Kết cấu của bài tiểu luận
Chương I: Những vấn đề chung về lãi suất
1. Định nghĩa về lãi suất
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương II: Rủi ro lãi suất trong ngân hàng thương mại
1. Định nghĩa về rủi ro lãi suất
2. Nguyên nhân của rủi ro lãi suất
3. Các trường hợp gây rủi ro lãi suất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại
Chương III: Hoạt động quản lí rủi ro lãi suất của các ngân hàng
thương mại
1. Quản lí rủi ro lãi suất
2. Thực trạng quản lí rủi ro lãi suất tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam
3. Giải pháp hạn chế rủi ro lãi suất cho các NHTM ở Việt Nam hiện nay
Lời mở đầu
Trong hoạt động kinh doanh, các ngân hàng thương mại phải đối phó với rất
nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỉ giá… Với
chức năng là trung gian tài chính, Ngân hàng đi vay và nhận tiền gửi để cho vay thì
việc lãi suất thị trường có sự biến động lớn có thể sẽ gây ra rủi ro lãi suất, thậm chí
trong nhiều trường hợp đã gây ra thua lỗ cho không ít ngân hàng thương mại. Ví dụ
điển hình là trường hợp của Frist Bank of System Inc of Mineapolis lỗ 500 triệu
USD vào cuối thập kỷ 80 và phải bán toà nhà trự sở ngân hàng vì gặp phải rủi ro lãi
suất.
Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro đặc thù của các Ngân hàng thương
mại. Rủi ro lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập cũng như giá trị vốn chủ sở
hữu của Ngân hàng vì thu nhập từ lãi và chi phí từ lãi là những nguồn thu và các
khoản chi chủ yếu của các ngân hàng thương mại.
Chính thức gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) và các tổ chức khác
trong khu vực, Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng
đang phải cạnh tranh với các nền kinh tế, các tổ chức tài chính khác trên toàn thế
giới. Để tồn tại và phát triển bền vững trong cuộc cạnh tranh này các NHTMCP phải
nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh về mọi mặt. Với ý tưởng này nhóm chúng em
chọn đề tài “Rủi ro lãi suất trong các ngân hàng thương mại” để giúp cho người đọc
hiểu hơn về rủi ro lãi suất trong ngân hàng và cũng mong muốn giúp các ngân hàng
thương mại cổ phần phát triển vững vàng hơn trong thời gian tới.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÃI SUẤT
1. Định nghĩa về lãi suất: Khi sử dụng bất kì một khoản tín dụng nào, người vay
cũng phải trả một phần giá trị ngoài phần gốc vay ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của
phần tăng thêm này so với phần gốc vay ban đầu chính là lãi suất. Đối với một
ngân hàng thì lãi suất tiền gửi dùng để tính lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất
cho vay dùng để tính lãi mà khách hàng phải trả cho ngân hàng. Để ngân hàng
kinh doanh có lãi thì về mặt nguyên tắc lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn
lãi suất tiền gửi bình quân.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng của ngân hàng:
2.1 . Chính sách điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước: Ngày 16/5/2008
NHNN đã ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN để thay thế cho quyết
định 546/2002/QĐ/NHNN về cơ chế lãi suất thoả thuận, quy định cách xác định
lãi suất cho vay của cácngân hàng thương mại không được vượt quá 150% lãi
suất hiện hành do hành nước công bố. Hiện nay các NHTM thực hiện cho vay
cả theo lãi suất thoả thuận và cho vay theo biên độ của lãi suất cơ bản (biên độ
150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong cùng thời kì). Còn hoạt động huy
động vốn thì tuân theo đúng quy định theo biên độ của lãi suất cơ bản.
2.2. Tương quan cung – cầu trên thị trường vốn: Tương quan cung cầu vốn của
NHTM trên thị trường cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng của
NHTM. Khi NHTM thừa vốn khả dụng, ngân hàng sẽ không khuyến khích huy
động vốn vì vậy lãi suất huy động của ngân hàng sẽ kém hấp dẫn. Ngược lại lãi
suất cho vay lại khá hấp hẫn để thu hút các khách hàng đến Ngân hàng vay
vốn.
2.3. Chính sách khách hàng của NHTM: Lãi suất tín dụng của NHTM cũng phụ
thuộc khá nhiều vào chính sách tín dụng của ngân hàng. Ví dụ như đối với các
khách hàng lớn, để khuyến khích việc mở tài khoản tại ngân hàng mình thì các
ngân hàng cũng đưa ra mức lãi suất cực kì cạnh tranh và các ưu đãi đi kèm
khác.
CHƯƠNG II: RỦI RO LÃI SUẤT TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Định nghĩa về rủi ro lãi suất:
1.1 Định nghĩa: Khi huy động vốn của doanh nghiệp và dân cư, ngân hàng phải trả
lãi. Khi tài trợ, ngân hàng thu lãi, lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và chứng
khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng hoặc
gây tổn thất cho ngân hàng. Như vậy, rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do
chênh lệch lãi suất giảm khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến gắn với thay
đổi nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn, quy mô và kỳ
hạn của các hợp đồng kỳ hạn…
1.2. 2. Ví dụ:
Giả sử một ngân hàng đang có nhu cầu cho vay 2 khoản:
- 100 triệu, thời hạn 1 năm, lãi suất thoả thuận 12%/năm (1 năm thay đổi lãi suất
1 lần)
- 100 triệu, thời hạn 2 năm, lãi suất thoả thuận 14%/năm (2 năm thay đổi lãi suất
1 lần)
Ngân hàng này tìm kiếm nguồn cho vay bằng cách vay trên thị trường liên ngân
hàng 200 triệu với lãi suất cố định 8%/năm, nếu vay 1 năm và 9%/năm, nếu vay 2
năm.
a.Ngân hàng ở vị thế tái tài trợ
Tình trạng tái tài trợ là tình trạng trong đó kỳ hạn của tài sản dài hơn kỳ hạn của
nguồn tài trợ hay thời hạn cho vay > thời hạn nguồn vốn tài trợ nó.
- Giả sử ngân hàng vay trên thị trường liên ngân hàng 200 triệu, kỳ hạn 1 năm với
lãi suất 8%/năm.
- Sau 1 năm: + 100 triệu cho vay thời hạn 1 năm được trả.
+ 200 triệu vay trên thị trường liên ngân hàng đến hạn trả.
Khoản gốc thu được không đáp ứng được nhu cầu chi trả, để có tiền trả 100 triệu
còn lại, ngân hàng tiếp tục vay thêm khoản tiền này trên thị trường liên ngân hàng.
Như vậy, ngân hàng phải tài trợ khoản cho vay 2 năm bằng một khoản vay vào năm
thứ 2.
Đối với khoản cho vay 1 năm, chênh lệch lãi suất mà ngân hàng thu được = 12%
- 8% = 4%.
Vào năm thứ 2, nếu lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không đổi là 8%/năm
khi vay với thời hạn 1 năm thì chênh lệch lãi suất ngân hàng thu được của khoản cho
vay 2 năm là: 14% - 8% = 6%.
Nhưng nếu lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng lên lớn hơn 8%/năm thì
chênh lệch lãi suất ngân hàng thu được sẽ giảm xuống nhỏ hơn 6% hay thu nhập của
ngân hàng giảm xuống, có thể ngân hàng còn bị lỗ.
b.Ngân hàng ở vị thế tái đầu tư
Tình trạng tái tài trợ là tình trạng trong đó kỳ hạn của tài sản nhỏ hơn kỳ hạn của
nguồn tài trợ. Hay thời hạn cho vay < thời hạn nguồn vốn tài trợ nó.
Cũng với ví dụ như trên, giả sử ngân hàng vay trên thị trường liên ngân hàng 200
triệu, kỳ hạn 2 năm với lãi suất 9%/năm.
- Sau 1 năm: + 100 triệu cho vay thời hạn 1 năm được trả.
+ 200 triệu vay trên thị trường liên ngân hàng chưa đến hạn trả.
Khoản gốc 100 triệu thu được có thể cho vay một khoản mới: tái đầu tư cho khoản
vay vừa được trả.
Đối với khoản cho vay 1 năm, chênh lệch lãi suất mà ngân hàng thu được = 12% -
9% = 3%.
Vào năm thứ 2, nếu lãi suất cho vay trên thị trường không đổi là 12%/năm với
thời hạn 1 năm thì chênh lệch lãi suất ngân hàng thu được của khoản tái đầu tư này
là: 3%.
Nhưng nếu lãi suất cho vay thoả thuận của khoản 100 triệu này giảm xuống nhỏ
hơn 12%/năm thì chênh lệch lãi suất ngân hàng thu được sẽ giảm xuống nhỏ hơn 3%
hay thu nhập của ngân hàng giảm xuống, có thể ngân hàng còn bị lỗ.
2.Nguyên nhân của rủi ro lãi suất
2.1. Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản
Trong môi trường cạnh tranh cao giữa các ngân hàng như hiện nay thì cơ hội
để tìm kiếm đầu vào và đầu ra cho hoạt động của ngân hàng ngày càng thu hẹp do đó
sẽ không cho phép các ngân hàng có nhiều lựa chọn cơ hội đầu tư như mong muốn
về qui mô, kỳ hạn …việc tìm kiếm đầu vào cũng có chung những đặc điểm như thế.
Đối với một ngân hàng, các tài sản và nguồn của ngân hàng có kì hạn khác
nhau. Khi nghiên cứu về rủi ro lãi suất của ngân hàng, các nhà tài chính chỉ quan tâm
tới kì hạn đặt lại lãi suất. Đó là kì hạn mà khi kết thúc lãi suất sẽ bị thay đổi theo lãi
suất thị trường. Căn cứ vào kì hạn này, ngân hàng chia tài sản và nguồn vốn thành
loại nhạy cảm với lãi suất và loại kém nhạy cảm với lãi suất. Các tài sản và nguồn
nhạy cảm với lãi suất thường là các loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất
mới khi lãi suất thị trường thay đổi, ví dụ như khoản tiền gửi ngắn hạn, các khoản
cho vay và đi vay trên thi trường liên ngân hàng, chứng khoán ngắn hạn của chính
phủ, các khoản cho vay ngắn hạn. Các loại ít nhạy cảm thuộc về tài sản và nguồn
trung và dài hạn với lãi suất cố định.
Ví dụ với ngân hàng Á Châu, xét năm tài chính là năm 2009, tổng tài sản
ngắn hạn nhạy cảm với lãi suất là 124,735,708 triệu và tổng nguồn vốn nhạy cảm
với lãi suất là 154,095,984 triệu. Khi lãi suất thị trường tăng hay giảm thì các khoản
tiền trên nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới. Ngược lại với những tài sản và
nguồn vốn dài hạn của ngân hàng có kì hạn khoảng vài năm thì khi lãi suất thay đổi,
chỉ một phần nhỏ sắp đến hạn hoặc mới gửi là có khả năng chuyển sang lãi suất mới.
Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản được đo bằng khe hở lãi suất.
Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất – Nguồn nhạy cảm lãi suất
Khe hở lãi suất đối với một ngân hàng có thể bằng 0 hoặc khác 0. Ngân hàng
có khe hở dương nếu tái sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm (kì hạn huy động dài
hơn sử dụng) và có khe hở âm nếu tài sản nhạy cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm. Nếu
khe hở lãi suất bằng 0 thì cho dù lãi suất có tăng hay giảm thì chênh lệch thu chi lãi
cũng không thay đổi.
2.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngược chiều với dự kiến của ngân hàng:
Lãi suất thị trường thường xuyên thay đổi. Ngân hàng luôn nghiên cứu và dự
báo lãi suất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính
xác mức độ thay đổi của lãi suất. Việc dự báo sự biến động của lãi suất có ảnh hưởng
đến chiến lược của ngân hàng:
*Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất dương:
-Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất tăng;
-Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lếch lãi suất giảm;
*Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất âm:
-Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất giảm;
-Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất tăng;
Giả sử khi một ngân hàng duy trì khe hở lãi suất âm và ngân hàng dự kiến trong
tương lai mức lãi suất sẽ giảm thì khi đó chênh lệch lãi suất của ngân hàng sẽ tăng.
Tuy nhiên thực tế thì rủi ro lãi suất lại tăng lên làm cho thu nhập từ lãi của ngân hàng
giảm và rủi ro lãi suất xảy ra đối với ngân hàng.
2.3. Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định:
Nếu ngân hàng thả nổi tất cả các hợp đồng huy động và sử dụng vốn, thu lãi
và chi lãi sẽ đều tăng hoặc giảm như nhau khi lãi suất thay đổi và không có rủi ro lãi
suất. Tuy nhiên trên thực tế các ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất cố định
trong suốt kì hạn đặt lại lãi suất. Ví dụ như khoản cho vay 2 năm thường có kì hạn
đặt lại lãi suất là 2 năm hoặc 1 năm, hoặc khoản đi vay thường có kì hạn đặt lại lãi
suất là thời hạn vay cho nên trong kì hạn đặt lại lãi suất khi lãi suất có tăng hay giảm
thì mức lãi suất áp dụng vẫn không thay đổi.
3.Các trường hợp gây rủi ro lãi suất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại
Rủi ro lãi suất trong huy động vốn: Đây là trường hợp rủi ro khi ngân hàng
huy động quá nhiều tiền gửi có kì hạn dài, lãi suất cao nhưng sau đó lãi suất thị
trường lại giảm xuống do điều hành của chính phủ hay do quan hệ cung cầu…. Ví dụ
như trường hợp điều tiết lãi suất của NHNN vào những tháng cuối năm 2008 và đầu
năm 2009 cũng khiến nhiều ngân hàng gặp phỉ rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất trong cho vay: Đây là loại rủi ro có ảnh hưởng khá lớn và
thường xuyên vì hoạt động kinh doanh chủ yếu cuả các NHTM Vịêt Nam vẫn hoạt
động cho vay và tỉ lệ thu nhập từ lãi chiếm tỉ trọng lớn trong thu nhập của ngân
hàng. Rủi ro lãi suất trong cho vay xảy ra khi lãi suất thị trường giảm, các ngân hàng
phải cho vay với lãi suất thị trường trong khi đã huy động vốn mới mức lãi suất cao
hơn. Thêm vào đó là sự cạnh trnah giữa các ngân hàng cũng làm cho mức lãi suất
luôn biến đổi. Khi lãi suất cơ bản tăng lãi suất huy động cũng sẽ tăng, tuy nhiên chỉ
áp dụng đối với các khoản cho vay mới phát sinh, còn các khoản dư nợ hiện hành
của ngân hàng thương mại đặc biệt là các khoản cho vay trung và dài hạn có lãi suât
danh nghĩa ghi trên hợp đồng ở mức thấp thì rất dễ gặp rủi ro tín dụng. Trong thực
tế, có rất ít ngân hàng có đủ cơ cấu cân đối giữa nguồn vốn trung, dài hạn với dư nợ
trung, dài hạn, nhiều trường hợp trong khi chi phí huy động tăng nhưng thu nhập của
các khoản cho vay trung và dài hạn vẫn thực hiện theo như hợp đồng tín dụng sẽ làm
giảm thu nhập của ngân hàng.
Rủi ro lãi suất do sự thay đổi cung cầu vốn trên thị trường liên ngân hàng:
Các khoản vay và cho vay trên thị trường này thường rất ngắn, lãi suất cũng thường
xuyên biến đổi. Các NHTM vay vốn chủ yếu để đảm bảo khả năng thanh khoản và
chênh lệch lãi suất song cũng phải có sự phân tích lãi suất một cách cận thận vì rất
dễ gặp rủi ro.
CHƯƠNG III: HOẠT ĐỘNG QUẢN LÍ RỦI RO LÃI SUẤT CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.Các biện pháp quản lí rủi ro lãi suất:
1.1. Mục tiêu của hoạt động quản lý rủi ro lãi suất
Mục tiêu quan trọng trong hoạt động quản lý rủi ro lãi suất là bảo vệ thu nhập
dự kiến ở mức tương đối ổn định bất chấp sự thay đổi của lãi suất. Để đạt được mục
tiêu này, ngân hàng phải duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) cố định. Đây là hệ
số giúp cho ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lãi của ngân hàng thông qua việc
kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp
nhất. Hệ số này cho thấy nếu chi phí huy động vốn tăng nhanh hơn lãi thu từ cho vay
và đầu tư hoặc lãi thu từ cho vay và đầu tư giảm nhanh hơn chi phí huy động vốn sẽ
làm cho NIM bị thu hẹp lại, rủi ro lãi suất sẽ lớn.
Hệ số chênh lệch lãi = Thu nhập lãi – Chi phí lãi *100
thuần (NIM) Tổng TSC sinh lời
Trong đó:
Thu nhập lãi: lãi cho vay, đầu tư, lãi tiền gửi tại ngân hàng khác, lãi đầu tư chứng
khoán…
Chi phí lãi: chi phí huy động vốn, đi vay
Tổng TSC sinh lời = Tổng TSC – Tiền mặt & Tài sản cố định
Như vậy, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của ngân hàng chịu sự tác động của nhiều
yếu tố như:
Những thay đổi trong lãi suất
Những thay đổi trong mức chênh lệch giữa lãi thu từ TSC và chi phí phải trả lãi
cho TSN.
Những thay đổi về giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất mà ngân hàng nắm giữ khi mở
rộng hay thu hẹp quy mô hoạt động của mình.
Những thay đổi về giá trị TSN phải trả lãi mà ngân hàng sử dụng để tài trợ cho
danh mục tài sản sinh lời khi mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động.
Những thay đổi về cấu trúc của TSC và TSN mà ngân hàng thực hiện khi tiến
hành chuyển đổi TSC, TSN giữa lãi suất cố định và lãi suất thay đổi, giữa kỳ hạn
ngắn và kỳ hạn dài, giữa tài sản mang lại mức thu nhập thấp với tài sản mang lại
mức thu nhập cao.
Thông qua việc duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên chúng ta thấy rằng, việc phối hợp
giữa quản trị TSN và TSC phải luôn luôn được thực hiện song song, hỗ trợ lẫn nhau
mới có thể bảo vệ thu nhập dự kiến của Ngân hàng khỏi rủi ro lãi suất. Để có thể
thấy rõ hơn quan hệ giữa quản trị TSN và quản trị TSC, chúng ta xem xét cách
phòng chống rủi ro lãi suất thông qua việc xác định - kiểm soát khe hở nhạy cảm lãi
suất và việc quản lý khe hở kỳ hạn của các ngân hàng.
1.2. Quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất
Để thực hiện việc quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất, ngân hàng cần tiến hành phân
tích kỳ hạn, định giá lại các cơ hội gắn với những tài sản sinh lợi của ngân hàng,
những khoản tiền gửi cũng như với những khoản vốn vay trên thị trường. Tại bất cứ
thời điểm nào, ngân hàng có thể tự bảo vệ trước những thay đổi của lãi suất bằng
cách bảo đảm cân bằng sau:
Giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất = Giá trị nợ nhạy cảm lãi suất
Trong đó:
Tài sản nhạy cảm lãi suất là những TS có thể được định giá lại khi lãi suất thay
đổi: các khoản cho vay sắp đến hạn, các khoản cho vay và chứng khoán có lãi suất
thả nổi…
Nợ nhạy cảm lãi suất là những khoản vốn mà lãi suất được điều chỉnh theo điều
kiện thị trường: tiết kiệm ngắn hạn, tiền gửi mang lãi suất thả nổi…
Khi giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất và giá trị nợ nhạy cảm lãi suất không cân bằng,
khe hở nhạy cảm lãi suất được hình thành:
Khe hở nhạy = Giá trị tài sản nhạy - Giá trị nợ nhạy
cảm lãi suất (R) cảm lãi suất cảm lãi suất
Trong mỗi giai đoạn kế hoạch (ngày, tuần, tháng…), nếu giá trị tài sản nhạy cảm lãi
suất lớn hơn giá trị nợ nhạy cảm lãi suất, ta có khe hở nhạy cảm lãi suất dương hay
khe hở nhạy cảm tài sản. Và ngược lại, nếu giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất nhỏ hơn
giá trị nợ nhạy cảm lãi suất, ta có khe hở nhạy cảm lãi suất âm hay khe hở nhạy cảm
nợ.
Trường hợp R = 0: giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất bằng giá trị nợ nhạy cảm lãi
suất: khi lãi suất tăng hay giảm cũng không làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân
hàng.
Trường hợp R > 0: giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất lớn hơn giá trị nợ nhạy cảm lãi
suất: Khi lãi suất thị trường tăng, lợi nhuận của ngân hàng sẽ tăng. Và ngược lại, khi
lãi suất thị trường giảm, thu nhập từ lãi giảm nhanh hơn chi phí lãi phải trả, rủi ro lãi
suất sẽ xuất hiện làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Trường hợp R < 0: Giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất nhỏ hơn giá trị nợ nhạy cảm
lãi suất. Khi lãi suất thị trường giảm lợi nhuận của ngân hàng sẽ tăng. Và ngược lại,
khi lãi suất thị trường tăng, thu lãi tăng chậm hơn chi phí lãi, rủi ro lãi suất xuất hiện
làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Như vậy:
Khi R = 0: Rủi ro lãi suất không xuất hiện
Khi R > 0: Rủi ro lãi suất xuất hiện khi lãi suất thị trường giảm vì NIM giảm.
Lúc đó, ngân hàng có thể không làm gì vì nghĩ lãi suất sẽ tăng lại hoặc ổn định; hoặc
kéo dài kỳ hạn của TSC hoặc thu hẹp kỳ hạn của danh mục TSN; hoặc tăng TSN
nhạy cảm lãi suất hoặc giảm TSC nhạy cảm lãi suất
Khi R < 0: Rủi ro lãi suất xuất hiện khi lãi suất thị trường tăng vì NIM giảm.
Ngân hàng có thể không làm gì vì nghĩ lãi suất sẽ giảm hoặc ổn định; hoặc thu hẹp
kỳ hạn của TSC hoặc kéo dài kỳ hạn của danh mục TSN; hoặc giảm TSN nhạy cảm
lãi suất hoặc tăng TSC nhạy cảm lãi suất.
Mức thay đổi lợi nhuận = R * Mức thay đổi lãi suất.
Nếu ngân hàng tin vào khả năng dự báo lãi suất của mình, họ thường xuyên thay đổi
khe hở nhạy cảm lãi suất, đặt ngân hàng vào trạng thái nhạy cảm TSC hoặc nhạy
cảm TSN. Đây được gọi là phương pháp quản lý khe hở năng động:
Những dự Giá trị khe Phản ứng của các nhà quản Kết quả (nếu dự đoán
đoán của ngân hở nhạy lý đúng)
hàng về sự cảm lãi
thay đổi của suất tối ưu
lãi suất.
Lãi suất thị Khe hở Tăng tài sản nhạy cảm lãi Thu nhập lãi từ TSC
trường tăng dương suất sẽ tăng nhiều hơn chi
Giảm nợ nhạy cảm lãi suất phí trả lãi
Lãi suất thị Khe hở Giảm tài sản nhạy cảm lãi Chi phí trả lãi cho các
trường giảm âm suất khoản nợ sẽ giảm
Tăng nợ nhạy cảm lãi suất nhiều hơn thu lãi.
Tuy nhiên, chiến lược quản lý năng động buộc các ngân hàng phải đối mặt với nhiều
rủi ro hơn vì khả năng dự đoán đúng chiều hướng thay đổi của lãi suất rất thấp nên
phần lớn các ngân hàng chỉ sử dụng để phòng ngừa rủi ro chứ không phải để tăng thu
nhập.
Các ngân hàng lớn ngày nay thường sử dụng máy vi tính để xác định giá trị TSC
nhạy cảm lãi suất và giá trị TSN nhạy cảm lãi suất trong những khoảng thời gian
khác nhau và quản lý mức độ nhạy cảm lãi suất dựa trên quan điểm quản lý rủi ro và
dựa trên sự nhạy cảm về rủi ro của những người quản lý ngân hàng. Tuy nhiên, kỹ
thuật quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất còn có nhiều hạn chế. Sự lựa chọn thời gian
để phân tích hoàn toàn tùy theo từng ngân hàng. Đồng thời, lãi suất trong hoạt động
ngân hàng và lãi suất thị trường thay đổi với những tốc độ khác nhau. Và cuối cùng,
việc quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất không nhằm mục đích bảo vệ giá trị TSC và
đặc biệt là không bảo vệ được giá trị ròng của ngân hàng. Để làm được việc đó,
chúng ta phải đi vào phân tích khe hở kỳ hạn.
1.2.1. Quản lý khe hở kỳ hạn.
Được sử dụng để khắc phục nhược điểm của việc dựa vào khe hở nhạy cảm lãi suất
để đánh giá rủi ro lãi suất là chỉ chú trọng vào số liệu trên sổ sách kế toán của vốn
mà không nghiên cứu đầy đủ tác động của rủi ro lãi suất đến giá trị thị trường của
vốn. Hơn nữa, quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất không đưa ra một con số cụ thể về
mức độ rủi ro lãi suất tổng thể của ngân hàng. Để đi vào phân tích khe hở kỳ hạn,
trước tiên chúng ta làm quen với khái niệm kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả. Kỳ
hạn hoàn vốn của tài sản là thời gian trung bình cần thiết để thu hồi khoản vốn đã bỏ
ra để đầu tư, là thời gian trung bình dựa trên dòng tiền dự tính sẽ nhận được trong
tương lai. Kỳ hạn hoàn trả của TSN là thời gian trung bình cần thiết để hoàn trả
khoản vốn đã huy động, là thời gian trung bình của dòng tiền dự tính ra khỏi ngân
hàng.
Khe hở = Kỳ hạn hoàn - Kỳ hạn hoàn trả * Tổng nợ
kỳ hạn vốn trung bình trung bình của Tổng tài sản
của tài sản nợ
Để phòng chống rủi ro lãi suất, các ngân hàng thường cố gắng duy trì cân đối giữa
tài sản và nguồn vốn vay sao cho khe hở kỳ hạn tiến gần tới 0, lúc đó kỳ hạn hoàn
vốn trung bình của tài sản sẽ gần bằng kỳ hạn hoàn trả trung bình của nguồn vốn.
Bên cạnh đó, trong một ngân hàng, giá trị TSC luôn luôn phải lớn hơn giá trị TSN để
đảm bảo khả năng thanh toán, nên nếu ngân hàng muốn có khe hở kỳ hạn bằng cần
phải đảm bảo:
Kỳ hạn hoàn vốn Kỳ hạn hoàn trả trung Tổng giá trị TSN
trung bình theo giá = bình theo giá trị của * Tổng giá trị TSC
trị tài sản TSN
Như vậy, để có thể loại bỏ rủi ro lãi suất, giá trị vốn vay phải thay đổi nhiều hơn giá
trị TSC.
Theo công thức, nếu kỳ hạn hoàn vốn trung bình của TSC không tương đương với
kỳ hạn hoàn trả trung bình của TSN thì ngân hàng sẽ phải chịu rủi ro lãi suất, cụ thể:
+ Khi khe hở kỳ hạn dương: Kỳ hạn hoàn vốn trung bình của tài sản lớn hơn Kỳ
hạn hoàn trả trung bình nợ.
Nếu lãi suất tăng sẽ làm giảm giá trị ròng của ngân hàng bởi vì giá trị TSC giảm
nhiều hơn giá trị TSN.
Nếu lãi suất giảm sẽ làm tăng giá trị ròng của ngân hàng.
+ Khi khe hở kỳ hạn âm: Kỳ hạn hoàn vốn trung bình của tài sản nhỏ hơn Kỳ hạn
hoàn trả trung bình nợ.
Nếu lãi suất tăng sẽ làm tăng giá trị ròng của ngân hàng.
Nếu lãi suất giảm sẽ làm giảm giá trị ròng của ngân hàng.
Công thức chuẩn để tính kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả của một công cụ tài
chính là:
Như ta đã biết:
Giá trị ròng của = Giá trị tổng - Giá trị tổng vốn
ngân hàng tài sản huy động
NW = A – L
Khi lãi suất thay đổi thì ∆NW = ∆ A – ∆L
Đồng thời, Lý thuyết Danh mục đầu tư trong lĩnh vực tài chính đã chỉ ra rằng: Lãi
suất tăng sẽ làm giảm giá trị thị trường của các tài sản và của các khoản nợ mang lãi
suất cố định; Và Kỳ hạn của TSC và của TSN càng dài thì giá trị thị trường của
chúng càng giảm mạnh khi lãi suất tăng. Vì vậy, mức độ thay đổi giá trị ròng dưới
tác động của lãi suất phụ thuộc vào tương quan về kỳ hạn giữa tài sản và các khoản
vốn vay của ngân hàng. Ta có công thức:
Trong đó:
NW: Sự thay đổi giá trị ròng của ngân hàng
DA : Kỳ hạn hoàn vốn trung bình theo giá trị của danh mục tài sản
A: Tổng giá trị Tài sản
DL: Kỳ hạn hoàn trả trung bình theo giá của danh mục nợ
L: Tổng giá trị nợ
∆r: Sự thay đổi lãi suất
i: Lãi suất ban đầu.
Mặc dù các ngân hàng có thể sử dụng công cụ khe hở kỳ hạn một cách dễ dàng
nhưng nó vẫn tồn tại một số hạn chế: rất khó khăn trong việc tìm kiếm các TSC,
TSN có kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả phù hợp với yêu cầu của ngân hàng. Đối
với một số loại tài khoản không thể xác định được chính xác mô hình luồng tiền vào
ra làm cho việc tính kỳ hạn hoàn trả, kỳ hạn hoàn vốn rất khó khăn. Tuy nhiên, nó
vẫn được sử dụng để giúp các ngân hàng hạn chế rủi ro lãi suất.
I.4. Hạn chế rủi ro lãi suất
Qua phần trình bày về khe hở nhạy cảm lãi suất và khe hở kỳ hạn ở trên ta có thể
tóm lại một số biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất như sau.
I.4.1. Duy trì sự phù hợp về nguồn và tài sản
Để hạn chế rủi ro lãi suất có thể tác động vào yếu tố chủ yếu tạo rủi ro, đó là duy trì
khe hở lãi suất càng thấp càng tốt (khe hở lãi suất gần =0). Nội dung chủ yếu của
phương pháp này là tìm kiếm các nguồn có kì hạn phù hợp với kì hạn của tài sản.
Trong trường hợp có sự khác biệt lớn về kì hạn danh nghĩa, ngân hàng tính toán để
tạo nên sự phù hợp về kì hạn đặt giá. Tuy nhiên phương pháp này loại trừ luôn cả
việc gia tăng các khoản thu khi lãi suất thay đổi phù hợp với dự đoán của nhà quản
lí.
I.4.2. Thực hiện trao đổi lãi suất
Tính chất hoạt động và mục tiêu kinh doanh trong mỗi thời kì của từng ngân hàng
quyết định trạng thái khe hở lãi suất. Thay đổi trạng thái này đòi hỏi phải có thời
gian tương đối lâu trong khi thay đổi của lãi suất thường rất nhanh chóng. Nhiều NH
thực hiện các hoán đổi lãi suất để hạn chế rủi ro lãi suất. Một NH do đặc điểm sản
xuất kinh doanh buộc phải duy trì khe hở lãi suất dương có thể hoán đổi rủi ro (hoặc
sinh lời) với NH có khe hở lãi suất âm. Như vậy hợp đồng hoán đổi xác định lại khe
hở lãi suất khi lãi suất thay đổi.
Hoán đổi lãi suất là kĩ thuật tương đối phức tạp, đòi hỏi NH phải nghiên cứu kĩ
lưỡng xu hướng và mức độ thay đổi có thể của lãi suất. Trong nhiều trường hợp 2
NH hoán đổi phải nhờ NH trung gian sắp xếp. Chi phí hoán đổi cao hay thấp phụ
thuộc vào dự tính của mỗi bên và làm tăng chi phí của NH. Nếu dự đoán của NH sai
hoán đổi lãi suất có thể gây tổn thất cho NH.
I.4.3. Áp dụng lãi suất thả nổi
Khi lãi suất cố định thì thời hạn nguồn và tài sản là yếu tố tạo ra rủi ro lãi suất tiềm
năng. Để hạn chế rủi ro lãi suất nhiều NH đã áp dụng chế độ thả nổi lãi suất, theo đó
lãi suất cho vay sẽ thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi lãi suất nguồn trên thị trường.
Từ những năm 1970 chế độ thả nổi lãi suất là phổ biến, đặc biệt do tính chất dài hạn
của các khoản tín dụng trên thị trường USA châu Âu. Tín dụng thả nổi ngăn chặn rủi
ro lãi suất cho các NH bằng cách trút rủi ro từ NH sang người vay.
Phương pháp này đang được sử dụng ngày càng nhiều đối với các giao dịch trên thị
trường liên ngân hàng, hoặc trong các hợp đồng ngắn hạn. Tuy nhiên nó không thể
thay thế cho lãi suất cố định. Phần lớn người gửi tiết kiệm yêu cầu lãi suất cố định.
Các khách hàng vay trung và dài hạn thường yêu cầu lãi suất cố đinh để dự tính được
trước hiệu quả của dự án.
1.4.4. Sử dụng các hợp đồng kì hạn
Hợp đồng mua bán đối với chứng khoán ngắn hạn, tiền gửi NHTW. Nếu NH dự
đoán lãi suất thị trường tăng và rủi ro lãi suất có thể xảy ra (do tình trạng nguồn nhạy
cảm > tài sản nhạy cảm), ngân hàng sẽ bán các hợp đồng.
Bước 1: kí hợp đồng bán chứng khoán với giá hiện tại, xong giao tại thời điểm tương
lai.
Bước 2: đến hạn hợp đồng trên sẽ tiến hành mua chứng khoán trên thị trường với giá
thời điểm đó.
Kết quả: do lãi suất tăng nên giá chứng khoán giảm, chênh lệch giá bán tại thời điểm
hiện tại và giá mua tại thời điểm tương lai tạo nên thu nhập cho NH (được gọi là thu
nhập từ các hợp đồng dẫn xuất). Thu nhập này có thể bù đắp tổn thất do thay đổi lãi
suất.
Hợp đồng trần, sàn ( áp dụng trong trường hợp NH sử dụng lãi suất thả nổi). Khi NH
sử dụng lãi suất thả nổi để hạn chế rủi ro lãi suất, nếu lãi suất nguồn và tài sản thay
đổi ko cùng mức độ và thời gian, thu nhập từ lãi của NH vẫn bị giảm sút. Bằng việc
cam kết cho vay với lãi suất cố định cao hơn với mức hiện tại, NH đã bán hợp đồng
sớm về lãi suất. Các hợp đồng này bảo vệ NH và cả người vay.
2.Thực trạng quản lí rủi ro lãi suất tại các ngân hàng thương mại cổ phần
Trong thực tế, các Ngân hàng rất khó thuyết phục khách hàng để có thể huy động
phù hợp với chương trình Quản lý TSN và TSC tại Ngân hàng. Ngoài ra, đối với các
khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm, rất khó dự đoán được khoản tiền này sẽ tăng lên hay
giảm xuống? Và khả năng thu hồi nợ đến hạn của khách hàng cũng không chính xác.
Nên việc xây dựng được một dòng tiền ra - vào cân xứng kỳ hạn rất khó thực hiện.
Vì vậy, rủi ro lãi suất luôn luôn tồn tại trong một ngân hàng.
Hiện nay, một số ngân hàng Quản lý TSN - TSC để bảo vệ lợi nhuận của ngân
hàng tránh rủi ro lãi suất bằng biểu đồ độ lệch. Đây là phương pháp đo lường bằng
biểu đồ, phương pháp này thể hiện số vốn chịu rủi ro lãi suất và số vốn theo từng thời
kỳ tái định giá. Bằng cách sử dụng khe hở nhạy cảm lãi suất cùng với việc phân loại
các TSN - TSC theo kỳ hạn tái định giá để lập biểu đồ độ lệch.
Ví dụ: Ta xác định các TSN – TSC theo từng kỳ hạn tái định giá như sau: ĐVT: tỷ
đồng
Nhóm Kỳ hạn tái định giá Giá trị của TSN Giá trị của TSC
1 1 tuần 100 110
2 1 tuần – 1 tháng 320 240
3 1 tháng – 2 tháng 400 470
4 2 tháng – 6 tháng 720 700
5 6 tháng – 1 năm 650 670
6 1 năm – 2 năm 560 670
7 2 năm – 5 năm 980 1200
Dựa vào biểu đồ độ lệch trên Nhà quản trị có thể có cái nhìn tổng quát về tình
hình TSN – TSC của ngân hàng, có thể đánh giá được tính thanh khoản của hệ thống
ứng với từng thời điểm rồi dựa vào kinh nghiệm của bản thân, diễn biến thị trường
để có kết luận định tính về thu nhập của ngân hàng chứ không có một kết quả định
lượng trong trường hợp lãi suất thị trường biến động. Khi có một sự thay đổi lãi suất
trên thị trường, các nhà quản trị sẽ không thể tính toán được mức độ ảnh hưởng của
sự thay đổi lãi suất đến lợi nhuận của ngân hàng gây khó khăn cho việc kiểm soát rủi
ro lãi suất.
Ngoài ra, các Ngân hàng nhỏ chỉ quản lý TSN – TSC theo kinh nghiệm. Dựa
vào kinh nghiệm và số liệu quá khứ để dự đoán mức độ thay đổi của dòng tiền vào,
đặc biệt là nguồn vốn huy động. Sau đó, tùy vào từng thời kỳ để phân phối nguồn
vốn này theo tỷ lệ thích hợp đối với tiền mặt tại quỹ, đầu tư chứng khoán có tính
thanh khoản cao, cho vay. Thông thường, tại các ngân hàng khi dư nợ cho vay chiếm
khoảng 75%-90% tổng nguồn vốn huy động sẽ hạn chế cho vay đồng thời đẩy mạnh
hơn nữa các biện pháp để thu hút nguồn tiền gửi.
Bên cạnh đó, việc kiểm soát rủi ro lãi suất tại các Ngân hàng còn tồn tại những vấn
đề sau:
Chiến lược quản lý dòng tiền vào – ra của ngân hàng TMCP đều rất bao quát.
Các NHTMCP chưa có công cụ phù hợp để lượng hóa rủi ro, báo cáo phục vụ quản lý
thanh khoản chủ yếu là ngắn hạn (thường dưới 2 tuần), các báo cáo về kế hoạch giải
ngân, kế hoạch thu hồi nợ trong ngắn hạn được lập nhưng số liệu báo cáo thường
không theo sát thực tế; các báo cáo phân tích dài hạn để phục vụ mục tiêu huy động và
sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Mặc dù cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro thanh khoản đã
được xây dựng nhưng việc vận hành nó chưa hiệu quả. Rất ít tổ chức tín dụng xây
dựng kế hoạch đối phó với tình trạng khủng hoảng thanh khoản, rủi ro lãi suất nếu có
xây dựng thì cũng chưa được luyện tập và cập nhật thường xuyên, liên tục.
Các NHTM chưa xây dựng được chính sách lãi suất phù hợp với mức độ rủi ro
và hoạt động của Ngân hàng, chính sách lãi suất hiện nay của các Ngân hàng rất dễ bị
dẫn dắt bởi các yếu tố thị trường; chưa lượng hóa được rủi ro lãi suất cho cơ cấu TSN
- TSC hiện tại của Ngân hàng.
Hệ thống công nghệ thông tin quản lý chưa hỗ trợ được việc lập báo cáo phục
vụ quản lý rủi ro lãi suất. Hầu hết các Ngân hàng đều chưa có các công cụ nhằm phân
tích độ nhạy của lãi suất để xác định ảnh hưởng của việc thay đổi lãi suất đối với kết
quả hoạt động kinh doanh khi thị trường thay đổi.
Nhiều ngân hàng vay tiền trên thị trường LNH không phải để bù đắp thiếu hụt
thanh khoản tạm thời mà để đầu tư: Ngoại trừ một số ít ngân hàng (TCB, STB, MSB)
sử dụng nguồn tiền vay LNH để đảm bảo thiếu hụt thanh khoản tạm thời, còn lại đa số
các ngân hàng đều sử dụng nguồn vốn vay LNH để đầu tư, có ngân hàng sử dụng
nguồn tiền này để đầu tư lên đến 47% tổng tài sản. Vì vậy mức độ rủi ro trong kinh
doanh của các NHTMCP trong thời gian qua rất cao nếu nguồn cung tiền giảm đi,
đồng thời công tác Quản trị TSN – TSC tại các NHTMCP không được quan tâm hoặc
các nhà quản trị cho rằng nguy cơ nguồn cung tiền giảm đi là không có, bộc lộ điểm
yếu kém về năng lực dự báo của những nhà quản trị ngân hàng. Nguồn vốn vay LNH
thường có giá trị rất lớn, mỗi khoản vay trung bình trị giá khoảng 50 tỷ đồng, vì vậy
khi nguồn vốn vay này bị rút về, nếu không thể vay LNH để trả thì việc huy động vốn
từ TCKT và dân cư để bù đắp khoản thiếu hụt này phải mất nhiều thời gian, điều này
dễ dàng đẩy các ngân hàng vào tình trạng thiếu thanh khoản.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, việc thiếu thanh khoản rất nguy hiểm
vì nó có thể ảnh hưởng đến toàn hệ thống. Khi nguồn vốn vay LNH bị rút về trong
khi các khoản đầu tư chưa đến hạn thu hồi. Nếu ngân hàng có thể huy động kịp để bù
đắp nguồn vốn LNH phải trả thì ngân hàng cũng phải đối mặt với rủi ro lãi suất rất
cao sẽ làm giảm lợi nhuận ngân hàng vì tốc độ tăng các khoản lãi thu được tăng
chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng các khoản lãi phải trả.
Rất ít các NHTMCP sử dụng công cụ phái sinh để bảo vệ lợi nhuận ngân hàng
tránh rủi ro lãi suất. các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn lẻ mặc dù
chúng được sử dụng từ đầu năm 2000, một số TCTD được NHNN cho phép thực hiện
các công cụ phái sinh như: VCB, VIB, ACB, TCB, MB, EIB, nhưng doanh số về hoạt
động này vẫn không đáng kể so với doanh số các hoạt động truyền thống.
Với những tồn taị trên các ngân hàng thương mại cần phải nâng cao hơn
nữa năng lực quản lí để đối phó với những rủi ro không mong muốn trong ngân
hàng.Các ngân hàng cũng phải hỗ trợ và hợp tác với nhau trong công tác quản lí TSN
và TSC. Nếu một ngân hàng không thực hiện tốt công tác quản lí thì sẽ đẫn đến cuộc
đua lãi suất, hậu quả cảu nó có thể ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của toàn bộ
hệ thống ngân hàng. Ngoài ra các ngân hàng cần tìm kiếm một phần mền quản trị rủi
ro thích hợp với đặc điểm của ngân hàng, giúp ngân hàng có thể bao quát, giảm thiểu
rủi ro và đưa ra chiến lược kinh doanh hiệu quả cho ngân hàng của mình.
3.Giải pháp hạn chế rủi ro lĩa suất cho các NHTM ở Việt nam hiện nay:
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng ra tăng do sự xuất hiện của
nhiều ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Xu hướng sáp nhập ngân hàng cũng đặt ra
một hướng đi cho các ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Các ngân hàng nên cấu trúc
lại nợ quá hạn và có biện pháp giám sát đặc biệt đối với những khoản nợ xấu. Mục
tiêu cạnh tranh của các ngân hàng là cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ thì mới bền
vững chứ không phải là cạnh tranh bằng lãi suất vì sẽ gây ra một cuộc đua lãi suất
trong hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó phải chú ý hiện đại hóa ngân hàng và nâng
cao năng lực điều hành, năng lực quản trị cho các ngân hàng. Chỉ có tạo được thế
mạnh vững chắc trên thị trường thì các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam mới
có thể tạo được uy tín khi huy động vốn, từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tài sản có và dư nợ tín dụng để đảm bảo an toàn
tín dụng và hiệu quả theo quy mô. Nhanh chóng giảm tỉ lệ nợ xấu của ngân hàng dưới
mức trung bình trong khu vực; kế hoach sử dụng vốn phải đặt trong kế hoạch lợi
nhuận của ngân hàng.
Đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tăng cường trang bị các
thiết bị hiện đại để phục vụ cho công tác thu thập và xử lí thông tin. Khai thác các mô
hình tổ chức và quản trị hiện đại phù hợp với đặc điểm của ngân hàng. Phát triển sản
phẩm mới, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên trong ngân hàng. Bồi dưỡng kiến thức
để nâng cao năng lực phân tích, đánh giá và đo lường rủi ro của các nhân viên.
Quản trị khe hở lãi suất, các ngân hàng cần phân loại kì hạn theo đúng bản chất
của nó. Ví dụ như khoản tiền gửi rút gốc linh hoạt thì ngân hàng không nên dựa vào kì
hạn mà ngân hàng cam kết gửi mà phải đưa vào khoản tiền gửi không có kì hạn.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu về rủi ro lãi suất, bài tiểu luận của chúng tôi về cơ
bản đã giải quyết được các vấn đề sau:
Cơ sở lí luận của lãi suất và rủi ro lãi suất đối với các ngân hàng.
Phân tích được nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất đối bới NHTM và các loại rủi ro lãi
suất. Nội dung quản lí rủi ro lãi suất cho các ngân hàng.và quan trọng nhất là quản lí
khe hở nhạy cảm lãi suất.
Bài viết đưa ra một số đề xuất, giải pháp để hạn chế rủi ro lãi suất trong ngân hàng.
Nội dung của bài viết đã đề cập đến những khía cạnh quan trọng của vấn đề rủi ro lãi
suất trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Với mong muốn bài viết sẽ đem lại
cho những người quan tâm đến vấn đề này một cái nhìn toàn diện hơn về rủi ro lãi
suất. Tuy nhiên trong bài viết vẫn còn nhiều hạn chế không thể tránh khỏi và rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến cảu thầy và của các bạn để đề tài này được thiết thực
hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quản trị ngân hàng thương mại – Peter S.Rose.
2. Rủi ro lãi suất- TS. Phạm Tiến Trinh.
3. Đại học kinh tế quốc dân. Quản trị ngân hàng thương mại(PGS.TS Phan
Thị Thu Hà chủ biên).