Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

giải pháp và kiến nghị hoàn thiện công tác QTRR trong bảo hiểm xe cơ giới tại công ty Bảo hiểm PVI Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.86 KB, 60 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và rèn luyện tại khoa Quản trị doanh
nghiệp, trường Đại học Thương Mại, bản thân em luôn được đón nhận sự
quan tâm, dạy bảo tận tình của các thầy, cô trong khoa. Em đã được nghiên
cứu, được học hỏi, và được trang bị kiến thức lý luận kĩ năng quản trị
doanh ngiệp cũng như các kiến thức xã hội. Đó chính là tiền đề, niềm tin,
là cơ sở vững chắc để em vững bước trên con đường sự nghiệp của mình.
Qua đây, em xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy, các cô trường
Đại học Thương Mại, đặc biệt em xin cảm ơn thạc sỹ, Thầy Bùi Hữu Đức -
người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp, anh
Nguyễn Hùng Cường – Trưởng phòng BH Xe cơ giới và Quản lý đại lý
công ty Bảo hiểm PVI Đông Đô đã tạo điều kiện thuận lợi cho em tiếp cận
các tài liệu chuyên ngành và số liệu thực tế tại đơn vị thực tập để hoàn
thành chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Tuy nhiên, bài khóa luận này không tránh khỏi những khiếm khuyết,
thiếu sot, em mong được các thầy cô nhận định và phê bình để đề tài này
thêm hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2013
Sinh Viên

Vũ Văn Duy

1
1
Mục Lục
2
2
Danh mục từ viết tắt
- Công ty bảo hiểm Dầu khí Đông Đô: Công ty PVI Đông Đô, PVI
- Quản trị rủi ro : QTRR


- Bảo Hiểm: BH
3
3
Danh mục bảng biểu:
4
4
Phần Mở Đầu.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội nào trên con đường phát triển của mình cũng luôn hướng tới sự phồn
thịnh, ấm no về vật chất cùng với sự đảm bảo công bằng và phúc lợi xã hội. Để thực
hiện được mục tiêu đó, phải tiến hành nhiều hoạt động kinh tế- xã hội. Mỗi hoạt động
có những đặc thù và chức năng riêng của mình. Nhưng có một hoạt động không chỉ
đem lại hiệu quả kinh tế mà ý nghĩa xã hội của nó cũng không thể phủ nhận. Đó là Bảo
hiểm - một hoạt động dịch vụ tài chính dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Hàng
năm nó mang lại một nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, lợi nhuận cho người
kinh doanh bảo hiểm, đồng thời góp phần ổn định đời sống, sản xuất cho người tham
gia. Nhờ có bảo hiểm, những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra với một
người sẽ được bù đắp, san sẻ từ những khoản đóng góp của nhiều người. Do đó, nó là
chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức, giúp họ yên tâm trong hoạt động sản
xuất kinh doanh.Chính vì vậy từ khi ra đời cho đến nay ,ngành Bảo hiểm đã không
ngưng phát triển trên phạm vi toàn thế giới.
Mặc dù Bảo hiểm ở Việt Nam xuất hiện khá muộn so với các nước phát triển trên
thế giới nhưng từ khi ra đời cho đến nay,ngành Bảo hiểm Việt Nam đã có những bước
phát triển không ngừng,góp phần đáng kể vào sự ổn định đời sống kinh tế cho người
dân và tăng thu nhập cho Nhà nước.
Từ năm 1990 đến 1996, tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành bảo hiểm
thương mại Việt Nam đạt từ 35% đến 40%. Nghị định 100/CP ngày 18/2/1993 của
Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm đã mở ra một hướng đi mới cho ngành bảo hiểm
Việt Nam, tạo điều kiện cho nhiều loại hình doanh nghiệp cũng như các nghiệp vụ bảo
hiểm mới ra đời và phát triển.Cụ thể: thị trường bảo hiểm Việt Nam đang có tốc độ

tăng trưởng nhanh và ổn định nhất khu vực cũng như thế giới. với tốc độ tăng trưởng
bình quân doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 1993-2004 đạt khoảng 29%/năm. Trong
một thập kỷ qua, tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP đã tăng từ 0,37% (1993)
lên đến 1,8 % (2004). Năm 2005 Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2005 tiếp tục có
sự phát triển mạnh, doanh thu bảo hiểm tăng khoảng 21%. Ước tính, doanh thu phí
5
5
toàn ngành bảo hiểm năm 2005 đạt 15.000 tỷ đồng, trong đó doanh thu phí bảo hiểm
phi nhân thọ đạt 5.900 tỷ đồng Năm 2007, doanh thu BH đạt 17.846 tỉ đồng, chiếm
2,11% GDP, trong đó NT đạt 9.486 tỉ đồng, PNT đạt 8.360 tỉ đồng. Năm 2008, doanh
thu BH đạt 27.000 tỉ đồng, chiếm 2,22% GDP, trong đó NT đạt 10.339tỉ đồng, tăng
trưởng 9,3%, PNT đạt 10.855 tỉ đồng, tăng trưởng 31,2%.
Tại Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới được bắt đầu triển khai từ khá lâu.
Tuy nhiên, quá trình hoạt động và triển khai nghiệp vụ này chỉ đơn thuần thực hiện các
chức năng kinh doanh của nó. Sau nghị định 103/CP với sự ra đời của hàng loạt các
công ty bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau đã làm cho tình hình cạnh
tranh trên thị trường bảo hiểm trở lên gay gắt hơn, tính hiệu quả được chú trọng và đề
cao hơn trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.Đặc biệt,từ khi Việt Nam gia nhập
WTO ngành Bảo hiểm càng có cơ hội phát triển hơn nữa với sự tham gia của rất nhiều
các công ty bảo hiểm nước ngoài.Mặc dù vậy tình hình Bảo hiểm xe cơ giới cũng
không mấy khả quan một phần các doanh nghiệp Bảo hiểm chưa khai thác tốt thị
trường,một phần do nhận thức chưa đúng về Bảo hiểm của người dân. Chính vì vậy,
ngày 16/09/2008 Chính phủ đã ra nghị định số 103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới, các công ty bảo hiểm
rủi ro không lường luôn phải đối mặt với các rủi ro gặp phải: rủi ro tai nạn của người
tham gia giao thông, thiệt hại tài chính do tai nạn giao thông cũng như các rủi ro bất
thường có thể đến bất cứ lúc nào đối với người tham gia giao thông. Các rủi ro này đến
từ rất nhiều nguyên nhân: cơ sở hạ tầng giao thông ở nước ta còn thấp, văn hóa luật
giao thông của người tham gia giao thông còn chưa cao, các trước của tự nhiên……

Xuất phát từ thực tế đó và sau một thời gian công tác, tìm hiểu thực tế tại Phòng bảo
hiểm Xe cơ giới và Quản lý đại lý của công ty bảo hiểm Dầu khí PVI Đông Đô cùng
với sự nhiệt tình, say mê nghề nghiệp, em đã chọn chuyên đề: Hoàn thiện công tác
quản trị rủi ro trong bảo hiểm xe cơ giới tại PVI Đông Đô. Mục đích của đề tài là
nhằm trình bày rõ các rủi ro mà PVI Đông Đô đã và có thể gặp phải trong quá trình
kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới từ đó hoàn thiện quá trình quản trị rủi ro để nâng cao
hiệu quả kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới.
6
6
7
7
2 Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn để cơ bản của hoạt động quản trị rủi ro
- Phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động bảo hiểm xe cơ giới tại công ty
bảo hiểm PVI Đông Đô
- Những đề xuất, kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong
hoạt động bảo hiểm xe cơ giới tại PVI Đông Đô.
3 Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Đề tài nghiên cứu về hoạt động quản trị rủi ro trong bảo hiểm xe
cơ giới tại PVI Đông Đô tại địa chỉ 52 Bà Triệu-
- Về mặt thời gian : Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản trị rủi ro trong bảo hiểm
xe cơ giới của PVI Đông Đô trong thời gian từ năm 2011 đến 2013 ( thời điểm PVI tái
cấu trúc thành công )
- Về mặt nội dung: Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong bảo hiểm xe cơ giới tại PVI
Đông Đô
4 Phương pháp nghiên cứu
4.1: Phương pháp thu thập dữ liệu
4.1.1: Phương pháp thu thập dự liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp là những dữ liệu chưa qua xử lý, chưa qua xử lý và được thu
thập trực tiếp từ các đơn vị nghiên cứu.

-Phương pháp điều tra, khảo sát: Để đảm bảo tính thực tế của thông tin, em đã tiến
hành sử dụng phiếu điều tra gồm các câu hỏi nhằm thu thập thông tin về những rủi ro
gặp phải trong bảo hiểm xe cơ giới. Các phiếu điều tra đươc gửi tới các chuyên viên
chuyên về bảo hiểm xe cơ giới của công ty. Phiếu điều tra được gửi tới 30 cán bộ
8
8
chuyên viên trong công ty, là những người có kinh nghiệm cũng như có nghiệp vụ bảo
hiểm xe cơ giới tốt. Số phiếu thu về là 30/30.
- Phương pháp phỏng vấn: Từ những câu hỏi trong phiếu điều tra , để hoàn thiện thêm
các thông tin em tiến hành phỏng vấn trực tiếp với các đối tượng sau:
Ông Nguyễn Hùng Cường: Trưởng phòng BH XCG và Quản lý đại lý
Ông Đỗ Minh Hiệu : Trưởng phòng Giám định bồi thường
Chị Bùi Thị Lan Phương: Trưởng phòng Bảo hiểm XCG và con người
4.1.2: Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Dữ Liệu thứ cấp là những dữ liệu đã có sẵn, có thể thu thập được từ các nguồn sau:
- Trên website của công ty :
- Trên các website viết về lĩnh vực bảo hiểm
- Dựa trên số liệu bồi thường hằng tháng
4.2: Phương pháp phân tích dữ liệu
4.2.1: Phương pháp phân tích dữ liệu sơ cấp:
Trên cơ sở thu thập dược dữ liệu thông qua phiếu điều tra, bằng câu hỏi phỏng
vấn của các nhà quả lý.Tổng hợp, xử lý các dữ liệu nhằm đưa ra được những nhận xét,
đánh giá cụ thể về các rủi ro, từ đố đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
quản trị rủi ro tại công ty.
4.2.2: Phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp: dự vào thông tin từ các website tịn cậy,
từ các số liệu có được từ phòng bồi thường, em thống kê, tổng hợp lại các số liệu để
nắm được chính xác con số bồi thường cho xe cơ giới, xác định được mức độ rủi ro.
9
9
5. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mục lục. lời mở đầu, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và
các phụ lục. khóa luận được chia làm 3 chương như sau :
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác QTRR trong doanh nghiệp
Chương 2: Phân tích và đánh giá thực trạng công tác QTRR trong bảo hiểm xe cơ
giới tại công ty Bảo hiểm PVI Đông Đô
Chương 3: Đề xuất giải pháp và kiến nghị hoàn thiện công tác QTRR trong bảo hiểm
xe cơ giới tại công ty Bảo hiểm PVI Đông Đô
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác QTRR trong
doanh nghiệp
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Rủi ro
10
10
Trong kinh tế học, có nhiều trường phái định nghĩa về rủi ro khác nhau như
trường phái tiêu cực trong từ điển Oxford xem “Rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm
hoặc bị đau đớn, thiệt hại …”. Theo trường phái trung hoà xem “Rủi ro là sự bất trắc
có thể đo luờng được” và theo cách nhìn của trường phái này, rủi ro luôn có tính hai
mặt, rủiro có thể gây ra tổn thất nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội nếu như
chúng ta tích cực nghiên cứu để tiến hành quản trị rủi ro. Với tác giả, Rủi ro là thuật
ngữ mô tả khả năng xảy ra sự kiện ngoài dự kiến gây ra những tổn thất dưới mọi hình
thức. Trong chừng mực nào đó, chúng ta có thể nhận dạng và đo lường khả năng xảy
ra rủi ro đó để có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những thiệt hại khi rủi ro xảy
ra. Tuy nhiên, có những rủi ro mặc dù khả năng xảy ra hầu như không có nhưng khi
xảy ra sẽ gây ra những tổn thất nghiêm trọng. Rủi ro từ hoạt động mua bán chứng
khoán phái sinh trên tài sản cơ sở là các hợp đồng cho vay bất động sản dưới chuẩn đã
được cảnh báo từ trước. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, khả năng xảy ra rủi ro là rất
thấp nên vì mục tiêu lợi nhuận các tổ chức tài chính bất chấp tất cả. Trong Luận văn
này, em chọn quan điểm xem rủi ro là khả năng xảy ra sự kiện ngoại ý tác động lên
nguồn lực của doanh nghiệp gây ra những tổn thất hiện tại cũng như trong tương lai.
Dễ nhận thấy nhất về rủi ro của doanh nghiệp là khả năng xuất hiện các khoản thiệt hại

về tài chính như thu nhập hoặc vốn đầu tư. Rủi ro xảy ra khi có sự hiện diện của những
tình huống không chắc chắn, mà nguyên nhân chủ yếu có thể là do lạm phát, do biến
động lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng2 hóa, hoặc do đánh giá sai các khả năng tình huống
xảy ra, hoặc do quyết định đầu tư không thích hợp, hoặc cũng có thể do các yếu tố
chính trị, xã hội, môi trường kinh doanh thay đổi
Nếu chúng ta xem xét rủi ro trong khả năng xuất hiện thường xuyên, chúng ta có
thể đo lường rủi ro dựa trên tỷ lệ với một bên là mức độ chắc chắn xảy ra với bên còn
lại là mức độ chắc chắn không xảy ra.
11
11
1.1.2.Rủi ro kinh doanh
- Rủi ro kinh doanh là những rủi ro mà doanh nghiệp phải gánh chịu trong quá
trình kinh doanh, có thể bao gồm tất cả các loại rủi ro như rủi ro thị trường, rủi ro tỷ
giá, rủi ro lãi suất, rủi ro bất thường do thiên nhiên, hỏa hoạn,….
- Là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của
doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp
Rủi ro kinh doanh là những vấn đề khách quan bên ngoài của chủ thẻ kinh
doanh , gây ra những khó khăn cho chủ thể trong quá trình thực hiện mục tiêu kinh
doanh , tàn phá các thành quả đang có bắt buộc các chủ thể phai chi phí nhiều hơn về
nguồn lực : tài lực và vật lực .
1.1.3. Quản trị rủi ro
Quản trị rủi ro là một quán trình bao gồm các hoạt động nhằm hạn chế , loại bỏ các rủi
ro hoặc khắc phục các hậu quả nà rủi ro gây ra đối với hoạt động kinh doanh từ đó tạo điều
kiện cho việc sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp , giảm đến mức thấp nhất các
thiệt hại về người và của cải của doanh nghiệp
Quản trị rủi ro theo nghĩa rộng hàm nghĩa rằng doanh nghiệp cần phát huy, sử dụng
năng lực của chính mình để đề phòng và chuẩn bị cho sự biến động của thị trường hơn là
chờ đợi sự biến động rồi mới tìm cách đối phó lại. Mục tiêu của quản trị rủi ro là nhận diện
toàn bộ những rủi ro, xác lập mức rủi ro doanh nghiệp có thể chấp nhận đồng thời phải ý
thức được rủi ro với kiến thức đầy đủ để có thể đo lường và giúp giảm nhẹ tổn thất. Quản trị

rủi ro có nghĩa là tất cả các chi tiết rủi ro phải vận hành trong phạm vi được chấp nhận, giới
hạn và quản lý. Quản trị rủi ro tài chính là xác định mức độ rủi ro mà một công ty mong
muốn, nhận diện được mức độ rủi ro hiện nay của công ty đang gánh chịu và sử dụng các
công cụ phái sinh hoặc các công cụ tài chính khác để điều chỉnh mức độ rủi ro thực sự theo
mức rủi ro mong muốn. (Nguồn: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, Quản trị rủi ro tài
chính, NXB Thống kê năm 2007 [545]) Quản trị rủi ro là chương trình hướng tới sự hoàn
thiện trong hoạt động của doanh nghiệp, quản lý hiệu quả các nguồn lực quan trọng , bảo
12
12
đảm sự tuân thủ các quy định nhằm đạt được mục tiêu duy trì sự cân bằng tài chính và cuối
cùng là ngăn chặn sự mất mát, thiệt hại cho doanh nghiệp. Chức năng chủ yếu của quản trị
rủi ro là nhận diện, đo lường và quan trọng hơn cả là giám sát rủi ro. Quản trị rủi ro là một
hành động chủ động trong hiện tại để bảo vệ trong tương lai. Không ai nghi ngờ về sự cần
thiết của quản trị rủi ro đối với mọi doanh nghiệp,.
* Các công việc trong quản trị rủi ro :
- Dự kiến trước với các chi phí nhỏ nhất , các nguồn lực tài chính cần thiết và đủ trong
th rủi ro xảy ra .
- Kiểm soát các rủi ro bằng cách lại bỏ chúng , làm giảm nhẹ chúng hoặc chuyển sang
tác nhân kinh tế khác .
- Lường trước được những hậu quả do rủi ro gây ra dự kiến các giải pháp tổ chức để
khắc phục được những hậu quả đó.
- Nhận dạng và đối phó với những nguyên nhân và hậu quả của rủi ro trong quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp.
* Quản trị rủi ro liên quan đến tất cả rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Rủi ro ko chỉ đơn thuần là các hoạt động thụ động và phòng ngừa mà còn là những
hoạt động chủ động trong việc dự kiến những mất mát xảy ra và tìm cách giảm nhẹ hậu quả
của chúng .
-Thực chất của quản trị rủi ro là phòng chống và khắc phục hậu quả .
-Chủ động tiếp cận và xử lý các tình huống trong kinh doanh .

1.2. Các nội dung lý thuyết cơ bản về công tác QTRR trong doanh nghiệp
1.2.1. Các rủi ro thường gặp trong hoạt động của doanh nghiệp.
- Rủi ro về chiến lược kinh doanh là rủi ro hiện tại và tương lai có ảnh hưởng
tới lợi nhuận, tới hoạt động của doanh nghiệp do quyết định hoặc thực hiện không
đúng hoặc do không thích nghi kịp với sự thay đổi của ngành.
Rủi ro về chiến lược là một phần của việc tương thích giữa mục tiêu hoạt động
của doanh nghiệp và chiến lược đề ra để đạt được mục tiêu này dựa trên các nguồn
13
13
lực của doanh nghiệp, bao gồm cả nguồn lực hữu hình lẫn vô hình: các kênh thông
tin, hệ thống điều hành doanh nghiệp, mạng lưới phân phối và quy mô quản lý. Do đó,
doanh nghiệp phải đánh giá được khả năng tác động của nền kinh tế, sự cạnh tranh, sự
phát triển khoa học kỹ thuật, sự điều chỉnh của luật pháp có liên quan cũng như môi
trường kinh doanh thay đổi.
- Rủi ro tài chính là rủi ro liên quan đến dòng tiền, độ nhạy cảm của các nhân tố
giá cả thị trường như lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng hóa, giá cổ phiếu và những rủi ro do
doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính – sử dụng nguồn vốn vay trong kinh doanh,
tác động đến thu nhập của doanh nghiệp hoặc làm chậm, mất khả năng thanh toán các
khỏan nợ vay đến hạn. “Rủi ro tài chính chỉ tính khả biến tăng thêm của thu nhập mỗi
cổ phần và xác suất mất khả năng chi trả xảy ra khi một doanh nghiệp sử dụng các
nguồn tài trợ có chi phí tài chính cố định, như nợ và cổ phần ưu đãi, trong cấu trúc vốn
của mình”. (Tài chính doanh nghiệp hiện đại, NXB Thống kê năm 2005 [149-150]).
* Các loại rủi ro tài chính đối với doanh nghiệp:
+ Rủi ro lãi suất:
Trong hoạt động kinh doanh, hầu như tất cả các doanh nghiệp đều phải sử dụng
vốn vay. Khi lập kế hoạch kinh doanh, tuy lãi suất tiền vay đã được dự tính, song có
rất nhiều nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp tác động đến lãi suất tiền
vay. Chẳng hạn khi lạm phát xảy ra, lãi suất tiền vay tăng đột biến, những tính toán, dự
kiến trong kế hoạch kinh doanh ban đầu bị đảo lộn. Tùy thuộc vào lượng tiền vay của
doanh nghiệp, mức độ tổn thất của rủi ro lãi suất cũng sẽ khác nhau.

+ Rủi ro tỷ giá:
Rủi ro tỷ giá là sự thay đổi tỷ giá ngoại tệ mà doanh nghiệp không thể dự báo
trước. Trong trường hợp các giao dịch của doanh nghiệp thực hiện trên cơ sở tỷ giá
ngoại tệ mà hàng hóa đã được định giá trước, khi tỷ giá có sự biến động có thể tạo ra
rủi ro dẫn đến thua lỗ. Tùy theo quy mô sử dụng ngoại tệ, doanh nghiệp có thể gánh
chịu số lỗ do rủi ro về tỷ giá nghiêm trọng hay không.
14
14
+ Rủi ro biến động giá cả hàng hóa :
Đối với các doanh nghiệp có các giao dịch mua, bán hàng hóa theo hợp đồng cố
định giá trong một thời gian dài, rủi ro biến động giá cả hàng hóa có thể sẽ là một
rủi ro lớn. Đặc biệt trong trường hợp nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, giá cả hàng
hóa thay đổi hàng ngày. Đối với đa số doanh nghiệp sản xuất, sản phẩm đầu ra
thường được ký hợp đồng theo đơn hàng trước khi sản xuất, khi giá cả biến động,
nguyên vật liệu đầu vào tăng, nhưng giá bán sản phẩm đã cố định từ trước, nguy cơ
thua lỗ là rất lớn.
+ Rủi ro nguồn tín dụng:
Rủi ro nguồn tín dụng là tính không chắc chắn về khả năng huy động vốn tài trợ
cho các kế hoạch kinh doanh đúng hạn, lãi suất hợp lý và quy mô phù hợp. Tiềm lực
tài chính mỗi DN còn thể hiện ở khả năng mở rộng các kênh huy động vốn và nhân tố
này ngày càng trở thành một trong những lợi thế quan trọng trong quá trình cạnh tranh.
+ Rủi ro dòng tiền:
Rủi ro dòng tiền ngày càng phổ biến trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế như
hiện nay. Các luồng tiền vào doanh nghiệp (dòng thu) và các luồng tiền ra khỏi doanh
nghiệp (dòng chi) diễn ra một cách thường xuyên liên tục. Trên thực tế, tại những thời
điểm nhất định có thể xảy ra, hiện tượng lượng tiền vào doanh nghiệp (số thu) nhỏ hơn
lượng tiền ra khỏi doanh nghiệp (số chi) đến hạn. Khi đó, tình trạng mất cân đối về
dòng tiền đã xẩy ra. Sự mất cân đối này tiềm ẩn một rủi ro lớn đối với hoạt động kinh
doanh. Do thiếu tiền, việc mua nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất
kinh doanh có thể bị dừng lại, dẫn đến ngừng sản xuất, kinh doanh; tiền lương của

công nhân và các khoản vay (nếu có) không được trả đúng hạn ảnh hưởng lớn tới uy
tín của doanh nghiệp. Sự mất cân đối dòng tiền được chia thành: mất cân đối tạm thời
và mất cân đối dài hạn. Có thể nói, ở bất kỳ doanh nghiệp nào cũng xảy ra mất cân đối
tạm thời do việc thu hồi các khoản nợ phải thu không đúng kế hoạch; việc góp vốn
15
15
không được thực hiện đúng cam kết Mất cân đối tạm thời về dòng tiền có thể khắc
phục được bằng nhiều biện pháp và hậu quả thường không lớn. Mất cân đối dài hạn
xảy ra do những nguyên nhân quan trọng như: phần định phí trong tổng chi phí của
doanh nghiệp quá lớn; vốn lưu động tự có quá ít; nợ khó đòi tăng lên; doanh thu chưa
bù đắp đủ các khoản chi phí thường xuyên, v.v… Khi lạm phát xảy ra trong nền kinh
tế, do tác động dây chuyền giữa các doanh nghiệp, số nợ phải thu, đặc biệt là nợ phải
thu khó đòi tăng lên, mất cân đối tạm thời rất dễ chuyển thành mất cân đối dài hạn.
Mất cân đối dài hạn về dòng tiền có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản.
- Rủi ro trong hoạt động: là các rủi ro về vi phạm quy định chính sách nội bộ của
công ty hoặc các hoạt động gian lận như: tham ô, mất mát, lãng phí, hư hỏng, lạm
dụng, phá hoại…
16
16
1.2.2. Vai trò của công tác QTRR và mối quan hệ giữa QTRR với quản trị các
hoạt động khác trong doanh nghiệp
* Vai trò của công tác QTRR:
Đối với các doanh nghiệp lớn hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, có nhiều
chủ sở hữu là các cổ đông, công ty quản trị rủi ro có hiệu quả với chi phí thấp hơn so
với trường hợp nếu chính bản thân cổ đông thực hiện quản trị rủi ro thông qua điều
chỉnh danh mục đầu tư cá nhân. “Các công ty quản trị rủi ro để giảm thuế, giảm chi
phí phá sản, bởi vì các nhà quản trị quan tâm đến tài sản của riêng họ, để tránh đầu tư
lệch lạc, để thực hiện vị thế đầu cơ khi có dịp, để kiếm được lợi nhuận kinh doanh
chênh lệch hoặc để giảm rủi ro tín dụng và từ đó làm giảm chi phí đi vay”. (Nguồn:
PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, Quản trị rủi ro tài chính, Nhà xuất bản Thống kê

năm 2007 [547].
- Quản trị rủi ro giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa các lợi thế về khấu trừ thuế
khi đầu tư tài sản mới, các khoản lỗ chuyển sang…cũng như phát huy tối đa lá chắn
thuế để gia tăng giá trị doanh nghiệp.
- Quản trị rủi ro giúp doanh nghiệp tránh rơi vào tình trạng phá sản, tiết kiệm chi
phí phá sản.
- Quản trị rủi ro bảo đảm cho doanh nghiệp ngành có được trạng thái an toàn,
tăng sự tự tin, tập trung cho hoạt động kinh doanh, ra quyết định đầu tư đúng đắn,
tránh đầu tư lệch lạc. Trong một số trường hợp có thể biến rủi ro thành lợi thế để tìm
kiếm lợi nhuận.
- Một doanh có chương trình quản trị rủi ro có hiệu quả sẽ hoạt động ổn định,
được các đối tác và các tổ chức tài trợ vốn tin cậy, giảm rủi ro tín dụng, từ đó làm
giảm chi phí đi vay.
- Quản trị rủi ro có hiệu quả giúp doanh nghiệp tránh được trường hợp bị sa vào
tranh chấp, kiện tụng; giảm thiểu khả năng vi phạm pháp luật trong kinh doanh.
17
17
- Hiện nay, với mức độ phát triển nhanh của thị trường chứng khoán, quản trị rủi
ro mang tính chuyên nghiệp làm gia tăng giá trị thương hiệu, củng cố niềm tin của nhà
đầu tư tạo ra lợi thế về giá cổ phiếu trên thị trường, tăng tính thanh khoản – một trong
những yêu cầu bức thiết nhất hiện nay trên thị trường chứng khoán
* Mối quan hệ giữa QTRR với quản trị các hoạt động khác trong doanh nghiệp
- Nội dung của mối quan hệ: Bao gồm các hoạt động liên quan đến xây dựng kế
hoạch tổng quát và dài hạn xây dựng mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp để thực hiện
các sứ mạng của doanh nghiệp .
- Với quản trị hoạt động : quản trị hoạt động là những hoạt động trong quá trình
liên quan đến việc thực hiện kế hoạch chiến luợc , nó chính là các kế hoạch , chiến
thuật cũng như kế hoạch tác nghiệp bao gồm : kế hoạch sản xuất , kế hoạch cung ứng
hàng hoá dịch vụ , kế hoach tiêu thụ hàng hoá dịch vụ , kế hoạch tài chính , kế hoạch
nhân sự nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược.

- Quản tri rủi ro bao gồm các hoạt động giúp cho việc thực hiện các kế hoạch tác
nghiệp , chiến lược , chiến thuật và giảm bớt các tổn thất khi khai thác các khách hàng
này giúp cho việc thực hiện mục tiêu và sứ mạng của doanh nghiệp hiệu quả hơn .
1.2.3. Các nguyên tắc QTRR
* Quản trị rủi ro phải hướng vào mục tiêu:
-Phòng ngừa rủi ro
Là nguyên tắc quan trọng trong họat động kinh doanh. An toàn là cơ sở vững
chắc cho việc thực hiện mục tiêu kinh doanh, để thực hiện mục tiêu trong kinh doanh
doanh nghiệp phải thận trọng trong việc lựa chọn phương thức kinh doanh, chiến lược
cạnh tranh, đối tác kinh doanh…… mạo hiểm đem lại rủi ro nhưng cũng là cơ hội
đêm lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và ngược lại muốn có được lợi nhuận cao, đôi khi
18
18
doanh nghiệp phải chấp nhận mạo hiểm. Một trong những giair pháp phân tán rủi ro là
doanh nghiệp lựa chọn đầu tư kinh doanh vào nhiều lĩnh vực, mặt hàng khác nhau,
tham gia nhiều hoạt động sản xuất và kinh doanh theo phương châm “ không nên để
tất cả trứng vào một rổ “. Doanh nghiệp nên tạo quỹ dự phòng để nhằm đảm bảo an
toàn cho hoạt độn sản xuất kinh doanh.
Nguyên nhân xảy ra các rủi ro về tài chính doanh nghiệp có ở tầm vi mô - hay là
công tác quản trị của bản thân các doanh nghiệp và cả ở tầm vĩ mô - hay là những biến
động trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, phòng ngừa rủi ro từ việc
quản trị và điều hành hàng ngày phải được coi là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong
việc quản từ các rủi ro đối với từng doanh nghiệp. Với nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
này, các doanh nghiệp cần thực hiện những biện pháp sau đây:
Tôn trọng nguyên tắc thận trọng khi lập kế hoạch kinh doanh hoặc dự án đầu tư:
Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính trong
kinh doanh, đầu tư.
Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi:
+ Phải lập các khoản dự phòng nhưng không tạp quá lớn;
+ Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập;

+ Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí;
+ Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả
năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về
khả năng phát sinh chi phí.
+ Thường xuyên phân tích tình hình tài chính nhằm nhận diện những điểm mạnh
và điểm yếu của doanh nghiệp. Một trong những công cụ để phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp là xác định và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp
thông qua sự biến động của các chỉ tiêu tài chính quan trọng như: hệ số vốn tự có; hệ
19
19
số thanh toán hiện thời; hệ số thanh toán nợ ngắn hạn; hệ số thanh toán nhanh; hệ số
thanh toán của vốn lưu động
+ Quản lý chặt chẽ nợ phải trả và nợ phải thu: Biện pháp này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải thường xuyên nắm chắc danh mục các khoản nợ phải trả và nợ phải thu;
có kế hoạch thanh toán nợ và thu nợ; không để nợ phải trả cộng dồn quá lớn và không
để phát sinh nợ phải thu khó đòi
+ Thực hiện nghiêm túc các quy định về thời hạn trong kinh doanh, đầu tư: Trong
kinh doanh, cố gắng thực hiện các thương vụ với thời hạn ngắn; trong đầu tư, tập trung
giải quyết dứt điểm từng phần công việc theo đúng tiến độ… Điều đó sẽ giúp doanh
nghiệp tránh được sự biến động bất khả kháng của thị trường.
+ Kiện toàn bộ máy kế toán, thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán quản trị để
thường xuyên có được những thông tin trung thực, chính xác và đầy đủ về tình hình tài
chính của doanh nghiệp phục vụ cho việc phân tích và ra những quyết định quản lý.
Đồng thời, bên cạnh lực lượng cán bộ kế toán, mỗi doanh nghiệp cần có một giám đốc
tài chính - người thực hiện chức năng quản trị tài chính của doanh nghiệp; thực hiện
những biện pháp phòng ngừa rủi ro trong tài chính doanh nghiệp.
-Khắc phục rủi ro: là tìm ra các thực thể khác nhau để cùng nhau gánh chịu
những rủi ro. Bao gồm các nội dung sau:
. Chuyển giao tài sản và các hoạt động có rủi ro cho 1 tác nhân kinh tế khác.
. Chuyển rủi ro thông qua ký hợp đồng với các cá nhân khác. Trong đó có quy

định là chỉ chuyển giao rủi ro chứ không chuyển giao tài sản cho người nhận rủi ro.
. Đa dạng hoá rủi ro: việc chia tổng rủi ro của doanh nghiệp thành các dạng khác
nhau, tân dụng sự khác biệt để dùng lợi ích của rủi ro này để nhằm bù đắp tổn thất cho
rủi ro khác.
20
20
* Quản trị rủi ro phải gắn với trách nhiệm của nhà quản trị :
Xuất phát từ tính chủ động của quản trị rủi ro , tất cả các công việc như nhận
dạng , đánh giá , đo lường , khắc phục thuộc công việc của nhà quản trị bởi vậy cần
phải gắn với trách nhiệm của nhà quản trị.
Quyền sở hữu rủi ro bắt đầu từ quản lý cấp cao rồi giảm dần cho các đơn vị cấp
dưới. Nhà lãnh đạo, quản lý cấp cao phải chịu trách nhiệm cho những rủi ro vĩ mô,
chẳng hạn như các mối đe dọa bất ổn chính trị.
- Điều quan trọng là phân công trách nhiệm rõ ràng và phù hợp cho những người
kiểm soát rủi ro để kế hoạch đào tạo, làm việc hiệu quả
* Quản trị rủi ro phải gắn với tổ chức.
Hội đồng quản trị là người chịu trách nhiệm xác định hướng chiến lược và cơ cấu
cho chức năng quản lý rủi ro doanh nghiệp nhằm đảm bảo hoạt động hiệu quả nhất.
Các bộ phận chức năng trong doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc quản lý rủi ro
hàng ngày, gắn kết việc nhận thức và tuyên truyền về quản lý rủi ro trong bộ phận
mình công tác. Bộ phận quản lý rủi ro doanh nghiệp phải xây dựng được chính sách
kiểm soát bất cứ một rủi ro nào thông qua việc phân tích các rủi ro mà doanh nghiệp
gặp phải. Từ đó, phát triển các chiến lược nhằm từng bước giảm thiểu tần suất và nguy
cơ mắc rủi ro, thiết kế định hướng quản lý rủi ro ở cấp độ chiến lược và chức năng
Xây dựng và nâng cao văn hóa nhận thức về rủi ro trong doanh nghiệp trong đó
có việc đào tạo về quản lý rủi ro trong doanh nghiệp; thiết kế và rà soát quy trình quản
lý rủi ro; điều phối các hoạt động chức năng khác nhau có liên quan đến vấn đề quản
lý rủi ro trong doanh nghiệp…cũng cần được quan tâm, chú trọng
* Đích của quản trị rủi ro là cho phép tổ chức hay doanh nghiệp thực hiện các
mục tiêu

đã được xác định bằng con đường trực tiếp hay gián tiếp một cách hiệu quả nhất
21
21
Các hoạt động quản lý rủi ro là bảo vệ và đóng góp những giá trị tăng thêm cho
doanh nghiệp và các đối tác liên quan của doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp đạt được
mục tiêu đề ra thông qua những nội dung cơ bản thể hiện tác dụng của quản lý rủi ro
doanh nghiệp
- Xây dựng khuôn khổ nhằm giúp doanh nghiệp thực hiện kế hoạch tương lai có
tính nhất quán và có thể kiểm soát.
- Tăng cường năng lực trong việc ra quyết định, lập kế hoạch và sắp xếp thứ tự ưu
tiên công việc trên cơ sở hiểu biết thấu đáo và chặt chẽ về hoạt động kinh doanh, môi
trường kinh doanh, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp.
- Góp phần phân bố và sử dụng hiệu quả những nguồn lực trong doanh nghiệp.
- Giảm thiểu những sai sót trong mọi khía cạnh của doanh nghiệp.
- Bảo vệ và tăng cường tài sản cũng như hình ảnh doanh nghiệp.
- Phát triển và hỗ trợ nguồn nhân lực và nền tảng tri thức của doanh nghiệp.
- Tối ưu hóa hiệu quả hoạt động
1.2.4. Quy trình QTRR
Quy trình quản lý rủi ro
Việc kiểm soát rủi ro phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ và phối hợp
với đặc thù của từng tổ chức, doanh nghiệp. Tổng quát, quy trình quản lý rủi ro cơ
bản bao gồm các bước chính được trình bày ở hình 1. Ở mức chi tiết hơn, quy trình
quản lý rủi ro bao gồm các bước cùng với trình tự xử lý và mối quan hệ giữa chúng
như hình 2.
22
22
Bước 1 : Nhận diện rủi ro
- Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro có thể
xảy ra trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp , nghĩa là xác định một danh sách
các rủi ro mà doanh nghiệp phải gánh chịu gồm cả các rủi ro sự cố cũng như các rủi ro

gắn với quá trình ra quyết định .
-Việc nhận dạng rủi ro gồm 3 thành phần :
+ Mối hiểm hoạ gồm các điều kiện tạo ra hoặc làm tăng khả năng tổn thất và mức
độ của rủi ro suy đoán
+ Mối nguy hiểm là nguyên nhân của tổn thất .
+ Nguy cơ rủi ro là các đối tượng chịu kết quả hoặc hậu quả .
Nhận dạng rủi ro là các yếu tố góp phần ảnh hưởng đến kết quả tích cực hoặc tiêu
cực trong thực tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn rủi ro thường được
bắt nguồn từ các yếu tố của môi trường kinh doanh bên ngoài doanh nghiệp , bao gồm
các yếu tố sau : môi trường chính trị pháp luật, môi trường kinh tế , môi trường khoa
23
23
học-kĩ thuật-công nghệ, môi trường văn hoá xã hội , môi trương tự nhiên , các yếu tố
thuộc môi trường kinh doanh đặc thù của doanh nghiệp bao gồm : khách hàng của
doanh nghiệp , đối thủ cạnh tranh , nhà cung cấp .
- Nhận dạng rủi ro được chia thành 3 nhóm chính :
+ Nguy cơ rủi ro về tài sản là khả năng được hoặc mất đối với những tai sản hữu
hình hoặc vô hình
+ Nguy cơ rủi ro về trách nhiệm pháp lý là nguy cơ có thể xảy ra các tổn thất về
trách nhiệm pháp lý đã được quy định ,
Ví dụ : việc nộp thuế đối với doanh nghiệp là một tổn thất nhưng đối với cơ quan
thu thuế thì đó là nguồn lợi .
+ Nguy cơ rủi ro về nguồn lực :là nguy cơ rủi ro liên quan đến tài sản con người
của tổ chức đó là rủi ro xảy ra đối với nguồn lực trong doanh nghiệp ,
Bước 2 : Phân tích và đo lường rủi ro
Phân tích rủi ro: Là phân tích các điều kiện , các yếu tố tạo ra hoặc tăng các
khả năng tổn thất , các yếu tố này là những yếu tố đã gây ra tổn thất hoặc có thể
gây ra tổn thất.
Có 3 cách tiếp cận :
+ Dựa trên các cơ sở liên quan đến con người .

+ Quan điểm liên quan đến kỹ thuật.
+ Kết hợp cả 2 cách trên
Đo lường rủi ro : Là xây dựng tần suất xuất hiện rủi ro và tiến độ hay mức độ
ngiêm trang của rủi ro:
24
24
Tần số xuất hiện
Biên độ rủi ro
Xuất hiện rủi ro
Cao Thâp
Cao
1. Rủi ro nhiều, mức độ
ngiêm trọng cao
3.Rủi ro mức độ cao
Thấp
2.Tần số xh cao, mức độ
rủi ro ko cao
4.Có rủi ro nhưng tần số
ko nhiều

(I) Nhà quản trị rủi ro bắt buộc quan tâm đến nhóm này.
(II) Nhà quản trị cần tập trung quản trị rủi ro ở nhóm này nhưng ở mức độ thấp
hơn nhóm 1
(III) Tập trung quản trị rủi ro nhưng ở mức độ tập trung nhiều lần.
(IV) Mức độ nhưng trọng không lớn và xác suất xảy ra rủi ro kkông nhiều. Quản
trị rủi ro ở nhóm này đòi hỏi ở mức độ thấp nhất
Bước 3 : Kiểm soát rủi ro
• Kiểm soát rủi ro là việc sử dụng các biện pháp bao gồm: Kĩ thuật, công cụ,
chiến lược, chương trình….để né tránh, ngăn ngừa, giảm thiểu những tổn thất cá thể có
của tổ chức khi rủi ro xảy ra thực chất đó là phòng chống, hạn chế rủi ro

- Kiểm soát rủi ro mang tính tính cực, tính chủ động nhằm cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh và duy trì sự phát triển bền vững
của doanh nghiệp.
- Kiểm soát rủi ro đòi hỏi có những biện pháp đồng bộ, toàn diện:
+ Tham gia bảo hiểm rủi ro
+ Tổ chức kĩ thuật của nhà quản trị
+ Các biện pháp nhận dạng, đo lường phân chia và san sẻ rủi ro
• Nội dung của kiểm soát rủi ro:
25
25

×