình, trước hết: “ Thầy phải xứng
đáng làm thầy, thầy phải được lựa chọn cẩn thận vì không phải ai cũng làm thầy được .”
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2 khóa VIII về những giải pháp chủ yếu
để thực hiện mục tiêu GD-ĐT từ nay đến năm 2010 đã nêu: “ Giáo viên là nhân tố
quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh, giáo viên phải đủ đức, đủ
tài...”. Điều đó có nghĩa là giáo viên không đủ đức, đủ tài không thể tạo ra những con
người đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của trí tuệ, kỷ nguyên của KHKT hiện đại; và
sẽ không hoàn thành sứ mệnh CNH - HĐH đất nước. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
nói: “ Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất vì nó sáng tạo ra những con người sáng
tạo”.
Chỉ thị số 40- CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
giai đoạn 2005 - 2010" đã ghi nhận rõ lí do vì sao phải xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục : “Trong lịch sử nước ta, "tôn sư trọng đạo"
là truyền thống quý báu của dân tộc, nhà giáo bao giờ cũng được nhân dân yêu mến,
kính trọng. Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục ngày càng đông đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức chính
trị tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đội ngũ này đã đáp
ứng quan trọng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu
cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ

nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn
thiếu nhiều, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số...Cơ cấu
2
giáo viên đang mất cân đối giữa các môn học, bậc học, các vùng, miền. Chất lượng
chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng yêu cầu và truyền
đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của
người học; một bộ phận nhà giáo thiếu gương mẫu trong đạo dức, lối sống, nhân cách,
chưa làm gương tốt cho học sinh, sinh viên. Năng lực của sự nghiệp giáo dục. Chế độ,
chính sách còn bất hợp lý, chưa tạo được động lực đủ mạnh để phát huy tiềm năng của
đội ngũ này.
Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt,
vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển giáo
dục 2001-2010 và chấn hưng đất nước”.
Từ nhận thức trên đây, tôi thấy vị trí, vai trò của giáo viên trong sự nghiệp giáo
dục, càng thấy hơn trách nhiệm xây dựng đội ngũ giáo viên “vừa hồng vừa chuyên” của
các nhà quản lý giáo dục. Từ đó, tôi thấy rõ hơn trách nhiệm xây dựng đội ngũ giáo
viên đạt chuẩn ở các trường phổ thông là việc làm cần thiết và phải làm ngay. Đó cũng
là mục tiêu hàng đầu của quản lý nhà nước.
Xuất phát từ những lý do khách quan và lý do chủ quan như đã phân tích ở trên,
tôi lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên trường phổ thông ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường
phổ thông ”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
a. Xác định cơ sở khoa học của việc quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo
viên trường phổ thông
b. Thực trạng của đội ngũ giáo viên trường phổ thông .
c. Những giải pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ GV trường phổ thông .

4. Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội
ngũ giáo viên trường phổ thông .
4. Phương pháp nghiên cứu
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
3
c. Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ (biểu bảng, sơ đồ).
PHẦN NỘI DUNG:
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CỦA TRƯỜNG PHỔ THÔNG .
1. Cơ sở khoa học của việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường phổ
thông
Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, ngành giáo dục Việt Nam đã
không ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, chúng ta đã có một hệ thống trường sư phạm đào tạo giáo viên mọi cấp,
từ Trung ương đến địa phương. Tỉ lệ giáo viên chuẩn ngày một cao hơn. Đội ngũ
giáo viên đó đã tạo nên thành tựu rực rỡ cho nền giáo dục XHCN Việt Nam. Vấn đề
đội ngũ giáo viên hiện nay là họ đã thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Ban
chấp hành Trung ương 2, Ngành giáo dục và đào tạo đã có nhiều biện pháp để nâng
cao chất lượng của đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên phổ thông nói riêng, đã
và đang không ngừng lớn mạnh về số lượng cũng như chất lượng.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây với cơ chế thị trường, bên cạnh những
mặt tích cực, đã gây nên những biến động lớn, làm đảo lộn nhiều bậc thang giá trị
trong xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Nguyên nhân của sự giảm sút này có
nhiều, trong đó vấn đề đội ngũ giáo viên là nguyên nhân quan trọng. Bởi một số giáo
viên còn có những biểu hiện chưa toàn tâm toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục, và
một số bộ phận không đủ điều kiện đảm nhận trách nhiệm người thầy. Sự phân bố
đội ngũ giảng dạy lại không đồng đều; nơi thừa, nơi thiếu, môn thừa, môn thiếu. Đời
sống cán bộ giáo viên cũng có sự phân bố sâu sắc. Trong lúc đó, đất nước ta trong

giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ giỏi về trình độ nhận thức, trình độ
chuyên môn, trình độ sư phạm, trình độ công nghệ thông tin, có năng lực, phẩm chất
đạo đức tốt.
Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục đã và đang có chính sách và những biện
pháp tích cực, cụ thể nhằm tháo gỡ những khó khăn của giáo dục nói chung và đội
ngũ giáo viên nói riêng, chuẩn bị cho sự đổi mới toàn diện giáo dục khi bước vào
thiên niên kỉ mới. Tuy nhiên, mọi chính sách, biện pháp dù tích cực đến mấy cũng
4
trở thành hình thức nếu bản thân đội ngũ giáo viên và mỗi giáo viên không ý thức
đầy đủ trách nhiệm khó khăn và cao cả của mình để tự đổi mới và tự vươn lên.
b) Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động chính trị xã
hội ở nước ta, đồng thời cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước của nước ta.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc Hiến định; Điều 6, Chương I, Hiến pháp
1992 (đã sửa đổi, bổ xung năm 2001) ghi nhận:
"Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ".
Quan điểm về tổ chức và hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân
chủ đã được Nhà nước CHXHCN Việt Nam ghi nhận trong ba văn bản Hiến pháp:
Hiến pháp 1959 (Điều 4, Chương I); Hiến pháp 1980 (Điều 6, Chương I); Hiến pháp
1992 (Điều 6, Chương I - sửa đổi).
* Những yêu cầu và nội dung của
nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung,
thống nhất của các cơ quan trung ương, của cấp trên với mở rộng dân chủ, nhằm tăng
cường tính chủ động, sáng tạo và khai thác mọi tiềm năng của các cơ quan địa phương,
của cấp dưới, đồng thời đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham
gia quản lý nhà nước và thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân.
Sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương cần tập trung vào các vấn đề vĩ mô như: thể

chế, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành cũng như toàn bộ nền
kinh tế, còn mở rộng dân chủ ở địa phương là phải có sự phân định rõ ràng về thẩm
quyền và trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền; tiến hành phân cấp quản lý cho địa
phương quản lý các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, đời sống, thu - chi ngân sách, tổ
chức nhân sự... ở địa phương; xác định rõ trách nhiệm quản lý theo ngành và theo lãnh
thổ.
Các cơ quan quyền lực nhà nước là do dân bầu ra, các cơ quan đó phải chịu trách
nhiệm, phải báo cáo công tác trước nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân. Các
cơ quan tư pháp, hành pháp tối cao là do Quốc hội lập ra, các cơ quan đó cũng phải
5
chịu sự giám sát của Quốc hội; phải chịu trách nhiệm và phải báo cáo công tác trước
Quốc hội.
Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải có sự qui định rõ ràng về các chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng loại cơ quan nhà nước, của từng chức danh công
chức, cán bộ. Phải có sự phân định rõ trách nhiệm tập thể của các cơ quan nhà nước và
trách nhiệm cá nhân của từng công chức, cán bộ. Phải xây dựng chế độ kết hợp giữa tập
thể lãnh đạo và cá nhân phục trách.
Quản lý nhà nước về giáo dục cũng tuân thủ nguyên tắc này. Dưới góc độ vĩ
mô nguyên tắc này có nghĩa là nhà nước thống nhất quản lí HTGDQD về mục tiêu,
chương trình, nội dung,... qui chế thi cử và hệ thống văn bằng (Luật Giáo dục 2005).
Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về QLGD cho địa phương và tạo điều kiện để cơ sở
phát huy chủ động và sáng tạo.
Nguyên tắc
tập trung dân chủ
quá quen thuộc đối với tất cả các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị, xã hội, các đơn vị sự nghiệp… ở Việt Nam.
Tuy nhiên để hiểu đúng và có thể vận dụng được nguyên tắc
tập trung dân chủ
trong hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục ở cơ sở cần suy nghĩ để trả lời câu
hỏi : Làm thế nào giải quyết tốt mối quan hệ giữa chế độ thủ trưởng và thực hiện dân

chủ cơ sở ở một trường học ?
Như vậy, nguyên tắc
tập trung dân chủ
đối với quản lí trường phổ thông có
nghĩa là nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo dục ; về
mục tiêu, nội dung giáo dục và qui chế văn bằng... đồng thời tạo điều kiện cho cơ sở
chủ động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động giáo dục và quản lí trường phổ
thông cụ thể, tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân cấp, phân quyền
về quản lí trường phổ thông rõ ràng bằng một hành lang pháp lí hợp lí, đồng bộ.
Đối với cơ sở phát huy quyền làm chủ của tập thể sư phạm, đồng thời đề cao
trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng đối với việc quản lí trường phổ thông .
Dân chủ hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà trường là các tư tưởng lớn, tuy nhiên việc
dựa vào các văn bản pháp luật, pháp qui để đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với mọi
đối tượng tham gia hoạt động giáo dục là điều cần nắm chắc khi triển khai nguyên
tắc tập trung dân chủ ở cơ sở.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy quyền chủ
động của Hiệu trưởng phối hợp với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội trong
quản lý trường phổ thông .
6
Sự phối hợp giữa Hiệu trưởng với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội
trong trường phổ thông hình thành nên hệ thống các mối quan hệ. Hệ thống quan hệ
này có nhiều mức độ.
Có thể chỉ tham gia ở mức độ góp phần vào một hoạt động, một tổ chức chung
nào đó, chưa thể hiện được chiều sâu trong việc làm.
Có thể cùng góp sức làm chung một công việc, nhưng có thể không thực hiện
chung một trách nhiệm. Sự cộng tác đôi khi có tính chất nhất thời, tuỳ từng vụ việc.
Sự hợp tác cùng chung sức, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc một lĩnh vực
hoạt động, nhằm một mục tiêu giáo dục (MTGD)
Tóm lại quan hệ đó là quan hệ phối hợp với nhiều mức độ khác nhau.
Quan hệ ấy cũng nhiều tầng, bậc do vai trò của từng lực lượng trong quan hệ

phối hợp.
. Hiệu trưởng phối hợp với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể trong trường
phổ thông nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, cụ thể là :
a) Quan hệ phối hợp trên cơ sở quy định của pháp luật
Để phát triển giáo dục nói chung và phát triển trường phổ thông nói riêng có
nhiều văn bản pháp luật quy định nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà trường và các tổ
chức đoàn thể.
- "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân;…. Giáo dục tiểu học
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh
tiếp tục học trung học cơ sở." (Điều 27 Luật Giáo dục).
- "Các đoàn thể nhân dân trước hết là Đoàn TNCS HCM, các tổ chức xã hội,
các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên,
thiếu niên, nhi đồng". "Đoàn TNCS HCM có trách nhiệm phối hợp với nhà trường
giáo dục thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, vận động thanh niên gương mẫu trong học
tập, rèn luyện tham gia sự nghiệp giáo dục".
Điều 22, Điều lệ trường phổ thông quy định: ”Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam và
đoàn thể trong trường
7
1. Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong trường tiểu học lãnh đạo nhà trường
và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ của Đảng.
2. Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh, Sao Nhi đồng Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội khác hoạt
động trong trường tiểu học theo quy định của pháp luật và Điều lệ của từng tổ chức
nhằm giúp nhà trường thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục”.
Như vậy, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây phải được
biểu hiện ở sự phối hợp giữa Chi bộ Đảng, chính quyền, Công đoàn, Đoàn TNCS

HCM trong trường phổ thông PT được các văn bản nhà nước quy định, là trách
nhiệm chung, sự thống nhất thực hiện MTGD.
Trong mối quan hệ phối hợp vì MTGD, Hiệu trưởng phải luôn luôn giữ vai trò
trung tâm, nòng cốt. Tuỳ theo nội dung hoạt động, đặc điểm của tổ chức đoàn thể làm
cơ sở để xác định mức độ phối hợp và xây dựng cơ chế phối hợp. Sự vận hành của cơ
chế được chỉ đạo bởi nguyên tắc Đảng lãnh đạo - Chính quyền quản lý - Nhân dân
làm chủ, toàn xã hội tham gia dưới sự quản lý của Nhà nước.
. Hiệu trưởng phối hợp với Công đoàn trong trường phổ thông PT
Quan hệ phối hợp giữa Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường phổ thông PT là
sự vận dụng mềm dẻo, có tính nguyên tắc về quyền, trách nhiệm của tổ chức công đoàn
với thủ trưởng đơn vị cơ quan.
- Quyền kiến nghị, tham gia ý kiến của Công đoàn đối với Hiệu trưởng trong
các hoạt động : Xây dựng chương trình kế hoạch năm học ; Dự hội nghị của trường
và các cuộc họp quan trọng do Hiệu trưởng tổ chức ; Giải quyết và sắp xếp việc làm
của cán bộ, giáo viên, nhân viên; Quản lý bảo hiểm xã hội ; Giải quyết khiếu nại, tố
cáo.....
- Quyền cùng thực hiện công việc của Công đoàn với Hiệu trưởng:
Tổ chức thi đua; Chăm lo công tác bảo hiểm xã hội; Quản lý quỹ phúc lợi;
Quyền thoả thuận quyết định của Công đoàn với Hiệu trưởng: Quy định mối quan hệ
giữa Hiệu trưởng với Công đoàn; Quyết định tiền lương, thưởng, nhà ở, kỷ luật;
Điều kiện làm việc cung cấp thông tin cho Công đoàn; Thời gian hoạt động, điều
kiện hoạt động của cán bộ Công đoàn.
- Quyền "đối thoại" giữa Công đoàn và Hiệu trưởng.
8
Đại diện người lao động đối thoại với Hiệu trưởng; Cấp phát tài chính, và
nhiều hoạt động khác.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, Công đoàn ngành Giáo dục đã phối hợp
với Bộ GD & ĐT tạo phát động bốn cuộc vận động : dân chủ hoá nhà trường, xã hội
hoá giáo dục, kỷ cương - tình thương - trách nhiệm và gia đình nhà giáo văn hóa.
Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường phổ thông PT phối hợp thực hiện bốn

cuộc vận động đó, trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của cấp trên và tình hình thực
tiễn của địa phương.
Như vậy mối quan hệ giữa Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường phổ thông
PT rất đa dạng và phong phú ở nhiều mức độ khác nhau. Hiệu quả của sự phối hợp
này phụ thuộc vào sự năng động, năng lực của Hiệu trưởng và Ban chấp hành Công
đoàn trong việc thực hiện các văn bản pháp quy và giải quyết tình hình thực tiễn
trong nhà trường.
. Hiệu trưởng phối hợp với Đoàn TNCS HCM
Đoàn TNCS HCM trong trường phổ thông là tổ chức gần Đảng nhất, là lực
lượng đông đảo trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Đoàn TNCS HCM có vị trí, vai trò đã được khẳng định trong Hiến pháp, trong
Luật Giáo dục và trong Điều lệ Đoàn. Đoàn có trách nhiệm phối hợp với Hiệu
trưởng về giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn có vai trò nòng cốt trong các tổ chức học sinh và
thanh niên trong các hoạt động giáo dục. Tổ chức quần chúng đông đảo này là đối
tượng giáo dục đồng thời cũng là chủ thể công tác giáo dục. Cho nên vai trò đảm bảo
hiệu quả chất lượng giáo dục thực sự đặt lên vai Đoàn Thanh niên. Trong sự phối
hợp giữa Hiệu trưởng và Đoàn TNCS HCM có rất nhiều hình thức phong phú về
công tác giáo dục trong nhà trường.
Đoàn TNCS HCM trong trường phổ thông có tiềm năng lớn tham gia công tác
giáo dục.
Đoàn Thanh niên cùng với Hiệu trưởng thực hiện các hoạt động ngay trong nhà
trường. Việc chỉ đạo hoạt động đoàn trong nhà trường phổ thông ực chất là việc chỉ
đạo học tập và tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường, kết hợp
với những chủ trương về giáo dục của bản thân Đoàn Thanh niên theo hướng chỉ đạo
của Ban nhà trường từ Trung ương Đoàn.
9
Đoàn còn hoạt động ngay trong tổ chức của những người dạy, vì không ít giáo
viên trẻ là đoàn viên thanh niên, cho nên chính đoàn viên là người học và người dạy
này sẽ góp phần quyết định chất lượng và hiệu quả của giáo dục.
Đoàn cùng với nhà trường tổ chức và thực hiện các hoạt động ngoại khoá

chương trình giáo dục ngoài nhà trường.
Các hoạt động ngoại khoá tuy gắn với từng bộ môn nhưng cần có sự hỗ trợ của
Đoàn, nhất là những hoạt động phù hợp với tính chất của lứa tuổi và chức năng của
Đoàn. Chương trình hoạt động giáo dục ngoài nhà trường xây dựng theo các chủ
điểm có sự phối hợp từ Trung ương (Bộ GD&-ĐT và Trung ương Đoàn TNCS
HCM). Đoàn có vai trò chủ động tổ chức hoạt động này.
- Đoàn thanh niên giữ vai trò chính trong các hoạt động thăm quan, du lịch, vui
chơi giải trí, thể dục thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ … Đoàn còn giữ vai trò nòng cốt
của nhiều chương trình xã hội trong nhà trường như phong trào "thanh niên lập
nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước" cuộc vận động lớn năm 2001 - 2002 " xã hội tình
nguyện vì trẻ em đặc biệt khó khăn" do Trung ương Đoàn phát động.
Để phát huy vai trò trách nhiệm của Đoàn TNCS HCM trong trường phổ thông
PT về công tác giáo dục cần phát triển tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh. Cho nên
ở những nơi, những lúc cần thiết chính Hiệu trưởng phải tham gia vào việc xây dựng,
củng cố Đoàn Thanh niên, nhất là đổi mới phương thức hoạt động của Đoàn tạo nên
tính đồng bộ trong việc đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục trong trường TH
Tóm lại, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy
quyền chủ động của cơ sở dựa trên hành lang pháp lí được qui định bởi Luật Giáo
dục và những văn bản pháp quy trong hoạt động quản lí giáo dục, đồng thời nâng
cao tinh thần cá nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và phát huy dân chủ của tập thể
theo qui chế dân chủ cơ sở do chính phủ và Bộ giáo dục ban hành. Muốn có nguyên
tắc tập trung dân chủ ở cơ sở, trong tổ chức điều hành công việc hàng ngày cần thực
hiện tốt chế độ thủ trưởng nhưng phải bảo đảm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
1.2. Tập thể sư phạm trong trường phổ thông
a. Khái niệm
Tập thể sư phạm trong trường phổ thông là tổ chức của tập thể lao động sư phạm,
đứng đầu là Hiệu trưởng. Tập thể sư phạm liên kết các giáo viên, cán bộ, nhân viên
thành một cộng đồng giáo dục có tổ chức, có mục đích giáo dục thống nhất, có
10
phương thức hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Đội ngũ

giáo viên là lực lượng chủ yếu, quan trọng nhất trong tập thể sư phạm nhà trường
làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, là người quyết định chất lượng
đào tạo trong nhà trường.
Tập thể sư phạm nhà trường đa dạng hoá về cơ cấu tổ chức, bao gồm Ban
giám hiệu, tổ chức Đảng, các tổ chuyên môn, tổ hành chính, Hội đồng trường, các
hội đồng khác và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường....
Giáo viên nhà trường phổ thông được tổ chức thành các tổ chuyên môn, theo
môn học, hoặc nhóm môn học, có tổ trưởng, tổ phó, do hiệu trưởng chỉ định và giao
nhiệm vụ: nhiệm vụ của họ là xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ, hướng dẫn xây
dựng và quản lý kế hoạch của từng giáo viên trong tổ theo kế hoạch dạy học, tổ chức
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức kiểm tra, đánh giá chất lượng thực hiện
nhiệm vụ của giáo viên, đề xuất khen thưởng hoặc kỷ luật đối với những giáo viên
có thành tích hoặc vi phạm kỷ luật. Tổ trưởng sử dụng các buổi sinh hoạt để thực
hiện nhiệm vụ quản lý của mình.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhà trường phổ thông được tổ chức
thành chi bộ - Chi bộ lãnh đạo nhà trường hoạt động theo điều lệ Đảng trong khuôn
khổ hiến pháp và pháp luật.
Cơ cấu tổ chức trong nhà trường phổ thông
Chi bộ Đảng
11
Tổ chuyên môn
Các tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban nữ công là những
tổ chức chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Giáo dục,
Điều lệ trường phổ thông , Điều lệ Công đoàn, Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh nhằm phối hợp với nhà trường phổ thông ực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo
dục .
Mỗi tổ chức tập thể trong nhà trường phổ thông đều có chức năng, nhiệm vụ cụ thể
và có một sức mạnh riêng. Người quản lý có nhiệm vụ khai thác tiềm năng của tổ chức
đó để tạo nên sức mạnh tổng hợp của từng tập thể sư phạm trong nhà trường.
b. Đặc điểm về lao động sư phạm:

Lao động của giáo viên là loại hình lao động đặc thù, đối tượng lao động sư phạm trường
phổ thông là học sinh lứa tuổi từ 06 đến 11 tuổi; lứa tuổi có sự phát triển cao về tâm lý,
sinh lý. Học sinh có nhu cầu cao về trí tuệ và tình cảm với người thầy. Phương tiện lao
động cũng rất đặc thù. Đó là nhân cách của người thầy cùng các thiết bị dạy học, trong đó
nhân cách người thầy đóng vai trò quan trọng nhất. Thời gian lao động sư phạm không
chỉ đảm bảo được quy định trong chương trình đào tạo và chế độ lao động sư phạm
không chỉ đảm bảo được quy định trong chương trình đào tạo và chế độ lao động mà cần
mang tính năng động, sáng tạo, cộng với say mê nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm
trước thế hệ trẻ và trước toàn xã hội.
Sản phẩm của lao động sư phạm là những nhân cách phát triển toàn diện, đạt được
mục tiêu giáo dục của nhà trường. Nghĩa là sản phẩm đó không được quyền có phế phẩm.
Học sinh TH phải thoả mãn được những nhu cầu của bản thân, gia đình và xã hội. Lao
động sư phạm của người giáo viên vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật và
tính nhân đạo cao. Nó mang đặc thù của nghề sư phạm, đồng thời có tính liên kết công
tác, phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Bời vì sự hình thành
và phát triển nhân cách của người học sinh cũng như sự chi phối của "Tổng hoà các mỗi
quan hệ xã hội" trong đó tạp thể sư phạm nhà trường là lực lượng giáo dục chuyên biệt có
hệ thống, thường xuyên và cơ bản nhất.
Các yếu tố tâm lý xã hội của tập thể sư phạm: quá trình tâm lý xã hội của một tập thể
sư phạm thường biểu hiện ở sự giao tiếp thích nghi, tìm hiểu, đánh giá, cảm hoá, thuyết
phục, bắc chước, lan truyền cảm xúc cho nhau. Sự chia rẽ, xung đột cũng có thể xảy ra
trong quá trình tâm lý của tập thể sư phạm. Trong quá trình đó, mối quan hệ thường tập
trung vào Ban lãnh đạo của tập thể sư phạm.
Công đoàn
Ban giám hiệu
Hội đồng trường
Đoàn, Đội, (Sao
Nhi đồng,...)
Hội đồng thi đua
khen thưởng,

Hội đồng kỉ luật
Ban đại diện Cha
mẹ HS
12
Ban giám hiệu, Chi bộ Đảng, Ban chấp hành Công đoàn. Ban chấp hành Đoàn
trường bao giờ cũng có tác động thúc đẩy hay kìm hãm các quá trình tâm lý xã hội của
tập thể sư phạm. Các thuộc tính của tập thể sư phạm bao gồm tất cả các đặc điểm về đời
sống tinh thần, về trạng thái tâm lý xã hội của tập thể. Đó là nhu cầu về lợi ích chung của
tập thể là những nét nổi bật về truyền thống, kỷ cương, nề nếp của tập thể. Khi các thuộc
tính này được khơi dậy và phát huy thì sẽ trở thành động lực và sức mạnh tinh thần của
tập thể.
Giá trị của tập thể sư phạm mang ý nghĩa xã hội to lớn của tập thể sư phạm, đó là
nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, những công dân tương lai của đất nước. Có thể nói tập thể
sư phạm góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, họ xứng đáng được xã hội tôn vinh.
2. Cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý:
- Nghị quyết BCH Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: "Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo
động lực cho người dạy, người học, giáo viên là nhân tố quyết định, là lực lượng cốt cán
để biến mục tiêu giáo dục thành hiện thực, có vai trò quyết định về chất lượng, quyết định
về hiệu quả giáo dục".
- Chỉ thị số 40- CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010 " đã ghi nhận mục tiêu của việc xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai
đoạn 2005 – 2010 là:
“Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hoá,
nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ
chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.

- Để thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo, Điều 15, Luật Giáo dục năm 2005 nhấn
mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà giáo : "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc
bảo đảm chất lượng GD.
Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học.
Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi ngộ, bảo
đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò và trách
13
nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy
học ".
Điều 27, Luật Giáo dục năm 2005 còn nhấn mạnh : “Mục tiêu của GD phổ thông
1. Mục tiêu của GD phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động
và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 28, Luật Giáo dục năm 2005 nhấn mạnh : “Yêu cầu về nội dung, phương pháp
GD phổ thông
1. Nội dung GD phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông , cơ bản, toàn diện, hướng
nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của
học sinh, đáp ứng mục tiêu GD ở mỗi cấp học.
2. Phương pháp GD phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg, ngày 11 tháng 01 năm 2005, về việc
phê duyệt Đề án"Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010"; Quyết định số 09 cũng đã ghi
nhận mục tiêu, các nhiệm vụ chủ yếu, các giải pháp của việc xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 –
2010. Trong đó các nhiệm vụ chủ yếu mà Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg

nhấn mạnh là:
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo thuộc các cơ sở giáo dục và dạy
nghề công lập và ngoài công lập, bảo đảm đến năm 2010 đáp ứng đủ về số lượng, trong
đó có 80% giáo viên bậc mầm non, 100% giáo viên các cấp, bậc học phổ thông , dạy
nghề đạt chuẩn đào tạo theo quy định;
- Củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống các trường, khoa sư phạm, các trường cán
bộ quản lý giáo dục; đẩy mạnh việc xây dựng các trường Đại học Sư phạm trọng điểm.
- Thực hiện đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng trong các trường, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng sư phạm theo hướng hiện đại và
14
phù hợp với thực tiễn Việt Nam, trong đó chú trọng đổi mới phương pháp giáo dục, đào
tạo, bồi dưỡng, gắn với nội dung đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông .
- Triển khai có hệ thống và chuẩn hoá công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên các
trường đại học, cao đẳng và giáo viên các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề; bảo
đảm cho các nhà giáo được bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm theo quy định của Luật Giáo
dục; nội dung, chương trình phương pháp đào tạo phải phù hợp với yêu cầu của từng bậc
học.
- Đổi mới công tác quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng nâng cao
chất lượng, hiệu quả; quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các ngành, các
cơ quan quản lý giáo dục và các ngành có liên quan.
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thanh tra chuyên môn. Hiện đại
hoá và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống quản lý giáo dục.
- Tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và thực hiện chính sách ưu đãi đối với nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục; khuyến khích đội ngũ nhà giáo nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và đẩy mạnh sự gắn kết chặt chẽ giảng dạy với nghiên cứu khoa học; đổi
mới công tác quản lý, sử dụng và giao biên chế ngành giáo dục nhằm nâng cao quyền và
trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo, tạo sự bình đẳng giữa các loại hình cơ sở giáo dục và
đào tạo.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục.

Ngoài ra, còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác về việc xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục của nhà nước
như :
- Chỉ thị số 18 ngày 27/08/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cấp
bách xây dựng đội ngũ nhà giáo.
- Chỉ thị số 16/1999/CT-BGD&ĐT về vấn đề bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý
GD&ĐT trong các dịp nghỉ hè.
- Chỉ thị năm học của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT và hướng dẫn nhiệm vụ năm học,.....
3. Cơ sở thực tiễn :
Nghị quyết BCH Trung ương 2 của Đảng CSVN về giáo dục và đào tạo đã có
nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Có thể nói rằng: trong
15
những năm qua, đội ngũ giáo viên phổ thông không những lớn mạnh về số lượng
cũng như về chất lượng, trình độ chuẩn ngày một nâng cao.
Tuy nhiên trên thực tế, đội ngũ giáo viên vẫn còn trong tình trạng chưa đủ về
số lượng, yếu về chất lượng, thiếu đồng bộ về cơ cấu.
Nhưng vấn đề đáng lo ngại nhất là chất lượng đích thực của đội ngũ giáo viên.
Có thể thấy trình độ chuyên môn còn yếu, ít am hiểu các kiến thức về cuộc sống và
khoa học cơ bản. Nhiều giáo viên không những hạn chế về kiến thức mà còn thiếu
một cái "Tâm" về giáo dục. Một bộ phận giáo viên có trình độ chuyên môn tốt
nhưng chỉ lo dạy thêm, chạy sô kiếm tiền.
Trong số giáo viên này, họ nói thực rằng: "Vấn đề đáng quan tâm là kiếm
được bao nhiều tiền, dạy được bao nhiêu lớp" mà không biết, vì thế mà uy tín của rất
kém về ý thức phấn đấu, không chịu tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn mà chú tâm vào những việc vặt vãnh, tầm thường. Thái độ thường trực
của những giáo viên này là mệt mỏi, bàng quan với những công việc của chính
mình, công việc trên lớp thì qua loa, chiếu lệ.
Ngoài ra còn một số rào cản, ảnh hưởng không nhỏ đến động lực trong mỗi
giáo viên, không kích thích, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Đó là công tác
bổ nhiệm cán bộ, công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra đánh giá giáo viên, công tác

thi đua khen thưởng, công tác đánh giá học sinh. Một số cán bộ quản lý có thái độ
bình quân chủ nghĩa, không chịu phấn đấu nên trình độ chuyên môn và trình độ quản
lý tụt hậu và các xa với thực tế giáo dục.
Công tác thanh tra, kiểm tra còn nặng về hình thức; kết quả thanh, kiểm tra
mang rõ tính chất đối phó, ít phản ánh được chất lượng đích thực của một cá nhân
hay một đơn vị. Rõ ràng việc làm này không thúc đẩy được chất lượng giáo dục. Về
vấn đề thi giáo viên giỏi chỉ căn cứ một số mặt như: giáo án, một số giờ lên lớp,
sáng kiến kinh nghiệm mà không căn cứ vào quá trình giáo dục của giáo viên và chất
lượng mà giáo viên phụ trách. Nếu việc đánh giá của ta không dựa trên kết quả thực
tiễn và bằng những tiêu chuẩn khách quan, công bằng thì sẽ dẫn tới việc không đánh
giá đích thực của chất lượng giáo dục, người dạy không dám "Dũng cảm" đưa ra
những phương pháp giáo dục mới và cũng không còn hào hứng việc tìm tòi, đào sâu
suy nghĩ để nâng cao chất lượng giáo dục.
Nói tóm lại: để có một đội ngũ cán bộ giáo viên vững mạnh, đáp ứng được
nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay thì ngoài việc bồi thường nâng cao chất lượng đội
16
ngũ giáo viên mà còn phải phá bỏ những rào cản trong quản lý, cũng như chế độ,
chính sách hợp lý.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Những thành tựu chung
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đến cuối năm học 2002-2003, cả
nước có khoảng 911.000 nhà giáo đang đảm nhận nhiệm vụ giảng dạy cho trên 22 triệu
học sinh, sinh viên ở tất cả các cấp học, bậc học và trình độ đào tạo. Đại bộ phận nhà
giáo có đạo đức tốt, tận tuỵ với nghề, có tinh thần trách nhiệm và ý thức phấn đấu,
thường xuyên tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để giảng dạy tốt, nêu gương tốt cho
học sinh, sinh viên noi theo. ý thức phấn đấu rèn luyện về chính trị tư tưởng của đội
ngũ nhà giáo đã có tiến bộ đáng kể, nhiều người được kết nạp và đảng, đến nay đã có
khoảng 23% là đảng viên.

Hệ thống các trường đào tạo giáo viên, quy mô đào tạo giáo viên ở các cấp học, bậc
học, các địa phương được mở rộng. Chất lượng đào tạo giáo viên đang dần được nâng
cao. Công tác bồi dưỡng giáo viên được thực hiện thường xuyên và định kỳ, nhiều
người được cử đi học ở trong nước và nước ngoài để nâng cao trình độ. Hiện nay tỷ lệ
giáo viên đạt chuẩn ở các bậc học là: mầm non 54,5%; tiểu học 87,5%; trung học cơ sở
(THCS) 91,5%; trung học phổ thông (THPT) 95,35%; dạy nghề 71%; trung học
chuyên nghiệp (THCN) 85,17%. Bậc đại học và sau đại học đã có 1.654 giáo sư và phó
giáo sư, 5.743 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 10.599 thạc sĩ và 571 chuyên khoa cấp I,II.
Những năm gần đây, nhiều chế độ chính sách ưu đãi nhà giáo đã được thể chế hoá.
Nhờ đó, nhiều tỉnh đã giải quyết được một phần đáng kể tình trạng thiếu giáo viên, giáo
viên yếu kém. Chính sách miễn học phí cho các học sinh, sinh viên sư phạm đã tạo một
buớc chuyển biến rõ rệt chất lượng đầu vào của các trường sư phạm các cấp. Số giảng
viên trẻ được cử đi đào tạo sau đại học ở trong nước và nước ngoài ngày càng nhiều
đang góp phần khắc phục tình trạng hẫng hụt về trình độ đội ngũ giảng viên các trường
cao đẳng, đại học (CĐ, ĐH).
Đội ngũ CBQLGD hiện có khoảng 10.400 người ở cấp bộ, sở, phòng và có khoảng
80.000 người ở các trường học, chiếm 10% tổng số cán bộ công chức và viên chức toàn
ngành. Đội ngũ CBQLGD đã từng bước được hoàn chỉnh về cơ cấu và nghiệp vụ; nói
17
chung có ý thức chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn
và kinh nghiệm quản lý; đã và đang là lực lượng nòng cốt thực hiện các chủ trương, công
tác của ngành, của địa phương và nhà trường. Cơ chế tuyển chọn, quy trình, thủ tục bổ
nhiệm CBQLGD từng bước được hoàn thiện và được các cấp có thẩm quyền thực hiện
nghiêm túc. Nhìn chung, phần lớn CBQLGD được bố trí, sử dụng đúng chuyên môn, sở
trường, do đó đã tạo điều kiện để họ phát huy khả năng của bản thân.
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004, Ban Bí thư Trung ương đã đánh giá:
"Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đọi ngũ NG& CBQLGD ngày càng đông
đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ ngày càng được nâng cao. Đội ngũ này đã đáp ứng quan trọng yêu cầu nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách

mạng của đất nước."
2. Những yếu kém và bất cập
2.1. Về số lượng và cơ cấu
Hiện nay, Ngành GD&ĐT vẫn còn thiếu nhiều giáo viên, đặc biệt là ở các vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và giáo viên các môn đặc thù như thể dục, mỹ
thuật, âm nhạc, giáo dục quốc phòng, giáo dục công dân, tin học. Cả nước còn thiếu
khoảng 65.000 giáo viên mầm non và phổ thông, 15.500 giáo viên các trường dạy nghề,
THCN và giảng viên CĐ,ĐH, nhưng lại có hiện tượng thừa cục bộ. Trong khi đó một số
lượng giáo sinh ra trường hiện chưa có việc làm hoặc làm nghề khác vì thiếu biên chế
hoặc không muốn xa thành phố, thị xã. Ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ giáo
viên người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khoảng 5,7%.
Bên cạnh tình trạng thiếu giáo viên, cơ cấu đội ngũ cũng đang mất cân đối giữa các
môn học, các vùng miền.
Về nội dung này, Chỉ thị số 40-CT/ TW của Ban Bí thư Trung ương đánh giá: " Tuy
nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, đội ngũ NG&CBQLGD có những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo
viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số... Cơ cấu giáo viên đang mất cân đối giữa các môn học, bậc học, các vùng, miền."
2.2. Về chất lượng
Chất lượng chuyên môn của đội ngũ nhà giáo chưa có chuyển biến đáng kể; việc giải
quyết mối tương quan giữa dạy chữ, dạy người và dạy nghề còn chưa hợp lý (còn nặng
về dạy chữ, nhẹ về dạy người, dạy nghề); đặc biệt còn yếu về phương pháp giảng dạy;
18
chậm được bổ sung, cập nhật các tri thức mới về sư phạm, khoa học-công nghệ, ngoại
ngữ ... Vẫn còn một số lượng đáng kể giáo viên mầm non, phổ thông , THCN và dạy
nghề chưa đạt chuẩn đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục, đặc biệt là ở các vùng có
điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Một bộ phận NG&CBQLGD chưa toàn tâm, toàn ý
phục vụ sự nghiệp giáo dục; thiếu tính gương mẫu về đạo đức và lối sống, cá biệt có
người còn vi phạm pháp luật, làm giảm sút uy tín của NG&CBQLGD trước con mắt xã
hội.

Chỉ thị số 40-CT/TW đã đánh giá: "Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà
giáo có mặt chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và phát triển kinh tế-xã hội, đa số
vẫn dạy theo lối cũ, nặng về truyền đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát triển tư duy, năng lực
sáng tạo, kỹ năng thực hành của người học; một bộ phận nhà giáo thiếu gương mẩu
trong đạo đức, lối sống, nhân cách, chưa làm gương tốt cho học sinh, sinh viên.."
2.3. Công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên chưa theo kịp với những đổi mới
của giáo dục phổ thông . Chất lượng và hiệu quả công tác bồi dưỡng giáo viên còn
thấp. Chương trình, hình thức bồi dưỡng chưa đáp ứng yêu cầu, chậm được đổi mới.
Phương pháp bồi dưỡng vẫn chưa chú trọng phát huy tính chủ động, tích cực của người
học. Đội ngũ báo cáo viên còn nhiều bất cập. Tài liệu bồi dưỡng còn nghèo nàn, chưa
kịp thời. Kiểm tra, đánh giá nhiều khi còn mang tính hình thức.
Việc thực hiện quy hoạch hệ thống các trường sư phạm và xây dựng hai trường ĐH sư
phạm trọng điểm còn quá chậm chạp.
2.4. Năng lực của đội ngũ CBQLGD chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển
của sự nghiệp giáo dục. Tính chuyên nghiệp chưa cao; nhận thức về nội dung và
phương pháp quản lý nhà nước, quản lý chuyên môn nghiệp vụ GD&ĐT còn yếu. Còn
những biểu hiện tiêu cực như buông lỏng quản lý, chạy theo thành tích, thiếu kiên quyết
chặn đứng các tiêu cực trong ngành đã được Đảng, Nhà nước nhắc nhở nhiều lần. Riêng
đối với CBQLNN về giáo dục (Trung ương, tỉnh, huyện) có nhiều mặt yếu kém đáng
quan tâm như tinh thần trách nhiệm trong hoạt động công vụ chưa cao, kỷ luật chưa
nghiêm, mất đoàn kết kéo dài. Công tác quy hoạch, kế hoạch chưa được quan tâm, việc
xây dựng chính sách thanh tra, kiểm tra còn nhiều bất cập.
2.5. Cơ chế tuyển dụng, bố trí, sử dụng, đãi ngộ, đánh giá, sàng lọc và chế độ
chính sách đối với NG&CBQLGD còn có phần bất hợp lý, chưa tạo được động lực đủ
mạnh để phát huy phẩm chất và năng lực của đội ngũ, nâng cao hiệu quả sử dụng, khắc
phục hạn chế, yếu kém.
19
3. NGUYÊN NHÂN
3.1. Về mặt chủ quan, trình độ quản lý của ngành giáo dục chưa theo kịp thực tiễn và nhu
cầu phát triển đội ngũ NG&CBQLGD trong quy trình đổi mới sự nghiệp giáo dục. Chậm

tham mưu, đề xuất và định ra các chiến lược và giải pháp đúng đắn để xử lý mối tương
quan giữa số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong đội ngũ NG&CBQLGD vẫn chưa thực
sự được coi trọng, còn đơn điệu, ít hiệu quả. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
làm chưa thường xuyên, chưa kịp thời.
Chế độ công tác, định mức lao động của NG&CBQLGD còn bất cập (quy định tỷ
lệ giáo viên/lớp ở từng cấp học chưa phù hợp với số lượng môn học hiện có, chế độ làm
việc 40 giờ/tuần và việc tổ chức học 2 buổi/ngày vv...); đã có một số chính sách mới
được ban hành, nhưng vẫn chưa đầy đủ và có chỗ còn chưa hợp lý.
Cơ chế tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, đánh giá, sàng lọc NG& CBQLGD chưa
phát huy được vai trò chủ động của cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý giáo dục. Việc
xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng, quản lý hoạt động của nhà
giáo và CBQLGD còn chậm, thiếu đồng bộ. Việc xây dựng chuẩn giáo viên, chuẩn
CBQLGD nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục chưa được triển khai kịp thời.
3.2. Về mặt khách quan, mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu mở rộng quy mô đồng thời với
nâng cao chất lượng giáo dục và sự hạn chế về khả năng, điều kiện đáp ứng vẫn chưa
được giải quyết. Ngân sách nhà nước cho giáo dục mặc dù đã tăng trong những năm
gần đây, song vẫn không đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng NG&CBQLGD (hiện
nước ta mới đạt mức chi bình quân cho giáo dục là 13 USD/người/năm; trong khi đó
con số này của các nước trong khu vực là: Philipine 41 USD/người/năm; Thái Lan 105
USD/người/năm; Malaysia 251 USD/người/năm; Singapore 854 USD/người/năm).
Những yếu tố tiêu cực thuộc mặt trái của cơ chế thị trường đã có tác động không nhỏ
đến tâm tư, nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận NG&CBQLGD. Có nơi, có lúc cấp uỷ
và chính quyền còn chưa quan tâm đúng mức tới việc lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng đội
ngũ NG&CBQLGD.
Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường xây dựng đội ngũ NG & CBQLGD một cách
toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược
lâu dài, nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chấn
hưng đất nước.
20

d. Một số vấn đề đặt ra trong việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ
trong quản lý trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
trường phổ thông
Trên cơ sở xác định cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn, qua phân tích thực
trạng đội ngũ giáo viên trường phổ thông Nam Sơn, có thể thấy 4 vấn đề quan trọng
đặt ra cần phải tăng cường bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đó là:
- Tăng cường nâng cao tâm hồn, kiến thức, phương pháp sư phạm của người
thầy.
- Tăng cường nâng cao năng lực sư phạm
- Tăng cường nâng cao năng lực chuyên môn
- Tăng cường nâng cao năng lực sử dụng công nghệ thông tin.
- Tăng cường nâng cao năng lực công tác xã hội hóa giáo dục.
Năm vấn đề trên sẽ được giải quyết trong nội dung của chương III.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
TRONG QUẢN LÝ TRƯỜNG PHỔ THÔNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Mục đích của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý trường
phổ thông nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, phát huy sức mạnh tổng hợp
của tập thể, nâng cao chất lượng đội ngũ để thực hiện tốt nhất mục tiêu của nhà trường.
Đó là việc liên kết các giáo dục, nhân viên trong trường phổ thông ành một tập thể có
kỷ cương, nề nếp, đoàn kết thống nhất, có truyền thống tốt đẹp, có bầu không khí tâm lý
thuận lợi. Trong tập thể, mỗi người đều nhận thức rõ nhiệm vụ và quyền hạn của mình,
đều cảm thấy mình có điều kiện tốt nhất để hoạt động sáng tạo, cảm thấy hài lòng và
gắn bó vói nhà trường, từ đó phát huy tính năng động, sáng tạo, hiệu quả trong giảng
dạy và giáo dục. Một tập thể giáo viên như vậy sẽ là môi trường xã hội tốt đẹp cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong nhà trường.
Để thực hiện mục tiêu đó, Hiệu trưởng nhà truong cần thực hiện các biện pháp
cơ bản sau đây :
21

1. Thực hiện tốt vai trò quản lý nhà trường của Hiệu trưởng, kết hợp chặt chẽ việc
phát huy quyền tự chủ với thực hiện dân chủ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên
1.1. Thực hiện tốt vai trò quản lý nhà trường của Hiệu trưởng.
Nhà trường tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò
tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân và tinh thần chủ động, sáng tạo của Hiệu trưởng,
Phó Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Hiệu trưởng đại diện cho nhà trường về mặt pháp lý, có trách nhiệm và thẩm
quyền cao nhất về hành chính và chuyên môn trong nhà trường. Vì vậy, Hiệu trưởng có
vai trò quan trọng trong việc quyết định kết quả phấn đấu của toàn trường, nhiệm vụ
của nhà trường, chất lượng giáo dục của nhà trường, sự đoàn kết của tập thể sư phạm;
các mặt đó có hoàn thành tốt hay không phần lớn tuỳ thuộc vào năng lực và phẩm chất
cá nhân của Hiệu trưởng.
Để tổ chức thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật, thực hiện tốt các quy định
của Luật Giáo dục, Điều lệ Trường trung học và các văn bản liên quan, Hiệu trưởng cần
thực hiện tốt vai trò quản lý nhà trường của mình và kết hợp đúng đắn chế độ thủ
trưởng và chế độ tập thể thông qua việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
nhà trường. Vai trò quản lý điều hành các hoạt động trong nhà trường của Hiệu trưởng
được thể hiện thông qua việc thực hiện tốt các quy định ở khoản 1, Điều 17, Điều lệ
Trường trung học và điều 4, Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường;
trong đó nhấn mạnh đến trách nhiệm của Hiệu trưởng là phải thực hiện Quy chế thực
hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường và nguyên tắc tập trung dân chủ trong
quản lý trường học.
Hiệu trưởng thực hiện quản lý tập trung theo chế độ thủ trưởng, đề cao trách
nhiệm cá nhân của Hiệu trưởng, nhưng phải trên cơ sở phát huy dân chủ, mặt khác dân
chủ phải gắn liền với tập trung nghĩa là phải kết hợp giữa quyền quản lý tập trung của
Hiệu trưởng với phát huy dân chủ, đảm bảo cho đội ngũ giáo viên và nhân viên tham
gia quản lý nhà trường; Có làm được như vậy mới tạo điều kiện tốt cho việc nâng cao
chất lượng công tác giáo dục pháp luật, nâng cao hiệu lực thực hiện các văn bản pháp
luật về giáo dục và đào tạo của nhà trường.

Các Hội đồng trường, Hội đồng thi đua khen thưởng, Hội đồng kỷ luật làm việc
theo chế độ tập thể; trong đó, Hội đồng giáo dục là tổ chức tư vấn cho Hiệu trưởng
22
trong việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, do Hiệu trưởng thành
lập và làm Chủ tịch.
Dân chủ trong quản lý nhà trường chính là việc Hiệu trưởng phải tạo điều kiện để
mọi thành viên trong trường phổ thông am gia quản lý, giúp họ có quyền được thông
tin, được tham gia thảo luận, phê bình, góp ý kiến, chất vấn, quyền được giám sát, kiểm
tra hoạt động của nhà trường.
Chế độ thủ trưởng thể hiện ở chỗ: Nhà nước trao quyền quyết định cao nhất trong
nhà trường cho Hiệu trưởng, người đứng đầu trường trung học phổ thông để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ quản lý, điều hành các hoạt động trong nhà trường. Hiệu trưởng
phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với các quyết định và kết quả hoạt động giáo dục của
trường. Vì vậy, trong quản lý nhà trường Hiệu trưởng cần giải quyết tốt mối quan hệ
giữa chế độ thủ trưởng với nguyên tắc tập trung dân chủ để thực hiện tốt các nhiệm vụ
được giao. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ của nhà trường, Hiệu trưởng cần phải được
bồi dưỡng về lý luận, nghiệp vụ quản lý giáo dục, kiến thức, kỹ năng quản lý hành
chính nhà nước. Đó chính là điều kiện cần thiết để Hiệu trưởng nâng cao trình độ, năng
lực quản lý, tạo được sự tin cậy và ủng hộ của tập thể giáo viên, nhân viên, học sinh
trong trường.
Muốn thực hiện tốt chức năng quản lý nhà trường và thực hiện nghiêm chỉnh các
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hiệu trưởng trường trung học phổ thông cần phải làm
tốt các hoạt động sau: tổ chức, điều hành các hoạt động giáo dục trong nhà trường, tổ
chức tốt việc thực hiện các chủ trương chính sách giáo dục, mà cụ thể là thực hiện các
mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục và các quy chế thi cử, nhiệm vụ của năm học:
quản lý đội ngũ giáo viên, nhân viên, học sinh, cơ sở vật chất thiết bị tài chính... theo
các quy định pháp luật của Nhà nước.
1.2. Kết hợp nhuần nhuyễn việc phát huy quyền tự chủ với thực hiện dân chủ trong
quản lý nhà trường.
Trên cơ sở Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 25 tháng 4 năm

2006, nhà trường phổ thông ực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Trong đó có quyền quyết định trong
quản lý, điều hành các hoạt động của trường trung học phổ thông , hoạt động đó đòi hỏi
phải phát huy quyền làm chủ của tập thể giáo viên, nhân viên, học sinh để khai thác mọi
tiềm năng, sự hỗ trợ về tài chính, cơ sở vật chất, sự động viên tinh thần của địa phương
cho hoạt động giáo dục của nhà trường, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh ở địa phương.
23
Muốn phát huy quyền tự chủ, quản lý nhà trường có hiệu quả, nâng cao chất
lượng dạy học mà vẫn tránh được khuynh hướng quan liêu, độc đoán, người Hiệu
trưởng cần thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường.
Như vậy, phát huy quyền tự chủ của nhà trường, đề cao trách nhiệm cá nhân của
Hiệu trưởng phải gắn liền với thực hiện dân chủ trong sinh hoạt của cán bộ, giáo viên.
Đây là những vấn đề có quan hệ hữu cơ với nhau: thực hiện tự chủ, đề cao trách nhiệm
cá nhân là điều kiện để tổ chức, thực hiện dân chủ, để tạo cơ sở giúp nhà trường vừa
thực hiện quyền dân chủ vừa đòi hỏi Hiệu trưởng phải đề cao trách nhiệm cá nhân.
Trong nhà trường, toàn thể giáo viên, nhân viên, học sinh thực hiện quyền dân chủ
dưới hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện theo phương châm "dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra ".
Dân chủ trực tiếp trong nhà trường là hình thức thể hiện trực tiếp ý chí của giáo
viên, nhân viên, học sinh về một số vấn đề cơ bản trong trường (theo các quy định trong
Quy chế dân chủ nhà trường). Hiệu trưởng đóng vai trò tổ chức và đảm bảo các điều
kiện để thực hiện ý chí đó, đưa nó vào thực thi trong cuộc sống; Các điều kiện đó là:
Đảm bảo thông tin đầy đủ cho giáo viên, nhân viên biết về các vấn đề cần quyết định; tổ
chức cho đội ngũ được bàn bạc, phát biểu ý kiến.
Hình thức dân chủ trực tiếp trong nhà trường được thực hiện thông qua Đại hội cán
bộ công chức, thông qua việc Hiệu trưởng tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp giữa
Hiệu trưởng, lãnh đạo nhà trường với tập thể cán bộ, giáo viên, học sinh; thông qua
công tác tiếp dân, tổ chức hội nghị cán bộ, công chức định kì của Hiệu trưởng, Bí thư
chi bộ, thông qua hội thảo giữa nhà trường với ban đại diện cha mẹ học sinh.

Dân chủ đại diện trong nhà trường còn là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp
của chủ thể quyền lực, mà thông qua các đại diện có thẩm quyền do chủ thể bầu ra
(Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ), chủ thể
quyền lực có quyền được giám sát, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đại diện của
mình.
Các tổ chức đại diện trong nhà trường có trách nhiệm sau:
+ Phối hợp với nhà trường trong việc tổ chức thực hiện Điều lệ Trường trung học
và các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo, trong các hoạt động khác
của nhà trường.
24
+ Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức, đoàn thể trong trường, dân chủ
bàn bạc góp ý kiến ở các chủ trương, biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ của
nhà trường.
+ Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm giám sát, kiểm tra việc thực hiện Điều lệ
Trường trung học và văn bản khác của Nhà nước đối với nhà trường, phát hiện các vi
phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật lao động trong nhà trường để đề nghị Hiệu trưởng và
các cấp có thẩm quyền giải quyết.
Nhà trường phát huy quyền tự chủ và thực hiện chế độ dân chủ trong việc xây
dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và nhiệm vụ năm học. Hiệu trưởng có thể
chủ động xây dựng các kế hoạch của nhà trường trong năm học trên cơ sở: Luật Giáo
dục, Điều lệ trường trung học; Nhiệm vụ của năm học và văn bản khác của Nhà nước
đối với nhà trường.
Để xây dựng các kế hoạch này, sau bước dự thảo kế hoạch, Hiệu trưởng phải tổ chức
lấy ý kiến tham gia đóng góp của tất cả các tổ chức bộ phận, cá nhân trong nhà trường.
Cuối cùng, Hiệu trưởng mới chính thức quyết định. Các kế hoạch của nhà trường trong
năm học gồm: Kế hoạch chung của năm học, kế hoạch tuyển sinh, kế hoạch giảng dạy
và giáo dục, kế hoạch mua sắm trang thiết bị dạy học.
Phát huy quyền tự chủ và thực hiện chế độ dân chủ trong việc xây dựng, quản lý
đội ngũ cán bộ, giáo viên; đây là yếu tố tiên quyết góp phần tạo ra động lực của sự phát
triển nhà trường. Đội ngũ giáo viên, nhân viên trong trường trung học phổ thông là lực

lượng chủ chốt, quyết định chất lượng giáo dục của nhà trường. Sự thành bại của một
nhà trường chủ yếu phụ thuộc vào cán bộ quản lý và giáo viên của trường.
Muốn nâng cao chất lượng giáo dục trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ;
muốn vậy, Hiệu trưởng phải tạo ra được động lực để phát huy năng lực, sở trường của
từng cán bộ, giáo viên ông qua hoạt động cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của đội
ngũ, nhân viên; việc thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đãi ngộ của Nhà
nước đối với cán bộ, giáo viên, đảm bảo các quyền lợi chính đáng của đội ngũ cán bộ,
giáo viên.
Để xây dựng và quản lý tốt đội ngũ cán bộ giáo viên, Hiệu trưởng cần phải có một
số biện pháp quản lý cụ thể như:
+ Xây dựng một bộ máy nhà trường hợp lý, gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, từng cá nhân trong nhà trường.
25

×