Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần ADN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.19 KB, 44 trang )

TÓM LƯỢC
Hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần ADN đã được tồn tại, giữ vững và
phát triển sau năm năm ra đời. Quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa tại Công ty cổ phần ADN đã đạt được những hiệu quả nhất định. Nhưng việc áp
dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần ADN còn chưa
được nhận thức đầy đủ. Vì vậy, đề tài “Pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa và thực
tiễn áp dụng tại công ty cổ phần ADN.” đã được triển khai với tư cách là một khóa
luận tốt nghiệp của sinh viên.
Đề tài thực hiện thông qua việc tìm hiểu về các quy định pháp luật hiện hành
điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa và thực trạng thực hiện pháp luật của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, của các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty
cổ phần ADN. Khóa luận với kết cấu 3 chương, tập trung vào nghiên cứu những vấn
đề như sau:
Trước tiên em nêu ra một số lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa trong
Chương 1. Nội dung chương được hình thành trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy
định chung về hợp đồng và các quy định riêng về hợp đồng mua bán hàng hóa trong
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh về vấn đề này, chủ yếu là hai
văn bản: BLDS 2005 và LTM 2005.
Tiếp theo, trong Chương 2 em tập trung tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần ADN. Từ đó đưa ra những đánh
giá, nhận xét về quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty
cổ phần ADN.
Cuối cùng, Chương 3 em đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật hợp
đồng nói chung, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, và một số đề xuất
nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa tại công ty cổ phần ADN.
Tuy nhiên do phạm vi đề tài được thu hẹp trong phạm vi hoạt động của một
công ty đề tài không tránh khỏi những nhìn nhận và đánh giá thiếu tính khái quát. Mặc
dù vậy, em hi vọng nội dung nghiên cứu cũng sẽ góp một phần nào đó đối với việc
thực hiện pháp luật tại Công ty cổ phần ADN. Do hạn chế về thời gian, kinh nghiệm
nghiên cứu, kiến thức thực tiễn và trong khuân khổ một khóa luận tốt nghiệp đề tài


không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết về nội dung và hình thức. Kính mong
sự chỉ bảo, ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Kinh tế - Luật Trường Đại Học Thương Mại, và
sự đồng ý của Thầy giáo hướng dẫn Th.S Phạm Minh Quốc, em đã thực hiện đề tài: “
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần
ADN”.
Để hoàn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn ban giám đốc và cán
bộ công nhân viên trong công ty cổ phần ADN. Các thầy, cô giáo đã tận tình hướng
dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện tại Trường Đại
Học Thương Mại. Và đặc biệt xin chân thành cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn Th.S Phạm
Minh Quốc đã hết lòng hướng dẫn tận tình, chu đáo cho em những kiến thức quý báu
để thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Sinh viên thực hiện
Phạm Văn Chung


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Tên Trang
Bảng 1: Danh sách cổ đông sáng lập 20
Bảng 2: Kết quả kinh doanh của công ty 22
Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức của công ty 21
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LTM 2005: Luật Thương mại 2005.
BLDS 2005: Bộ luật Dân sự 2005.
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các giao dịch
kinh doanh diễn ra ngày càng sôi động, đòi hỏi Nhà nước phải ban hành quy định điều
chỉnh chi tiết cho quá trình thiết lập và thực hiện chúng. Các bên trong giao dịch phải
có sự hiểu biết đầy đủ các quy định pháp luật hợp đồng nhằm bảo đảm cho việc thực
hiện các giao dịch này.
Trên thực tế, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các thương nhân,
giữa các doanh nghiệp với nhau ngày càng tăng về số lượng. Vấn đề đặt ra trong việc
nâng cao hiệu quả của việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, là liệu
các doanh nghiệp có được sự chủ động trong vấn đề giao kết, làm thế nào để hợp đồng
được xác lập nhanh chóng, đảm bảo hợp đồng được thực hiện một cách nghiêm túc
đưa đến lợi nhuận tối ưu, tránh các thiệt hại không đáng có. Điều này phụ thuộc trước
hết vào hệ thống pháp luật hiện hành, đồng thời phụ thuộc nhiều vào khả năng nhận
biết cũng như trình độ áp dụng pháp luật của từng doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy,
sự hiểu biết về pháp luật của các doanh nghiệp còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Hiện nay pháp luật về hợp đồng đang được ngày càng hoàn thiện theo hướng
phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và pháp luật hợp đồng của thế giới. Nhưng còn
rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện.
Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần ADN, người viết nhận thấy công ty
hàng năm ký kết rất nhiều hợp đồng, chủ yếu là hợp đồng mua bán hàng hóa. Do nhận
thức được vai trò to lớn của hợp đồng mua bán hàng hóa, nên việc tìm hiểu pháp luật
hợp đồng là điều cần thiết đối với công ty. Hơn nữa, thực tiễn việc áp dụng pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty còn nhiều hạn chế và cần giải pháp giúp
công ty cải thiện trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng. Vì vậy, việc nghiên
cứu áp dụng pháp luật hợp đồng trên khía cạnh giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa tại công ty cổ phần ADN là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa với riêng công
ty mà còn đối với nhiều doanh nghiệp khác.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận pháp luật có vị trí quan
trọng trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng

hóa được hình thành và phát triển với các quy định tại Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
năm 1989( đã hết hiệu lực) và đặc biệt sau đó là Bộ luật Dân sự năm 1995( đã hết hiệu
lực), Luật Thương mại 1997( đã hết hiệu lực), và hai văn bản pháp luật hiện hành là
Luật Thương mại 2005( LTM 2005) và Bộ luật Dân sự 2005( BLDS 2005). Vấn đề
1
pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu, dưới những góc độ khác nhau.
Trên thực tế đã có nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ… Nghiên cứu các đề
tài liên quan đến hợp đồng, như đề tài:
- “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay” luận án phó tiến sỹ khoa học luật học năm 1996 của TS. Phạm Hữu Nghị.
- “Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài- Kinh nghiệm so sánh với luật Trung Quốc và những định hướng hoàn thiện cho
pháp luật Việt Nam” luân văn Thạc sỹ năm 2012 của Trương Thị Bích.
- “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, luân án tiến
sỹ luật học năm 2010 của Lê Minh Hùng.
- “Quyền tự do giao kết hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam”,
luận án Tiễn sĩ luật học năm 2006 của Phạm Hoàng Giang.
- “Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô
hiệu”,luận án tiến sỹ năm 2002 của TS. Lê Thị Bích Thọ.
- “Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” luận văn
Thạc sỹ năm 2010 của Nguyễn Thị Hường.
Ngoài ra còn có sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu, các giáo trình có đề
cập đến các khía cạnh pháp lý của hợp đồng như:
- Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam( 2001), Giáo trình Luật Thương Mại( năm
2002), của khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Giáo trình pháp luật kinh tế( 2005), của khoa Luật kinh tế, Đại học kinh tế
quốc dân.
- Giáo trình Luật kinh tế của đại học Luật Hà Nội.
- “Chế định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn

Ngọc Khánh (2007).
- “Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án” của TS. Đỗ Văn
Đại(2010).
- “Chế độ hợp đồng kinh tế - Tồn tại hay không tồn tại” của GS.TS Lê Hồng
Hạnh (2005).
Cùng với các công trình nghiên cứu và các sách, giáo trình nêu trên, đã có nhiều
bài báo khoa học đăng trên các tạp trí, như:
- “Một số bất cập của chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2005”, của tác
giả Trần Thị Huệ, tạp chí dân chủ và pháp luật số định kỳ tháng 6 (255) năm 2013.
2
- “Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng những vấn đề đặt ra khi sửa
đổi Bộ luật Dân sự năm 2005”, của tác giả Phạm Văn Bằng, tạp chí dân chủ và pháp
luật Số định kỳ tháng 4 (253) năm 2013…
Tất cả các công trình nghiên cứu, các bài báo khoa học, sách chuyên khảo, các
luận án, luận văn nêu trên đều có những thành công nhất định về một số khía cạnh
pháp lý của hợp đồng.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tiễn, người viết nhân thấy pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa còn nhiều vấn đề cần tìm hiểu và làm rõ. Trong quá trình thực tập tại công ty
cổ phần ADN người viết nhận thấy pháp luật hợp đồng là rất quan trọng đối với công
ty, tuy nhiên do hạn chế về tổ chức quản lý của công ty nên công ty không có bộ phận
pháp chế, còn chưa chú trọng chuyên sâu tìm hiểu về vấn đề này.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu pháp luật về hợp đồng, nhưng nhu
cầu của việc tiếp tục nhận thức các quy định pháp luật hiện hành về pháp luật mua bán
hàng hóa còn nhiều. Tất cả những thành công của các công trình nghiên cứu nêu trên
đều là cơ sở cho người viết thực hiện nghiên cứu, nhằm hướng tới nhận thức thêm,
nhận thức sâu hơn, nhận thức đầy đủ hơn một số khía cạnh của pháp luật hợp đồng, cụ
thể là pháp luật về hợp đồng bán hàng hóa.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhìn nhận cả về lý luận và thực tiễn người viết
chọn đề tài: “ Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công

ty cổ phần ADN ” làm khóa luận tốt nghiệp của mình .
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận chung về một số
khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa, thực tiễn áp dụng pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phân ADN.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát
thực trạng áp dụng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật hợp đồng mua bán hàng
hóa tại doanh nghiệp, để có thể:
- Tiếp cận nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành của pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên cũng như thực tiễn thi hành các quy
định này.
- Lập luận đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật cũng
như tính hiệu quả của hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh của doanh
nghiệp.
3
4.3 Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung và hướng tiếp cận đề tài: Mặc dù tên đề tài là nghiên cứu luận văn
là “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần
ADN”, vấn đề pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là rất rộng, cho nên trong giới
hạn của khóa luận này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
các khía cạnh pháp lý của quá trình giao kết, thực hiện một số nội dung cơ bản của hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Đối tượng phân tích là các văn bản pháp lý điều chỉnh liên quan đến hợp đồng
mua bán hàng hóa, điển hình là BLDS 2005, LTM 2005 và các hợp đồng mua bán
hàng hóa tại Công ty cổ phần ADN.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề

lý luận và pháp lý liên quan đến các qui định về pháp luật hợp đồng mua bán hàng
hóa. Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như: phương
pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp logic….Dưới
đây là hai phương pháp chủ yếu được người viết sử dụng trong quá trình nghiên cứu
đề tài:
- Phương pháp thu thập thông tin:
Mục đích của việc thu thập thông tin là làm cơ sở lý luận khoa học hay luận cứ
để đi sâu vào vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
+ Thu thập các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu tổng
quan quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán
hàng hóa nói riêng như: LTM 2005, BLDS 2005, các văn bản pháp luật có liên quan từ
đó đưa ra một số nội dung pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa trong chương 1 về:
Khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng, quá trình hình
thành và phát triển, quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng, giải quyết tranh chấp
+ Thu thập sổ sách, số liệu có liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa trong công ty cổ phần ADN. Để làm rõ thực trạng áp dụng pháp
luật hợp đồng trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại
công ty, Chương 2 của đề tài đã thu thập các tài liệu của Công ty cổ phần ADN như:
Điều lệ, các Quy chế, quy trình, Báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh từ 2011 đến 2013.
- Phương pháp phân tích – Tổng hợp:
4
Dựa trên cơ sở các tài liệu đã thu thập được, người viết phân tích đánh giá nội
dung các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa được thực hiện trong
Chương 1 và thực trạng áp dụng chúng trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa tại công ty cổ phần ADN trong Chương 2.
Từ những kết quả đã phân tích, tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn,
tìm ra được bản chất, quy luật vận động của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
và đề xuất giải pháp hoàn thiện. Việc này được áp dụng cho cả đề tài.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.

Với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu như đã nêu ở trên, đề tài ngoài tóm lược,
lời cảm ơn, lời mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung, thì khóa luận
gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận chung về hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2 Pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.3 Một số nội dung cơ bản về vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng.
1.4 Giải quyết tranh chấp phát sinh.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa tại
công ty cổ phần ADN.
2.1 Một số nhận xét và đánh giá về vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần ADN.
2.2 Thực trạng áp dụng pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa trong quá
trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa của công ty cổ phần ADN.
2.3 Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của công ty.
Chương 3. Xu hướng hoàn thiện pháp luật và một số ý kiến đề xuất nhằm
nâng cao hiệu quả trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
tại công ty cổ phần ADN.
3.1 Xu hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
3.2 Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần ADN.
3.3 Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.
.
5
Chương 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA.
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1 Khái niệm:
Hợp đồng nói chung là một hành vi pháp lý, là sự thể hiện ý chí của các bên để
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Hợp đồng là loại hành vi pháp lý cơ bản và

thông dụng nhất. Ý chí của cá nhân đóng vai trò quan trọng trong hợp đồng, khi sự
thống nhất của các ý chí là thực chất và không trái pháp luật thì nó sẽ làm phát sinh
các nghĩa vụ ràng buộc các bên.
Theo quy định tại khoản 3 điều 2 LTM 2005: “ Hàng hóa bao gồm: tất cả các
bất động sản, kể cả bất động sản hình thành trong tương lai, những vật gắn liền với đất
đai”. Cũng tại điều 3 luật này, tại khoản 8 có quy định: “Mua bán hàng hóa là hoạt
động thương mại, là sự thỏa thuận theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Việc mua
bán hàng hóa được thực hiện dựa trên cơ sở hợp đồng. Hiện nay hợp đồng mua bán
hàng hóa là hợp đồng thông dụng của hợp đồng dân sự, chiếm một số lượng lớn. Tại
điều 388 BLDS 2005 có nêu khái niệm chung của hợp đồng dân sự: “Hợp đồng dân sự
là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Đối với hoạt động mua bán hàng hóa hay hợp đồng mua bán hàng hóa cũng
là sự xác lập.
Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua
bán. LTM 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại, nhưng có thể dựa vào khái niệm hợp đồng mua bán tài sản trong luật dân sự để
xác định bản chất của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Điều 428 BLDS 2005: “Hợp
đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho
bên bán”. Hàng hóa được hiểu là động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai,
và các vật gắn liền với đất. Như vậy, hàng hóa thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài
sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại một dạng cụ thể
của hợp đồng mua bán tài sản.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, ta xem xét hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
các tổ chức cá nhân có đăng ký kinh doanh mà quan hệ với nhau vì mục đích lợi
nhuận. Theo khoản 8 điều 3 LTM 2005 có quy định: “ Hoạt động thương mại, theo đó
6

bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận
thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hóa theo thỏa thuận”. Như vậy về khái niệm chung không khác gì so với hợp
đồng dân sự hay hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường. Trong LTM 2005 không
có nêu khái niệm về hợp đồng thương mại mà chỉ có hoạt động thương mại, trong đó
mua bán hàng hóa là một hoạt động thương mại. Các hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi nhuận, và đây là điểm khác biệt giữa hợp đồng dân sự và
hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại. Các hợp đồng được giao kết
không nhằm mục đích lợi nhuận là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất dân sự.
Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng được giao kết bởi các
thương nhân, là sự thỏa thuận giữa các bên để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền
và nghĩa vụ của các bên, và giao kết nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2 Đặc điểm:
Có thể xem xét các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ
với hợp đồng mua bán tài sản theo nguyên lý của mối quan hệ giữa luật riêng và luật
chung.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm chung của hợp đồng
mua bán tài sản trong dân sự như:
+ Là hợp đồng ưng thuận: tức là nó được coi là giao kết tại thời điểm các bên
thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ
thuộc vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành
động của bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
+ Có tính đền bù: Bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua
thì sẽ nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận
dưới dạng khoản tiền thanh toán.
+ Là hợp đồng song vụ: Mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng
buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia
thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa
vụ chính mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán
phải bàn giao hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên

bán.
- Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng
mua bán hàng hóa có những đặc điểm nhất định, xuất phát từ bản chất thương mại của
hành vi mua bán hàng hóa:
7
+ Về chủ thể: Hợp đồng được ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp
nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Về cơ bản, hợp
đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân.
+ Về hình thức: Theo quy định tại Điều 401 BLDS 2005: Hợp đồng mua bán
hàng hóa có thể giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi vụ thể. Tại điều 24
LTM 2005 cũng có quy định về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa: Hợp đồng
mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng
hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định
phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Chủ yếu các hợp đồng
trong hoạt động thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa được thành lập bằng văn
bản, bởi việc giao kết hợp đồng bằng văn bản mang tính đảm bảo cao hơn so với các
hình thức khác. Và do hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra là nhằm mục đích sinh lợi
nên việc ký kết hợp đồng phải được giao kết bằng văn bản.
+ Về đối tượng: Hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa được
phép giao dịch, không nằm trong đối tượng hàng hóa bị cấm. Cùng với sự phát triển
của xã hội, hàng hóa trở nên phong phú bao gồm nhiều loại, có thể là vật hữu hình hay
vô hình, động sản hay bất động sản… đều là những đối tượng của hợp đồng mua bán
hàng hóa. Mỗi đối tượng đều có hình thức trao đổi khác nhau, nhưng vẫn phải tuân
theo những nguyên tắc chung trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
+ Về nội dung: Hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện quyền và nghĩa vụ giữa
các bên trong quan hệ mua bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền
sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền; còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa
và trả tiền cho bên bán. Hành vi của các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa có tính
chất hành vi thương mại. Mục đích thông thường của các bên là lợi nhuận.
1.1.3 Một số nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa.

Nội dung của hợp đồng nói chung là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể
hiện quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng
hóa.
LTM 2005 không quy định hợp đồng mua bán hàng hóa phải bao gồm nội dung
bắt buộc nào. Tuy nhiên, ta có thể thấy rằng, một hợp hợp đồng mua bán hàng hóa
thông thường phải chứa đựng sự thỏa thuận về đối tượng, chất lượng, giá cả, phương
thức thanh toán, thời hạn và địa điểm nhận giao hàng.
Khi các bên thỏa thuận được những nội dung chủ yếu thì hợp đồng mua bán
hàng hóa coi như đã có hiệu lực pháp lý. Nội dung khác các bên có thể thỏa thuận ghi
vào hợp đồng, khi các bên không ghi vào hợp đồng thì mặc nhiên chấp nhận những
8
quy định chung của pháp luật về vấn đề đó hoặc chấp nhận những thói quen trong hợp
đồng thương mại.
Trong quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi những
điều khoản đã thỏa thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của
pháp luật, tức là những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên không thỏa
thuận trong hợp đồng.
Trên cơ sở việc xác lập mối quan hệ với BLDS 2005 có thể chia các điều
khoản của hợp đồng dân sự thành:
+ Điều khoản chủ yếu là những điều khoản không thể thiếu được đối với từng
loại hợp đồng, nếu không thỏa thuận được những điều khoản đó thì coi như hợp đồng
không được giao kết, giữa các bên không có quan hệ hợp đồng dân sự.
+ Điều khoản thường lệ là những điều khoản mà nội dung của nó đã được quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Những nội dung này các bên có thể đưa
vào hợp đồng nhằm khẳng định lại hoặc cụ thể hóa, nhưng không được trái với quy
định của pháp luật. Trong trường hợp không đưa vào nội dung thì các bên mặc nhiên
công nhận và có trách nhiệm thực hiện những quy định đó.
+ Điều khoản tùy nghi là những điều khoản được dựa vào hợp đồng, căn cứ vào
khả năng, nhu cầu và sự thỏa thuận của hai bên.
+ Tùy theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những điểm chủ

yếu được quy định cụ thể tại Điều 402 BLDS 2005.
Khi xem xét về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa chúng ta có thể dựa
trên các quy định của Bộ luật dân sự. Theo đó trong hợp đồng mua bán hàng hóa các
bên có thể thỏa thuận những nội dung chủ yếu sau:
- Đối tượng của hợp đồng:
Trong mua bán hàng hóa, đối tượng của hợp đồng là một hàng hóa nhất định
đây là điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa, mà khi thiếu nó hợp đồng
mua bán hàng hóa không thể hình thành được do người ta không thể hình dung được
các bên tham gia hợp đồng nhằm mục đích gì, trao đổi cái gì. Đối tượng của hợp đồng
mua bán hàng hóa được xác định thông qua tên gọi của hàng hóa, các bên có thể ghi rõ
tên hàng bằng tên thông thường tên thương mại…để tránh có sự hiểu sai lệch về đối
tượng hợp đồng.
- Số lượng hàng hóa:
Điều khoản về số lượng hàng hóa xác định về mặt đối tượng của hợp đồng. Các
bên có thể thỏa thuận và ghi trong hợp đồng về số lượng hàng hóa cụ thể hoặc số
lượng được xác định băng đơn vị đo lương theo tập quán thương mại như chiếc, bộ, tá,
mét vuông, mét khối hay bằng đơn vị nào khác tùy theo tính chất của hàng hóa.
9
- Chất lượng hàng hóa:
Chất lượng hàng hóa giúp xác định chính xác đối tượng của hợp đồng, cái mà
người mua biết tường tận với những yêu cầu được tính năng, tác dụng, quy cách, kích
thước, công suất, hiệu quả…xác định cụ thể chất lượng của sản phẩm thường cũng là
cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất. Trách nhiệm của các bên thường khác
nhau, tương ứng với mỗi phương pháp xác định chất lượng được thỏa thuận. Thông
thường có các biện pháp xác định chất lượng như dựa vào mẫu hàng, dựa vào các tiêu
chuẩn, dựa vào mô tả tỉ mỉ, dựa vào nhãn hiệu hàng hóa hoặc điều kiện kỹ thuật…
- Giá cả hàng hóa:
Các bên có quyền thỏa thuận giá cả và phải được ghi cụ thể trong hợp đồng
hoặc nếu không ghi cụ thể thì phải xác định rõ phương hướng xác định giá, vì đây là
điều khoản quan trọng trong các cuộc thương lượng để đi đến ký kết hợp đồng. Để

mang lại lợi ích cho cả hai bên, các bên cũng có thể thỏa thuận với nhau lựa chọn hình
thức giảm giá phù hợp ghi trong hợp đồng như giảm giá giao hàng sớm, do mua số
lượng nhiều và quy định rõ mức giá giảm.
- Phương thức thanh toán:
Phương thức thanh toán là các cách thức mà bên mua và bên bán thỏa thuận,
theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bán tiền hàng đã mua theo phương thức nhất
định. Có nhiều phương thức thanh toán nhưng việc lựa chọn phương thức nào cũng
xuất phát từ nhu cầu của người bán là thu tiền nhanh đầy đủ và yêu cầu của người mua
là nhận được hàng đúng số lượng, chất lượng, thời hạn như đã thỏa thuận và không có
rủi ro vào sự thỏa thuận giữa các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng mua bán hàng
hóa. Sự lựa chọn phương thức thanh toán cũng căn cứ vào mức độ an toàn của phương
thức thanh toán và phí tổn cho việc thanh toán.
- Thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng:
Thời gian thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian mà bên bán phải hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng cho bên mua theo đúng đối tượng của hợp đồng, địa điểm giao
hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Bên mua có nghĩa vụ và nhận hàng đúng thời gian,
địa điểm và trả tiền cho bên bán. Các bên có thể thỏa thuận với nhau sao cho hợp lý
với tình hình thực tiễn, khả năng thực hiện của mỗi bên. Địa điểm giao hàng có thể do
hai bên thỏa thuận, phù hợp với điều kiện thực tế, thuận tiện và có lợi cho cả hai bên.
Khi thỏa thuận cần thỏa thuận cụ thể địa chỉ giao hàng, đảm bảo nguyên tắc phù hợp
với khả năng đi lại của phương tiện vận chuyển, đảm bảo an toàn cho phương tiện.
1.1 Pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hợp đồng trong cơ chế thị
trường:
10
Tháng 12/1986, Đại hội VI của Đảng quyết định đổi mới toàn diện, chuyển nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 25/9/1989 Hội đồng nhà nước
đã thông qua Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và sau đó là hàng loạt các văn bản như: Nghị
định số 17/HĐBT ngày 25/9/1989, Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/01/1990, và các

văn bản hướng dẫn khác.
Bộ luật Dân sự được ban hành ngày 28/10/1995, tiếp theo là 10/5/1997 Luật
Thương mại được Quốc hội thông qua quy định về hợp đồng trong một số hành vi
thương mại. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh
thương mại thì pháp lệnh hợp đồng kinh tế nam 1989 vẫn là căn cứ chính. Dẫn đến
tình trạng các quy định chồng chéo gây nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng, nội
dung của các văn bản có nhiều điểm không thống nhất. Ngay khi đưa vào thực tiễn áp
dụng đã lộ rõ ra những bất cập. Hơn nữa trong giai đoạn Việt Nam gia nhập WTO,
pháp luật cần có những thay đổi theo những quy định mà WTO đề ra. Nên đến
14/6/2005 Quốc hội đã thông qua BLDS 2005 trong đó thống nhất điều chỉnh các mối
quan hệ về hợp đồng nói chung, bên cạnh các văn bản pháp luật riêng đối với từng lĩnh
vực, LTM 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan điều chỉnh được ra đời.
1.2.2 Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa:
Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hiện nay đang được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật khác nhau như BLDS 2005, LTM 2005, Luật kinh doanh bảo
hiểm…, tuy nhiên, BLDS 2005 được coi là luật gốc quy định các vấn đề chung về hợp
đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được
xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm.
Các quy định về hợp đồng trong BLDS 2005 được áp dụng chung cho tất cả các loại
hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế, hợp đồng có mục
đích kinh doanh hay hợp đồng nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Trên
cơ sở các quy định chung về hợp đồng của Bộ luật Dân sự, tuỳ vào tính chất đặc thù
của các mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật chuyên ngành có thể có những quy
định riêng về hợp đồng để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vưc đó, ví dụ như các
quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá trong LTM 2005, hợp đồng bảo hiểm trong
Luật kinh doanh bảo hiểm Các quy định về hợp đồng trong BLDS 2005 được coi là
các quy định chung còn các quy định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành được
coi là các quy định chuyên ngành và các quy định này được ưu tiên áp dụng.
11

Như vậy đối với hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ ưu tiên áp dụng luật chuyên
ngành là LTM 2005, việc này đã được quy định tại Điều 4 LTM 2005 về Áp dụng
Luật Thương mại và pháp luật có liên quan.
Một số văn bản dưới luật có liên quan:
- Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 2 năm 2007, quy định chi tiết
Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp
đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 quy định chi tiết Luật
Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có
điều kiện.
- Thông tư số 05/2008/TT-BCT Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2007/TT-
BTM của Bộ Thương mại Hướng dẫn thi hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12
tháng 02 năm 2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán và các
hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
1.2 Một số nội dung cơ bản của pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.1 Một số vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.1.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng:
Việc quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý
cho các bên tham gia giao kết, hướng dẫn xử sự của các chủ thể trong quá trình giao
kết và thiết lập quan hệ hợp đồng hợp pháp.
- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội:
Theo nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng
được quyết định mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức
nào kể cả Nhà nước được can thiệp, làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể. Tuy nhiên
sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không được trái với điều cấm của pháp luật
và những chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận rộng rãi.
Nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 4 BLDS 2005 (nguyên tắc tự do, tự
nguyện, cam kết, thỏa thuận); khoản 1 Điều 389 BLDS 2005 (Tự do giao kết hợp
đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội); Khoản 1 điều 11 LTM

2005(Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các qui định của pháp luật mỹ
tục và đạo đức xã hội để xác lập quyền, nghĩa vụ các bên trong hoạt động thương mại
và bảo hộ các quyền đó).
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng:
Việc tham gia hợp đồng hay không là do các bên có toàn quyền định đoạt.
Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho đơn vị kinh
12
tế khi ký kết hợp đồng. Mọi sự ép buộc ký kết hợp đồng giữa bên này với bên kia đều
làm cho hợp đồng vô hiệu.
- Áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các
bên mà các bên đã được biết hoặc phải biết nhưng không được trái với quy định của
pháp luật.
- Áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại:
Tại Điều 13 luật thương mại có quy định: “Trường hợp pháp luật không có quy
định, các bên không có thỏa thuận và không có thói quen đã được thiết lập giữa các
bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên tắc quy
định trong LTM 2005 và trong BLDS 2005.
1.2.1.2 Trình tự giao kết:
- Đề nghị giao kết hợp đồng:
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu hiện ý chí, muốn bày tỏ cho bên
kia ý muốn tham gia giao kết với họ một hợp đồng dân sự. Một lời đề nghị được coi là
đề nghị giao kết hợp đồng thì phải chứa đựng một số yếu tố cơ bản sau:
+ Thể hiện rõ được nguyện vọng muốn đi đến giao kết hợp đồng của bên đề
nghị.
+ Phải có chứa toàn bộ mọi điều kiện cơ bản của hợp đồng.
+ Phải xác định rõ bên được đề nghị.
+ Yêu cầu về thời hạn trả lời là không bắt buộc: Theo Điều 390, Điều 397
BLDS 2005 còn dự liệu cả trường hợp đề nghị có thời hạn trả lời và đề nghị không có
thời hạn trả lời.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác

nhau: người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao đổi, thỏa
thuận hoặc có thể thông qua điện thoại…Ngoài ra, lời đề nghị còn được chuyển giao
bằng công văn, giấy tờ…
Hiệu lực của đề nghị được bắt đầu và chấm dứt theo quy định tại Điều 393,
Điều 394 BLDS 2005. Trình tự thay đổi, rút lại, sửa đổi hay hủy bỏ lời đề nghị được
thực hiện theo quy định của Điều 392, Điều 395, Điều 393 BLDS 2005 .
- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị chuyển
cho bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ các nội dung đã nêu trong đề nghị giao kết
hợp đồng.
1.2.1.3 Thời điểm giao kết hợp đồng:
13
Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là thời điểm các bên đạt được
sự thỏa thuận. Theo quy định tại Điều 404 BLDS 2005, có thể xác định thời điểm giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa như sau:
Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: Thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản: Hợp đồng được giao kết khi
bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm
các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
Theo quy định hiện hành, hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực từ thời điểm
giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác( Điều 405 BLDS 2005).
Trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, sự im lặng của bên được đề nghị
cho đến khi hết thời hạn trả lời cũng có thể là căn cứ xác định hợp đồng đã được giao
kết nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
1.2.1.4 Hợp đồng vô hiệu và việc xử lý hợp đồng vô hiệu:
Theo quy định của Điều 410 BLDS 2005 thì vấn đề hợp đồng vô hiệu sẽ được
áp dụng theo các quy định từ Điều 127 đến Điều 138 BLDS 2005, bởi hợp đồng là một

loại giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự bị vô hiệu khi không có một trong các điều kiện được quy
định tại Điều 122 của BLDS 2005 bao gồm: Người tham gia giao dịch có năng lực
hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Ngoài
ra, nếu pháp luật yêu cầu giao dịch phải được thể hiện bằng một hình thức cụ thể nào
đó thì hình thức của giao dịch cũng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
Theo đó, hợp đồng vô hiệu trong các trường hợp sau:
- Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ: Là hợp đồng kinh tế được ký kết khi có
các dấu hiệu sau:
+ Nội dung của hợp đồng kinh tế đó vi phạm các điều cấm của pháp luật. Điều
này có nghĩa rằng nếu giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đưc xã hội thì bị vô hiệu. Vi phạm điều cấm của pháp luật tức là vi
phạm những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi
nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
+ Một trong các bên ký hợp đồng không có giấy phép kinh doanh theo quy
định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng.
14
+ Người ký hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Người
ký hợp đồng không đúng thẩm quyền tức là người đó không phải là đại diện theo pháp
luật, đại diện theo uỷ quyền hoặc là đại diện theo uỷ quyền nhưng ký kết vượt quá
phạm vi uỷ quyền mà nội dung ký hợp đồng nằm toàn bộ trong phạm vi vượt quá uỷ
quyền đó. Người ký kết có hành vi lừa đảo là người có hành vi như giả danh, giả mạo
giấy tờ, chữ ký, con dấu.
Xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ: Về nguyên tắc các hợp đồng này dù
các bên chưa thực hiện, đã thực hiện hay đã thực hiện xong đều phải xử lý theo pháp
luật. Cụ thể:
+ Nếu nội dung công việc trong hợp đồng chưa thực hiện thì các bên không
được phép thực hiện.

+ Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện một phần thì các
bên phải chấm dứt việc thực hiện và bị xử lý về tài sản
+ Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện xong thì các bên
bị xử lý về tài sản.
Việc tiến hành xử lý tài sản phải theo các nguyên tắc sau:
Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực
hiện hợp đồng. Trong trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì phải bằng tiền,
nếu tài sản đó không bị tịch thu theo quy định của pháp luật; thu nhập bất hợp pháp
phải nộp vào ngân sách nhà nước; thiệt hại phát sinh do các bên gánh chịu.
- Hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần:
Hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần là hợp đồng kinh tế có một phần nội dung
vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến nội dung các phần còn
lại của hợp đồng hoặc có phần nội dung do người được uỷ quyền ký hợp đồng vượt
quá phạm vi uỷ quyền có nghĩa là chỉ có phần thoả thuận trái pháp luật và phần nội
dung ký vượt phạm vi uỷ quyền bị vô hiệu các phần còn lại vẫn có hiệu lực pháp luật
và vẫn được thực hiện bình thường.
Xử lý hợp đồng vô hiệu từng phần:
+ Các bên phải sửa đổi điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích
chính đáng của mỗi bên đồng thời bị xử lý theo quy định của pháp luật đối với phần vô
hiệu đó.
+ Nguyên tắc xử lý hợp đồng vô hiệu từng phần giống như nguyên tắc xử lý
hợp đồng vô hiệu toàn bộ.
1.2.2 Một số nội dung về vấn đề thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.2.1 Một số nguyên tắc thực hiện hợp đồng:
15
- Nguyên tắc thực hiện đúng: Chấp hành thực hiện đúng hợp đồng là không
được tự ý thay đối tượng này bằng một đối tượng khác hoặc không được thay thế việc
thực hiện nó bằng cách trả một số tiền nhất định hoặc không thực hiện nó. Nguyên tắc
này đòi hỏi thỏa thuận cái gì thì thực hiện đúng cái đó.
- Nguyên tắc thực hiện đầy đủ: Nguyên tắc này có nghĩa là thực hiện đầy đủ

tất cả các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng, tức là tất cả các quyền và nghĩa vụ
phát sinh từ quan hệ hợp đồng đều phải được thực hiện đầy đủ. Cụ thể là thực hiện
đúng đối tượng, đúng chất lượng, đúng thời gian, đúng số lượng, đúng phương thức
thanh toán và các thoả thuận khác trong hợp đồng.
- Nguyên tắc giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng: Nguyên tắc
này đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ với nhau, thường xuyên theo dõi và giúp đỡ
nhau để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh mọi điều khoản của hợp đồng, giúp nhau
khắc phục những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế.
1.3.2.2 Thực hiện các nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa:
- Về giao hàng:
Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng,
chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng.
Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ
liên quan theo quy định của luật( Điều 34 LTM 2005). Nếu hợp đồng mua bán hàng
hóa mà phải qua người vận chuyển thì bên bán phải ký hợp đồng vận chuyển, hợp
đồng bảo hiểm rủi ro trên đường vận chuyển. Nếu hợp đồng quy định bên bán không
ký hợp đồng bảo hiểm mà bên mua ký thì bên bán phải cung cấp cho bên bán những
thông tin về hàng hóa để họ tiến hành ký hợp đồng bảo hiểm( khoản 3 Điều 36 LTM
2005).
Mọi vấn đề liên quan đến giao hàng các bên có thể thỏa thuận ghi vào hợp
đồng. Nếu những vấn đề này không được ghi vào hợp đồng thì sẽ theo quy định chung
của pháp luật.
Khi thực hiện hợp đồng thì bên bán phải có nghĩa vụ đảm bảo tính hợp pháp
của hàng hóa, bảo đảm quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa, bảo đảm tính hợp
pháp về sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa đó( Điều 46 LTM 2005), chịu trách nhiệm bảo
hành hàng hóa( Điều 49 LTM 2005).
- Về địa điểm giao hàng tại LTM 2005 có quy định tại Điều 35:
Các bên có thể thỏa thuận về địa điểm, thời hạn và phương thức giao hàng tùy
theo tính chất của hàng hóa trong hợp đồng khi đã thỏa thuận về địa điểm giao hàng
thì các bên phải tôn trọng thỏa thuận và phải thực hiện đúng thỏa thuận đó. Bên bán

16
phải có nghĩa vụ giao hàng, bên mua phải có nghĩa vụ nhận hàng đúng địa điểm đã
thỏa thuận.
Trong trường hợp không thỏa thuận địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng
được xác định theo khoản 2 điều 35 LTM.
- Về thời gian giao hàng tại Điều 37 LTM 2005 có quy định:
Các bên thường thỏa thuận về thời điểm giao hàng trong hợp đồng. Nếu các bên
không thỏa thuận vấn đề này trong hợp đồng thì áp dụng quy định của pháp luật hoặc
theo tập quán. Nếu các bên không thỏa thuận về thời điểm giao hàng cụ thể mà chỉ nêu
thời hạn giao hàng thì bên bán có thể giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời
hạn đó và phải báo trước cho bên mua. Nếu trong hợp đồng không có thỏa thuận về
thời hạn giao hàng thì theo quy định tại Điều 37 LTM 2005, bên bán phải giao hàng
trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng.
- Về trách nhiệm do giao hàng không phù hợp với hợp đồng tại Điều 39 LTM
2005 có quy định:
Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hóa không phù hợp với hợp
đồng. Bên bán phải chịu trách nhiệm trừ trường hợp những khiếm khuyết của hàng
hóa bên mua phải biết hoặc đã biết khi ký hợp đồng.
- Về Thanh toán tại Điều 50 đến Điều 55 LTM 2005 có quy định:
Thanh toán tiền hàng được coi là nghĩa vụ quan trọng mà người mua phải thực
hiện. Bên mua phải có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng theo đúng thỏa thuận và các
bên có thể thỏa thuận về phương thức, địa điểm, thời hạn thanh toán, và trình tự thủ
tục thanh toán, đồng tiền thanh toán…Khi đó bên mua phải tuân thủ đúng các phương
thức thanh toán và thực hiện thanh toán theo trình tự , thủ tục theo thỏa thuận. Nếu các
bên không có sự thỏa thuận này thì sẽ tuân theo quy định của pháp luật, điều này được
quy định tại LTM 2005: Xác định địa điểm thanh toán theo quy định tại Điều 54, thời
hạn thanh toán theo quy định tại Điều 55 và khoản 3 Điều 50.
Trong trường hợp bên mua hàng vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng
thì phải trả lãi trên số tiền trả chậm đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian trả chậm, khi bên vị phạm yêu

cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác Điều 306 LTM 2005. Khi người mua vị phạm
nghĩa vụ thanh toán thì người bán cũng có thể căn cứ vào Khoản 4 Điều 51, Điều 308
về tạm ngưng thực hiện hợp đồng, Điều 312 về hủy bỏ hợp đồng, Điều 321về hình
thức xử lý hành vi vi phạm pháp luật thương mại.
- Chuyển rủi ro tại Điều 57 đến Điều 61 LTM 2005 có quy định:
Vấn đề chuyển rủi ro trong việc mua bán hàng hóa và một vấn đề cơ bản mà các
bên cần nắm. Các bên cần thỏa thuận về thời điểm chuyển rủi ro để tránh phát sinh
17
tranh chấp. Trong hợp đồng không có thỏa thuận về thời điểm chuyển rủi ro, nếu bên
bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua tại một địa điểm nhất định, thì rủi ro về mất
mát hoặc hư hỏng được chuyển cho bên mua khi hàng hóa đã được giao cho bên mua.
Nếu hợp đồng không có quy định về việc vận chuyển hàng hóa cũng như địa điểm
giao hàng nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên
mua khi hàng hóa đã được chuyển giao cho người vận chuyển đầu tiên. Trong các
trường hợp cụ thể thời điểm chuyển rủi ro được pháp luật quy định chi tiết hơn.
- Chuyển quyền sở hữu tại Điều 62 LTM 2005 có quy định:
Việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa từ bên bán sang bên mua là do hai bên thỏa
thuận hoặc nếu không có thỏa thuận thì quyền sở hữu được chuyển sang người mua là
tại thời điểm giao hàng.
Ngoài ra, vấn đề này BLDS 2005 cũng có quy định tại Điều 248 về việc chuyển
giao quyền sở hữu của mình cho người khác.
1.3.2.3 Một số biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng:
Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng được quy định từ Điều 318 đến
Điều 373 BLDS 2005 bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản (bao gồm cả cầm cố,
thế chấp bằng tài sản của người thứ ba), đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp.
Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì các bên trong hợp đồng có
quyền tự chủ, tự do cam kết và tự do thoả thuận đồng thời các bên cũng phải tự chịu
trách nhiệm đối với các cam kết, thoả thuận của mình. Điều này được thể hiện rõ nhất
trong các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lãnh.
1.4 Một số vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp phát sinh:

1.4.1 Các phương thức giải quyết tranh chấp:
Theo quy định tại Điều 317 LTM 2005, các phương thức giải quyết tranh chấp
trong thương mại bao gồm:
- Thương lượng giữa các bên.
- Hòa giải giữa các bên.
- Giải quyết tại trung tâm trọng tài thương mại( theo thủ tục tố tụng trọng tài
được quy định tại luật trọng tài thương mại năm 2010).
- Giải quyết tranh chấp tại tòa án( theo thủ tục tố tụng dân sự được quy định
trong Bộ Luật Tố tụng dân sự 2004). Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp
thương mại (tại điều 319 LTM 2005) là 2 năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 của LTM
2005.
1.4.2 Chế tài áp dụng giải quyết tranh chấp:
18
Tùy theo mức độ vi phạm sẽ áp dụng chế tài phù hợp để giải quyết tranh chấp
theo quy định tại Điều 292 LTM 2005. Sau đây là các chế tài thường được áp dụng:
- Buộc thực hiện hợp đồng: Đây là chế tài có chức năng đảm bảo hợp đồng
được thực hiện như thoả thuận, đúng với mục đích ban đầu của các bên; được áp dụng
đối với bất kỳ hành vi vi phạm hợp đồng nào.
- Phạt vi phạm:
Là chế tài có chức năng tăng cường ý thức tuân thủ hợp đồng của các bên.Bên
bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp
đồng.
Điều kiện để áp dụng chế tài này là phải có tồn tại thoả thuận về việc phạt vi
phạm giữa các bên, đồng thời đã xảy ra hành vi vi phạm mà các bên thoả thuận là điều
kiện để áp dụng chế tài phạt vi phạm.
- Bồi thường thiệt hại: Đây là chế tài có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho
bên bị vi phạm. Bên vi phạm có trách nhiệm bồi thường giá trị tổn thất thực tế và
khoản lợi trực tiếp đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
19

Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ADN.
2.1 Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của công ty.
2.1.1Giới thiệu chung về công ty:
Công ty cổ phân ADN đăng ký tại phòng đăng ký kinh doanh, sở kế hoạch và
đầu tư tỉnh Hải Dương.
Tên công ty viết bằng tiếng Việt: CÔNG TY CỔ PHẦN ADN.
Tên công ty viết bằng tiếng nước ngoài: ADN JOINT STOCK COMPANY.
Địa chỉ: số 6c, Nguyễn Lương Bằng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Mã số thuế: 0800846426.
Công ty được thành lập theo hình thức công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân
theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 và pháp luật hiện hành.
Ngành nghề kinh doanh: Mua bán, đại lý mua bán điện thoại, máy vi tính, thiết
bị văn phòng, thiết bị điện tử, điện lạnh, điện dân dụng, viễn thông; mua bán linh phụ
kiện điện thoại, linh kiện máy vi tính, linh kiện điện tử viễn thông.
Bảng 1: Danh sách cổ đông sáng lập
STT Tên cổ đông Loại cổ phần Tỷ lệ góp vốn
(%)
Số chứng
minh thư nhân
dân
1 Lương Thị Nụ Phổ thông 19,2 140504631
2 Nguyễn Thị Anh Đào Phổ thông 2,4 141859929
3 Trần Thị Hạnh Phổ thông 2,4 141924678
Nguồn: Giấp chứng nhận đăng ký kinh doanh công ty cổ phần ADN.
Mục tiêu hoạt động của công ty: Trở thành công ty cung cấp bán buôn bán lẻ
linh kiện điện từ lớn mạnh thâu tóm thị trường trên địa bản tỉnh Hải Dương và các tỉnh
thành lần cận. Tạo lợi nhuận cho các cổ đông, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho xã
hội.
Tổng số lao động hiện có của công ty là trên 30 lao động.

Diện tích đặt trụ sở và nhà kho của công ty: 1500 m
2
.
Mạng lưới hoạt động: phân phối bán buôn, bán lẻ các sản phẩm linh kiện điện
tử, viễn thông. Làm đại lý phân phối của công ty cổ phần điện thoại di động Thành
Công mobile với các sản phẩm như điện thoại di động. Phân phối các sản phẩm đồ gia
dụng của Lâm Nguyên Wood…
2.1.2 Cơ cấu tổ chức.
20

Sơ đồ1: bộ máy tổ chức của công ty
2.1.3 Tình hình kinh doanh của công ty
Một số đặc điểm về sản phẩm, thị trường, lĩnh vực kinh doanh của công ty:
Đặc điểm về sản phẩm: Hiện nay công ty đang là nhà phân phối các sản phẩm
công nghệ như điện thoại, máy tính, điện tử, điện lạnh, gia dụng… đây là những sản
phẩm phục vụ cho việc thỏa mãn nhu cầu của con người trong xã hội. Các sản phẩm
của các hãng có thương hiệu lớn như về máy tính có ASUS, HP Các dòng điện thoại
cao cấp như IPHONE, Samsung galaxy các sản phẩm hkhác như máy giặt, loa và các
đồ gia dụng khác.
Đặc điểm về thị trường tiêu thụ: Thị trường tiêu thụ các sản phẩm chủ yếu là
trên địa bàn tỉnh Hải Dương và các tỉnh lân cận. Với nhiều năm duy trì và phát triển
hiện doanh nghiệp đang tiến hành mở rộng thị trường để phát triển rộng hơn, kiếm
được nhiều lợi nhuận hơn.
Sự cạnh tranh của các đối thủ cùng ngành: hiện nay công ty đang có sức cạnh
tranh khá lớn với các đối thủ cùng ngành khi nắm bắt được nhiều lợi thế. Với nhiều
năm tồn tại và phát triển hình ảnh của công ty đã đi sâu trong mắt người bản địa. Các
trụ sở của doanh nghiệp đều nằm ở những vị trí thuận lợi cho việc kinh doanh tiêu thụ
sản phẩm.
Thị trường của công ty chỉ bó hẹp trong địa bàn tỉnh Hải Dương cho nên dễ vấp
phải sự cạnh tranh của các thế lực lớn khác khi thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường.

2.1.4 Những thành tựu đạt được trong quá trình kinh doanh của công ty cổ phần
ADN thời gian gần đây:
Bảng 2: Kết quả kinh doanh của công ty
21
Hội đồng quản
trị
Ban giám đốc
Phòng tài chính Phòng kinh
doanh
Phòng dịch vụ
sau bán

×