Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế tập thể ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.5 KB, 37 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong nông nghiệp là
yêu cầu tất yếu và khách quan của nền kinh tế Việt Nam ngay từ
xưa cha ông ta đã đúc rút ra bài học quý báu đó là:
"Một cây làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao".
Đối với nông nghiệp nước ta cũng vậy có rất nhiều việc mà
một hộ gia đình nông dân không thể làm được mà cần có sự liên
kết, hợp tác lại thì công việc đó mới làm được hoặc là tạo ra hiệu
quả công việc cao hơn.
Song, hợp tác xã trong nông nghiệp phát triển phụ thuộc vào
môi trường pháp lý, kinh tế xã hội cùng với quá trình chuyển đổi
nền kinh tế từ cơ chế cũ sang cơ chế mới đòi hỏi hợp tác xã phải có
sự nhận thức, tổ chức lại để phù hợp với môi trường này. Do vậy
mà em chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế
tập thể ở nước ta hiện nay" để làm đề án môn học.
Nội dung của đề án là:
PHẦN THỨ NHẤT : Đó là một số vấn đề về hợp tác xã.
PHẦN THỨ HAI : Thực trạng của hợp tác xã trong nông
nghiệp Việt Nam qua các giai đoạn.
PHẦN THỨ BA : Từ lý luận và thực trạng của hợp tác xã nông
nghiệp thì em có nên ra một số giải pháp để
phát triển hợp tác xã trong nông nghiệp.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn: PGS.TS: Phạm Văn Khôi
đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
1
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KINH TẾ TẬP THỂ.
1. Khái niệm về kinh tế tập thể.
1.1. Kinh tế tập thể .
Hợp tác và các hình thức hợp tác vốn đã xuất hiện rất sớm


trong nền kinh tế tự cấp với các hình thức hợp tác từ giản đơn mang
tính chất xã hội, giúp đỡ lẫn nhau như phường, hội ngành nghề, tổ,
nhóm tương trợ sản xuất. Song khi đi vào nền kinh tế thị trường thì
kinh tế hợp tác và các hình thức của nó được biến đổi về chất mang
tính kinh tế, kinh doanh, với sự xuất hiện ngày càng nhiều các hình
thức liên kết từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Nguyên
nhân dẫn tới sự ra đời và phát triển của kinh tế hợp tác là: trong
hoạt động lao động, sản xuất có nhiều công việc mà một cá nhân,
một đơn vị một tổ chức không làm được hoặc làm được nhưng hiệu
quả không cao từ đó mà cần có sự kết hợp lại giữa các cá nhân, đơn
vị hay tổ chức để thành lập một tập thể mới có đủ điều kiện để giải
quyết tốt công việc đặt ra. Cho tới gần đây đã có nhiều khái niệm
về kinh tế hợp tác nhưng vẫn chưa có một khái niệm nào được coi
là chuẩn mực khái niệm về kinh tế hợp tác vẫn đang được tiếp tục
hoàn thiện cùng quá trình nhận thức về kinh tế hợp tác. Một trong
những khái niệm tiêu biểu về kinh tế hợp tác là: "Kinh tế hợp tác là
việc những người lao động chung sức, chung vốn để cùng tiến hành
một công việc, một lĩnh vực hoạt động sản xuất dịch vụ nào đó theo
kế hoạch nhằm mục đích chung và đem lại lợi ích cụ thể cho các
thành viên tham gia hợp tác.
2
Như vậy sự liên kết, kết hợp với nhau giữa những người lao
động về vật chất và tinh thần đã tạo ra sức mạnh của kinh tế hợp
tác. Để kinh tế hợp tác phát huy sức mạnh thì nó phải được thành
lập trên cơ sở tự nguyện của mỗi thành viên, nó cũng có nghĩa là
các thành viên phải nhận thức được lợi ích của họ khi hợp tác với
nhau và hợp tác lại, nó trở thành nhu cầu thiết yếu.
Hiện nay có rất nhiều hình thức kinh tế hợp tác tồn tại như
trong khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước thường xuất hiện
quá trình liên kết từ: doanh nghiệp cơ sở liên kết với nhau tạo ra

công ty từ các công ty liên kết lại tạo ra tập đoàn kinh tế. Còn trong
khu vực nhỏ bao gồm kinh tế hộ, kinh tế trang trại, kinh tế tiểu chủ
thì các hình thức liên kết hợp tác lại phát triển hết sức đa dạng như:
các tổ đổi công, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Sự hợp tác ở các ngành, lĩnh vực khác nhau có sự khác nhau
do đặc điểm của ngành, lĩnh vực đó quy định điều này thể hiện tính
tất yếu kinh tế, quá trình phát triển các hình thức hợp tác luôn phải
thích ứng với quá trình hiện đại hoá chuyên môn hoá; tập trung hoá
trong phát triển kinh tế. Như vậy thực chất của kinh tế hợp tác là
quá trình xã hội hoá sản xuất thông qua các hình thức liên kết, hợp
tác mềm dẻo, linh hoạt, năng động hài hoà giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, giữa các chủ sở hữu ,giữa các doanh nghiệp
trên cơ sở đó bảo đảm lợi ích giữa các thành viên.
1.2. Kinh tế tập thể
Hợp tác xã là sản phẩm của lịch sử. Nó có từ trước khi chủ
nghĩa Mác ra đời. Lúc đầu khi phê phán các nhà chủ nghĩa xã hội
không tưởng, Mác và Ăng ghen chưa thấy được vai trò to lớn của
hợp tác xã đối với hình thái kinh tế xã hội tương lai. Sở dĩ như vậy
3
là vì hai ông cho rằng có thể chuyển trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội mà không cần có những bước quá độ trung
gian. Nhưng từ giữa thập kỷ 60 của thế kỷ 18, chú ý đến thực tiễn
của lịch sử về sự hình thành của các "Hợp tác xã công nhân sau
cách mạng dân chủ tư sản ở châu âu (1848 - 1894) hai ông đã dần
dần thấy được triển vọng của kinh tế hợp tác xã trong chế độ tương
lai. Trong tuyên ngôn thanh lập hội liên hiệp công nhân quốc tế
(quốc tế I) hai ông đã đi đến khẳng định vai trò to lớn của hợp tác
xã sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền vào năm 1886,
Ăngghen còn khẳng định một cách rõ ràng rằng: khi chuyển sang
nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa hoàn toàn, chúng ta phải ứng dụng

rộng rãi, kinh tế hợp tác xã trong sản xuất đó là những quan điểm
của Mác và Ăng ghen về kinh tế hợp tác xã.
* Hợp tác xã là một hình thức của kinh tế hợp tác. Nó chính
là cơ sở để hình thành nên các loại hình kinh tế hợp tác khác như
liên minh hợp tác xã, hợp tác giữa hợp tác xã với doanh nghiệp
hợp, tác xã với người lao động. Khái niệm hợp tác xã được tổ chức
liên minh hợp tác xã quốc tế khẳng định nghĩa như sau: "Hợp tác xã
là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để để
đáp ứng các nhu cầu nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội
và văn hoá thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân
chủ".
Theo luật hợp tác xã của nước ta ra ngày 3/4/1996 thì: "Hợp
tác xã là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có
nhu cầu lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo
quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của
từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt
4
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần
phát triển kinh tế xã hội của đất nước".
Qua hai khái niệm trên về hợp tác xã ta có thể thấy một vài
đặc trưng của hợp tác xã sau:
-Các thành viên của hợp tác xã tự nguyện gia nhập hợp tác xã
không ai ép buộc họ gia nhập hợp tác xã khi không còn muốn là xã
viên hợp tác xã thì có thể viết đơn ra khỏi hợp tác xã.
- Hợp tác xã được thành lập với mục đích giúp đỡ nhau thực
hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh.
-Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ tức là nó chịu trách
nhiệm hữu hạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hợp tác xã nông nghiệp là một trong các hình thức cụ thể của
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. là tổ chức kinh tế tự chủ do nông

dân và những người lao động có nhu cầu và lợi ích chung tự nguyện
cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật. Mục đích
để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp
nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế
hộ gia đình và các xã viên. Kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất ,chế
biến, trên thị trường sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản và kinh doanh các ngành nghề khác ở nông thôn phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp.
* Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của hợp tác xã
nông nghiệp.
-Tự nguyên gia nhập và ra khỏi hợp tác xã nông nghiệp mọi
công dân có đủ điều kiện quy định để trở thành xã viên theo luật và
5
điều lệ hợp tác xã đều có thể viết đơn gia nhập hợp tác xã nông
nghiệp và có thể viết đơn xin ra khỏi hợp tác xã nông nghiệp.
- Các xã viên đều bình đẳng với nhau trong việc tham gia
quản lý, kiểm tra, giám sát và có quyền ngang nhau trong biểu
quyết dù cổ phần đóng góp không giống nhau.
- Tự quản, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
- Có tư cách pháp nhân, bình đẳng trước pháp luật
- Mục đích thành lập hợp tác xã nông nghiệp chủ yếu là phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân. Do vậy việc phân
phối lãi của hợp tác xã nông nghiệp theo nguyên tắc là lãi chia theo
cổ phần có giới hạn còn trích quỹ chung của hợp tác xã và có thể
chia cho xã viên theo mức dộ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.
- Hợp tác xã nông nghiệp và kinh tế hộ gia đình có mối quan
hệ mật thiết gắn bó với nhau. Chúng hỗ trợ cho nhau để cùng nhau
phát triển.
2. Đặc điểm của kinh tế tập thể trong nông nghiệp
Do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các cơ thể sống

tuân theo quy luật sinh trưởng và phát triển. Chúng rất mẫn cảm với
các tác động của con người, của tự nhiên. Vì vậy mà chúng đòi hỏi
sự chăm sóc tỉ mỉ, thường xuyên và ở các giai đoạn khác nhau trong
quá trình sinh trưởng và phát triển chúng yêu cầu mức độ và cách
thức chăm sóc khác nhau. Như vậy để sản xuất nông nghiệp đạt kết
quả cao thì việc chăm sóc, nuôi dưỡng cây trồng vật nuôi, phải do
những người chủ thực sự đảm nhận. Vì vậy mà các hoạt động sản
xuất nông nghiệp gắn với cây trồng vật nuôi không thích hợp với
6
lao động làm chung làm thuê mà thích hợp với lao động của gia
đình.
Tuy nhiên có nhiều việc trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp mà một hộ gia đình giải quyết thì sẽ không hiệu qủa như
thuỷ lợi, bảo vệ thực vật, giống... dẫn đến phải có sự hợp tác, liên
kết giữa các hộ với nhau để giải quyết các công việc này có hiệu
quả hơn. Như vậy đặc điểm cơ bản của hợp tác xã trong nông
nghiệp là sự hợp tác diễn ra chủ yếu ở các khâu ngoài quá trình sản
xuất. Ngoài ra hợp tác xã trong nông nghiệp còn có các đặc điểm
như là:
Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức liên kế kinh tế tự nguyện
của những hộ nông dân có chung yêu cầu về những dịch vụ cho nhu
cầu sản xuất kinh doanh và đời sống của mình mà bản thân từng
nông hộ không làm được hoặc làm nhưng kém hiệu quả.
Cơ sở để thành lập hợp tác xã là dựa vào sự cùng góp vốn của
các thành viên, quyền làm chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên
theo nguyên tắc mỗi xã viên một phiếu biểu quyết, không phân biệt
lượng vốn góp ít hay nhiều.
Mục đích kinh doanh của hợp tác xã là nhằm trước hết đáp
ứng đủ, kịp thời về số lượng, chất lượng của dịch vụ cho xã viên.
Đồng thời cũng phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất

mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức giá và lãi suất nội bộ thấp
hơn giá thị trường.
Tiếp theo, hợp tác xã nông nghiệp thành lập và hoạt động
theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
7
Hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ
liên quan đến xã viên thực sự có nhu cầu, có mong muốn không lệ
thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở những dịch vụ cần thiết và
đủ khả năng quản lý kinh doanh. Như vậy, trong mỗi thôn, mỗi xã
có thể cùng tồn tại nhiều loại hình hợp tác xã có nội dung kinh
doanh khác nhau có số lượng xã viên không như nhau, trong đó một
số nông trại, trang trại đồng thời là xã viên của một vài hợp tác xã.
Đặc điểm trên cho thấy sự khác biệt của hợp tác xã sau khi
đổi mới với hợp tác xã trước đổi mới là nông hộ, trang trại xã viên
vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong hợp tác xã vừa là đơn vị kinh tế
cơ sở hoạt động kinh doanh và hoạch toán độc lập. Do vậy quan hệ
giữa hợp tác xã và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ
vừa là quan hệ giữa hai đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc
lập.
3. Vai trò của kinh tế tập thể trong nông nghiệp.
Hợp tác xã nông nghiệp là hình thức kinh tế tập thể của nông
dân vì vậy hoạt động của hợp tác xã có tác động to lớn tích cực tới
hoạt động sản xuất của hộ nông dân. Nhờ có hoạt động của hợp tác
xã các yếu tố đầu vào và các khâu dịch vụ cho hoạt động sản xuất
nông nghiệp được cung cấp kịp thời, đẩy đủ và bảo đảm chất lượng,
các khâu sản xuất tiếp theo được đảm bảo đã làm cho hiệu quả sản
xuất của nông dân được nâng lên.Thông qua hoạt động dịch vụ vai
trò điều tiết sản xuất của hợp tác xã nông nghiệp được thực hiện,
sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung, tạo
điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hoá.

Chẳng hạn dịch vụ làm đất, dịch vụ tưới nước, dịch vụ bảo vệ thực
vật...đòi hỏi sản xuất của hộ nông dân phải thực hiện thống nhất
8
trên từng cánh đồng về chủng loại giống về thời vụ gieo trồng,
chăm sóc.
Thêm vào đó hợp tác xã còn là nơi tiếp nhận những trợ cấp
của nhà nước tới hộ nông dân, vì vậy hoạt động của hợp tác xã có
vai trò cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân một cách có hiệu
quả.
Hợp tác xã còn có vai trò thúc đẩy các hộ nông dân áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đồng thời trong nhiều
trường hợp hợp tác xã còn là đối trọng với các tổ chức tham gia
hoạt động cung cấp dịch vụ cho hộ nông dân buộc các đối tượng
phải phục vụ tốt hơn cho nông dân.
4. Phương hướng, chủ trương phát triển kinh tế tập thể của
Đảng và Nhà nước ta.
Hội nghị trung ương lần thứ 8 khoá II họp vào tháng 8 năm
1955 đã chủ trương xây dựng thí điểm hợp tác xã nông nghiệp ở
miền bắc. Ba hợp tác xã thí điểm đầu tiên xuất hiện ở Ba tỉnh đó là
Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hoá.
Hội nghị trung ương thứ 16 khoá II (4/1959) đã thảo luận và
đưa ra quyết định về hợp tác nông nghiệp theo nguyên tắc tập thể
hoá tư liệu sản xuất và quản lý sản xuất tập trung, phân phối thống
nhất quy định việc trích lập các quỹ và tổ chức bộ máy quản lý hợp
tác xã sản xuất nông nghiệp.
Tháng 7 năm 1961, hội nghị trung ương lần thứ 5 khoá III về
nông nghiệp. Bàn về các biện pháp củng cố và mở rộng kinh tế hợp
tác.
9
Vào cuối những năm 70 cơ chế quản lý của các hợp tác xã bộc

lộ những yếu kém cần được khắc phục. Chỉ thị 100 của ban bí thư
trung ương Đảng ra đời đánh dấu bước ngặt quan trọng trong phát
triển nền nông nghiệp nước ta, nó góp phần giải phóng lực lượng
sản xuất thông qua chủ trương "cải tiến công tác khoán mở rộng sản
phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp"
Chỉ thị 100 là điểm khởi đầu của quá trình đổi mới hợp tác xã nông
nghiệp kiểu cũ sang hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới. Nội dung cơ
bản của chỉ thị 100 là mở rộng công tác khoán sản phẩm cuối cùng
tới nhóm và người lao động, trong đó hợp tác xã điều hành 5 khâu
(làm đất, giống mạ, phân bón hoá học, tưới tiêu nước, phòng trừ sâu
bệnh) còn xã viên bỏ sức lao động, vốn đầu tư thâm canh vượt mức
khoán và được tự do sử dụng sản phẩm vượt khoán.
Theo đường lối đổi mới đại hội Đảng khoá VI ngày 5 tháng 4
năm 1988. Bộ chính trị đã ra nghị quyết số 10/NQTW về đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp mở đường cho bước phát triển sản xuất
nông ngiệp mạnh mẽ trong những năm sau đó. Tinh thần cơ bản của
nghị quyết 10 là đổi mới mối quan hệ giữa hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp với các hộ nông dân xã viên. Hợp tác xã giao khoán ruộng
đất cho nông dân xã viên sử dụng ổn định lên dài. Hợp tác xã có
chức năng làm dịch vụ phục vụ xã viên thông qua quan hệ hàng hoá
tiền tệ.
Sau đại hội Đảng toàn quốc khoá VII nghị quyết của hội nghị
trung ương lần thứ 5 về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội
nông thôn (6-1993) đã đề ra việc đổi mới kinh tế hợp tác xã, phát
huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên cụ thể là: tiếp tục đổi mới
các hợp tác xã theo hướng phát huy hơn nữa tiềm năng to lớn và vị
trí quan trọng lêu dài của kinh tế hộ xã viên.
10
Ngày 20-03-1996 Nhà nước ta ban hành luật hợp tác xã nhằm
định hướng cho công cuộc chuyển đổi hợp tác xã từ kiểu cũ sang

kiểu mới một cách có kết quả. Theo luật hợp tác xã, các hợp tác xã
sẽ chuyển sang kinh doanh phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của
các hộ nông dân xã viên. Đưa hợp tác xã bước sang giai đoạn phát
triên mới phù hợp hơn với điều kiện khách quan, phát huy sức
mạnh của kinh tế hợp tác. Đưa kinh tế hợp tác xã thực sự trở thành
một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền nông nghiệp
nước ta.
Nghị định 42/CP của chính phủn gày 29 tháng 04 năm1997 dã
ban hành điều lệ mẫu hợp tác xã nông nghiệp. Điều lệ mẫu hợp tác
xã nông nghiệp ra đời là nhân tố giúp cho các hợp tác xã nông
nghiệp chuyển đổi tổ chức quản lý và hoạt động hiệu quả hơn. Điều
lệ mẫu ra đời còn góp phần giúp đỡ các hợp tác xã nông nghiệp
đảm bảo các quyền của mình trước pháp luật.
Nghị định số 15/CP của chính phủ ra ngày 21 tháng 2 năm
1997 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã. Chính sách
này tạo điều kiện cho các hợp tác xã đổi mới phát triển, nó tạo điều
kiện thuận lợi cho các hợp tác xã mới hình thành. Theo nội dung
chính của chính sách này thì Nhà nước dành nhiều ưu đãi về đất
đai, vốn để khuyến khích các hợp tác xã hình thành và phát triển.
Đặc biệt là việc hình thành và phát triển các hợp tác xã nông
nghiệp, nông thôn miền núi. Mọi thủ tục đăng ký kinh doanh và
thuê đất, thuê vốn để khuyến khích các hợp tác xã hình thành và
phát triển, đặc biệt là việc hình thành và phát triển các hợp tác xã
nông nghiệp, nông thôn miền núi. Mọi thủ tục đăng ký kinh doanh
và thủ tục thuê đất, thuê vốn của các hợp tác xã kinh doanh và thủ
tục thuê vốn của các hợp tác xã nông nghiệp được thành lập theo
11
luật hợp tác xã đều được nhà nước tính với mức giá ưu đãi so với
các thành phần kinh tế khác.
II. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TẬP THỂ NÔNG NGHIỆP

1.Giai đoạn từ đầu năm 1958 đến năm 1981
Có thể nói đây là giai đoạn Hợp tác xã nông nghiệp được hình
thành một cách mạnh mẽ. Song nó cũng bị ảnh hưởng bởi cơ chế
kinh tế kế hoạch của tập trung nên các Hợp tác xã vẫn chưa thực sự
phát huy được vai trò của mình và có thể phân ra làm các giai đoạn
nhỏ sau:
1.1. Giai đoạn 1958 -1965 đây là giai đoạn tiến hành tập thể
hoá nông nghiệp trên quy mô lớn, tốc độ cao
Sau cải cách ruộng đất xuất phát từ nhận thức muốn xoá bỏ
tận gốc chế độ bóc lột, chặn đứng con đường phát triển tự phát của
chủ nghĩa tư bản ở nông thôn, muốn có cơ sở để tiến hành công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa; muốn củng cố mối liên minh công
nông trong giai đoạn mới. Đảng công sản Việt Nam trên cơ sở vận
dụng kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, đã quyết định
hợp tác hoá nông nghiệp trên toàn miền bắc. Coi đó là khâu then
chốt trong toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đứng trước một sự nghiệp mới mẻ, phức tạp quan điểm chỉ
đạo của đảng ta lúc đó đối với phong trào hợp tác hoá là: Thận
trọng, tiến hành từng bước, từ thấp đến cao.Nhưng khi chủ trương
hợp tác hoá đưa vào thực hiện đã được các tổ chức đảng, chính
quyền địa phương nhận thức, triển khai với một khí thế cách mạng
đặc biệt phần đông nông dân tin theo đảng đã tình nguyện gia nhập
hợp tác xã, các tổ chức đảng ,chính quyền,đoàn thể quần chúng
12
hăng hái, nỗ lực vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng (có
những nơi còn áp dụng biện pháp cưỡng bức) vì vậy mà phong trào
hợp tác hoá phát triển với tốc độ không ngờ từ 3 hợp tác xã thí
điểm năm1955 đến cuối năm 1958 đã có 4.273 hợp tác xã nông
nghiệp. Sự phát triển ồ ạt, với một số lượng hợp tác xã nông ngiệp
lớn hơn nhiều lần so với dự tính đã làm cho Đảng đi đến kết luận:

"hợp tác hoá nông nghiệp là yêu cầu phát triển khách quan của
nông thôn."
Tuy nhiên trước sự phát triển bất bình thường của phong trào
hợp tác xã hoá nông nghiệp, đã nảy sinh những ý kiến đánh giá
khác nhau: có người cho rằng hợp tác hoá sản xuất nông nghiệp đã
trở thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Có người cho rằng: quần chúng chưa có yêu cầu hợp tác hoá.
mỗi ý kiến như vậy đều có điểm đúng và chưa đúng do chủ quan
nóng vội mà Đảng ta nhấn mạnh tới ý kiến thứ nhất và do đó Đảng
ta tiếp tục cho phong trào hoá nông nghiệp phát triển mạnh mẽ đưa
ra mô hình hợp tác xã bậc thấp, hợp tác xác bậc cao, hợp tác xã
toàn xã.
Như vậy đến cuối năm 1960 toàn miền bắc đã căn bản hoàn
thành xây dựng Hợp tác xã bậc thấp, thu hút 2,4 triệu hộ nông dân
chiếm 85,8% số hộ, với 76% diện tích ruộng đất đi vào làm ăn tập
thể.
Nhưng đằng sau những con số đáng phấn khởi đó, trong đời
sống thực tế ở nông thôn lúc này, Hợp tác xã nông nghiệp đã mang
trong mình những yếu tố bất ổn: Năm, 1958 - 1959 có 20 Hợp tác
xã tan rã, 5500 hộ xã viên xin ra Hợp tác xã.
13
Trước tình hình như vậy Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
chủ trương, chính sách nhằm tăng cường và củng cố Hợp tác xã
nông nghiệp tuy vậy trong qúa trình củng cố nhiều địa phương vẫn
sa vào khuynh hướng mệnh lệnh gò ép một chiều thậm chí trù dập
những người khác chính kiến.
Mặc dù, phong trào hợp tác hoá đã bỏ được chế độ bóc lột,
lao động tập thể thay thế lối làm ăn cá thể nhưng do quản lý yếu
kém mà biểu hiện là chưa có phương hướng sản xuất, không lập
được kế hoạch dẫn tới cấy sau, cấy muộn làm cho năng suất thấp.

Quản lý tài chính không minh bạch tệ nạn tham ô lãng phí phổ biến
ở nhiều nơi vốn ít, sản xuất kém, mất dân chủ .Đối với dân như gò
ép dân vào Hợp tác xã, xã viên xin ra khỏi Hợp tác xã không trả lại
ruộng. Từ lý do trên làm cho hoạt động sản xuất nông nghiệp có
chiều hướng suy giảm, thu nhập của hộ nông dân, xã viên sa sút.
1.2. Giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975 Hợp tác xã nông
nghiệp trong thử thách của chiến tranh.
Từ đầu năm 1965 đế quốc mỹ đã huy động một lực lượng lớn
không quân, hải quân đánh phá miền bắc nhằm tiêu diệt tiềm lực
kinh tế quốc phòng của miền bắc, chặn đứng sự tiếp viện từ hậu
phương lớn vào tuyền tuyến lớn. Để đối phó với đế quốc mỹ và
đánh bại âm mưu của địch. Đảng và Nhà nước ta có chủ trương tiếp
tục củng cố hợp tác xã và tăng cường chi viện sức người, sức của
cho cách mạng miền nam.
Trong năm chiến tranh, các Hợp tác xã tiếp tục đẩy mạnh
cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật cùng với việc áp
dụng thành tựu giống mới, cùng với sự đầu tư của Nhà nước sự hỗ
trợ của công nghiệp trung ương, công nghiệp địa phương mà các
14

×