PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÂN UYÊN
TRƯỜNG TIỂU HỌC XÃ TRUNG ĐỒNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số biện pháp đổi mới quản lí, chỉ đạo nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Như Hoa
Chức vụ: Hiệu trưởng
Tân Uyên, năm học 2011 - 2012
1
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Ngành chỉ đạo thực hiện chủ đề năm học “Năm học tiếp tục đổi mới quản lý,
nâng cao chất lượng Giáo dục”. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lai Châu chỉ đạo thực
hiện chủ đề năm học “Năm học tiếp tục đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng Giáo
dục”. Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Tân Uyên chỉ đạo thực hiện chủ đề năm
học “Năm học tiếp tục đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng Giáo dục. Trường
Tiểu học xã Trung Đồng huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu thực hiện nghiêm túc và
nâng cao chất lượng chủ đề năm học do Ngành Giáo dục, Sở Giáo dục, Phòng Giáo
dục triển khai.
Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của trường Tiểu học xã Trung Đồng,
nói riêng, chất lượng giáo dục của huyện Tân Uyên nói chung. Năm học 2011-2012
trường xây dựng mục tiêu đạt trường chuẩn Quốc gia mức độ 1 Hiệu trưởng quyết
tâm đổi mới công tác quản lí, chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều quan
tâm, bởi vì “Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”. Để ngày mai thế giới có những
người chủ xứng đáng, xã hội có những người công dân tốt thì chỉ ngày hôm nay –
khi trẻ em là những “mầm non mới nhú”, thế hệ các thầy giáo, cô giáo có trách
nhiệm dạy dỗ, hướng dẫn trẻ em đi đúng hướng. Đúng như lời Bác Hồ dạy: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Thời
thơ ấu rất quan trọng đối với sự phát triển tri thức, nhân cách con người. Đứa trẻ
ngày hôm nay và sau này trở thành người như thế nào là tuỳ thuộc một phần quyết
định ở chỗ các em đã trải qua ngày thơ ấu, ai là người dìu dắt các em trong những
ngày thơ ấu, những gì của thế giới xung quanh đi vào nhận thức và tâm hồn của
em. Thầy cô giáo, gia đình, xã hội và cộng đồng là những người dạy dỗ, dìu dắt, chỉ
bảo và hình thành cho các em về đạo đức, tri thức và nhân cách.
Từ trước đến nay, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo là vấn đề quan trọng, có vị trí
chiến lược lâu dài. Ngày nay trong đời sống công nghệ và khoa học phát triển,
2
những người làm công tác quản lí trường học hiểu một cách sâu sắc hơn ai hết về
tầm quan trọng của giáo viên trong sự nghiệp giáo dục nói chung, trong sự tồn tại
và phát triển của trường Tiểu học xã Trung Đồng nói riêng. Vì vậy việc bồi dưỡng
giáo viên và những biện pháp quản lý, chỉ đạo làm sao để nâng cao chất lượng dạy
và học trong nhà trường là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của cán bộ quản lý. Chính
vì vậy, tôi xin đưa ra: Một số biện pháp đổi mới quản lý, chỉ đạo nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của Hội đồng
khoa học các cấp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thành và xác định có
hiệu quả.
II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
2.1. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu thực hiện ở việc điều tra một số biện pháp đổi mới quản
lí, chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tại trường Tiểu học xã Trung
Đồng huyện Tân Uyên - tỉnh Lai Châu.
2.2. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề lí luận về biện pháp đổi mới quản lí, chỉ đạo nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học đó là: Các hoạt động giáo dục của thầy, các hoạt
động của trò.
III. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu đề tài này đề xuất một số biện pháp đổi mới quản lý, chỉ
đạo một cách thiết thực, phù hợp và khả thi về công tác quản lý, chỉ đạo nhằm thúc
đẩy và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện học sinh nhà trường về “đức - trí - thể - mĩ và lao động”. Ngoài ra giải quyết
một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình quản lý, chỉ đạo.
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
- Người cán bộ quản lí luôn nêu cao ý thức gắn trách nhiệm trong công việc
và định hướng mục tiêu, có kế hoạch chỉ đạo rõ ràng, cụ thể từng tuần, tháng bám
sát vào kế hoạch thời gian và hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2011- 2012,
3
có điều chinh bổ sung theo kế hoạch thực hiện của Phòng giáo dục và tình hình
thực tế của nhà trường.
Qua nghiên cứu đề tài đã đề xuất các biện pháp quản lý, chỉ đạo một cách
khoa học, hệ thống giúp cho các tổ khối chuyên môn, giáo viên trong nhà trường có
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, học sinh ngoan ngoãn học tập tốt.
*Một là: Quản lí tất cả các hoạt động giáo dục của thầy:
+ Tỉ lệ chuyên cần đạt 98% trở lên
+ Thực hiện tiến độ chương trình dạy học.
+ Bài soạn theo hướng đổi mới 15/28 bộ hồ sơ đạt 53.5%
+ Giảng bài theo phương pháp mới 25/28 đạt 89%
+ Thăm lớp- dự giờ.
+ Nâng cao chất lượng giữ vở sạch, viết chữ đẹp.
+ Sinh hoạt của các tổ chuyên môn.
+ Làm mới được 140 đồ dùng dạy học
+ Bồi dưỡng giáo viên giỏi, phụ trách giỏi.
+ Xây dựng tập thể đoàn kết nội bộ trong nhà trường.
+ Viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm 27/28 đồng chí đạt 96.4%
+ Ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí và giảng dạy 24/28 đồng chí đạt
85,7%
* Hai là: Quản lí các hoạt động của trò.
+ Giáo dục tinh thần thái độ, động cơ học tập.
+ Rèn kĩ năng sống cho học sinh.
+ Mọi hoạt động lao động đều phải tính đến hiệu quả.
4
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã chỉ: “Trong
công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, những chính sách, giải
pháp đúng trong phát triển Giáo dục và Đào tạo phải hướng tới hình thành một
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
trong thời đại ngày nay. Đó là một nguồn nhân lực bao gồm những người có
đức, có tài, ham học hỏi, thông minh sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc
lập và sự phồn vinh của Tổ quốc, được chuẩn bị tốt kiến thức văn hoá, được đào
tạo thành thạo về kĩ năng nghề nghiệp, về năng lực quản lí sản xuất kinh doanh,
điều hành vĩ mô kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học kĩ thuật vươn lên
ngang tầm thế giới”.
Trong những năm gần đây, sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo ở Việt Nam nói
chung và việc giảng dạy ở Tiểu học nói riêng là vấn đề được xã hội đặc biệt quan
tâm. Khi bàn đến vai trò của những người thầy trong sự nghiệp giáo dục, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng viết “Thầy giáo là một nhán vật trọng tâm trong nhà
trường, là người quyết định và tạo nên những con người mới xã hội chủ nghĩa.
Vậy thầy giáo phải không ngừng vươn lên, rèn luyện tu dưỡng về mọi mặt để
thực sự xứng đáng là người thầy giáo xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời Thủ tướng
còn chỉ ra rằng: “Vấn đề lớn nhất trong giáo dục của ta hiện nay là tạo điều kiện
thuận lợi nhất để đội ngũ giáo viên dần dần trở thành một đội quân đủ năng lực,
đủ tư cách để làm tròn sứ mạng của mình”.
Tuổi học trò ngày nay không thể thiếu một trình độ văn hoá phổ thông được
lĩnh hội từ nhà trường. Đặc biệt là nhà trường Tiểu học, thầy giáo, cô giáo là người
mẹ thứ hai của học trò, ngoài dạy về tri thức, hình thành cho các em về nhân cách,
đạo đức, kĩ năng sống. Học trò ở lứa tuổi tiểu học các em hồn nhiên, ngây thơ,
trong trắng, vì vậy lời nói và hành động của người thầy phải chuẩn mực để học trò
5
tin tưởng và noi theo. Hoạt động dạy và học ở trường đã giúp cho các em có được
một vốn văn hoá tuy chưa phải là đủ nhưng tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống và
cơ bản, là cơ sở ban đầu rất quan trọng hình thành nhân cách học sinh, để từ đó các
em lao động và tiếp tục học tập sau này. Trẻ em được trở thành “con người” chỉ
nhờ có giáo dục.
Bia Văn Miếu Quốc Tử Giám đã khắc: “ Hiền tài là nguyên khí của Quốc
gia”. Những người tài giỏi hiền lành, có học thức, đạo đức là một sức mạnh đặc
biệt quan trọng đối với đất nước”.
II. Thực trạng của vấn đề
Công tác quản lí, chỉ đạo có những thuận lợi: Tập thể cán bộ, giáo viên, nhân
viên đoàn kết, luôn nhận được sự ủng hộ và đồng thuận của đội ngũ và nhân dân
địa phương, có tinh thần trách nhiệm với công việc được giao, có tinh thần tự học
tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Học sinh đi học đầy đủ, duy trì tỉ
lệ chuyên cần, có ý thức học bài và làm bài.
Bên cạnh những thuận lợi nhà trường còn có những khó khăn sau: Trình độ
đội ngũ không đồng đều, việc đổi mới phương pháp dạy học của một số giáo viên
còn chậm, nhận thức cuả một bộ phận phụ huynh học sinh chưa cao. Một số học
sinh đến trường thiếu đồ dùng học tập, chưa tự giác học bài và làm bài ở nhà.
Nhiệm vụ của hoạt động dạy và học ở trường Tiểu học là trang bị cho học
sinh, nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống, cơ bản, hình thành kĩ năng
“nghe – nói – đọc – viết – tính toán”, ngoài ra giáo dục các em yêu lao động.
Phát triển trí tuệ học sinh trong quá trình nắm tri thức, trước hết là phát triển
tư duy độc lập sáng tạo, hình thành thói quen tự học, tự phát hiện, tự tiếp thu, tự
chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành năng lực nhận thức và hoạt động tự giác học tập
ở trường cũng như ở nhà của học sinh. Ở học sinh tiểu học, trí tưởng tượng rất
phong phú, thích tìm tòi và khám phá để nắm bắt những cái mới. Cho nên dạy học
luôn luôn đổi mới nhằm phát triển trí tưởng tượng của các em, ngoài ra còn phải
rèn luyện các thao tác tư duy để phát triển năng lực nhận thức.
6
Dạy kiến thức văn hóa phải đi đôi với thực thành, dạy đến đâu cho học sinh
thực hành đến đó, có thực hành thì người thầy mới kiểm tra được mức độ nắm bắt
bài học của các em và kịp thời có những giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng
dạy và học. Ngoài ra giáo viên còn hình thành cho các em niềm tin, tình yêu thế
giới quan khoa học, lòng yêu Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội… Những phẩm chất này
phải trở thành động cơ, mục đích học tập của học sinh trong nhà trường và định
hướng mục tiêu hoạt động học của học sinh trong nhà trường và hướng nghiệp cho
các em sau này.
Hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò là hai hoạt động trung tâm
của một quá trình dạy học và là hai hoạt động mang tính chất khác nhau. Song
thống nhất với nhau trong mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò, dạy và học cùng lúc
diễn ra trong những điều kiện vật chất - kĩ thuật nhất định.
Nếu xét quá trình dạy và học như là một hệ thống thì trong đó quan hệ giữa
hoạt động dạy của thầy với hoạt động học của trò thực chất là mối quan hệ điều
khiển. Với tác động sư phạm của mình, thầy tổ chức, điều khiển hoạt động học tập
của trò. Điều khiển hoạt động dạy và học của Hiệu trưởng chủ yếu tập trung vào
hoạt động dạy của thầy và là trực tiếp với thầy, gián tiếp với trò; Thông qua hoạt
động dạy của thầy, quản lý hoạt động học của trò.
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Quản lý các hoạt động của thầy, cô giáo:
1.1. Duy trì số lượng học sinh và nâng cao tỉ lệ chuyên cần theo kế hoạch giao.
* Công tác chỉ đạo.
- Tiến hành xây dựng các giải pháp chính để giúp công tác duy trì số lượng,
nâng cao tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần:
+ Tham mưu với UBND xã trong công tác giáo dục.
+ Kết hợp với trưởng các thôn bản, các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ,
Chi bộ Đảng trong công tác giáo dục. Bởi riêng ngành giáo dục không thể làm tốt
công tác duy trì số lượng và vận động học sinh đi học chuyên cần được mà cần có
sự phối hợp và thực sự vào cuộc của các hội, ban ngành, đoàn thể.
7
+ Tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến toàn thể nhân dân trên địa bàn tầm quan
trọng của công tác giáo dục, vận động nhân dân tham gia tích cực vào công tác xã
hội hoá giáo dục.
- Đầu năm giao trách nhiệm cho từng giáo viên chủ nhiệm. Nếu học sinh
nghỉ học phải có giấy xin phép( nếu không có giấy xin phép nghỉ học) giáo viên
chủ nhiệm tìm nguyên nhân để huy động các em ra lớp. Giáo viên phải là người tạo
ra cho các em động lực học tập, phải thực sự tâm huyết với nghề, luôn luôn thân
thiện với các em, giúp các em ham học hỏi, khám phá trong từng tiết học. Để các
em đến trường “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
* Thực hiện kế hoạch - Ngay từ đầu năm học nhà trường đã cùng với các đoàn thể
tiến hành tuyên truyền, vận động học sinh ra lớp. Trong đó công tác tuyển sinh đối
với học sinh lớp 1 được quan tâm đặc biệt.
- Tổ chức tuyên truyền đến toàn thể phụ huynh học sinh qua các buổi họp
thôn bản, các ngày hoạt động tập thể. Tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp,
các buổi sinh hoạt sao nhi đồng, Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh lồng ghép
các nội dung về văn hoá dân tộc để học sinh tham gia.
- Tổ chức các buổi thảo luận trong trường để giáo viên tham gia tìm biện
pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học, đi học không chuyên cần. Giáo viên chủ
nhiệm phải là người quan tâm tìm hiểu từng hoàn cảnh của học sinh trong lớp, phân
chia đối tượng học sinh trong giảng dạy để có những biện pháp xử lí kịp thời các
tình huống có thể xảy ra.
- Thực hiện kí cam kết trách nhiệm đối với giáo viên trong công tác duy trì
số lượng học sinh. Trong đó gắn liền với công tác đổi mới trong giảng dạy đối với
từng môn học, từng bài học. Đây cũng là một biện pháp thu hút học sinh đến lớp
chuyên cần.
- Ưu tiên giúp đỡ những em có hoàn cảnh khó khăn được hưởng các lợi
nhuận từ dự án, học bổng Quyên góp ủng hộ học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
- Khen thưởng động viên kịp thời những tấm gương điển hình vượt khó vươn
lên trong học tập, giúp đỡ bạn cùng tiến bộ
8
* Kết quả đạt được:
- Số lượng học sinh đầu năm: 344 em; giữa học kì II: 343 em ( 1 HS chuyển
đi Mường Khoa)
- Trong năm học 2011-2012 nhà trường không có học sinh bỏ học.
- Tỷ lệ chuyên cần của học sinh trong năm đạt 98% trở lên.
1.2. Thực hiện chương trình dạy học
Chương trình dạy học là pháp lệnh của nhà nước do Bộ giáo dục ban hành.
Người quản lý phải nắm vững và triển khai cho toàn thể giáo viên trong nhà trường
cùng nắm vững. Với vai trò và trách nhiệm là người Hiệu trưởng quản lí chung và
chịu trách nhiệm cao nhất về tất cả các hoạt động giáo dục trong nhà trường, người
quản lý phải điều khiển hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò theo đúng
tiến độ, kế hoạch thời gian nội dung, kiến thức của chương trình dạy học bám sát
vào chuẩn kiến thức, kĩ năng. Dạy học phải phù hợp với đối tượng vùng miền, phù
hợp với tình hình thực tế của nhà trường. Việc nắm bắt chương trình dạy học theo
từng ngày, từng tuần, từng tháng, cả năm học của người quản lý là một yêu cầu đầu
tiên để quản lý giáo viên thực hiện tốt chương trình dạy học.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện điều chỉnh nội dung dạy
học, có khung chương trình hợp lí vừa đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng, vừa tạo
điều kiện để phát triển năng lực của mỗi học sinh, nâng cao năng lực tư duy, kĩ
năng thực hành, tăng tính thực tiễn, coi trọng kiến thức, bổ sung đầy đủ đến giáo
dục phẩm chất, đạo đức, ý thức công dân, giáo dục sức khỏe và thẩm mĩ cho học
sinh.
Muốn được như vậy, ngay từ đầu năm học, Hiệu trưởng chỉ đạo chuyên môn
nhà trường, tổ chuyên môn thống nhất phương pháp dạy các môn học, điều chỉnh
nội dung dạy học theo từng tuần phù hợp với đối tượng học sinh của lớp.
Hàng tuần, tháng, hết học kỳ và cuối năm học, Ban giám hiệu nhà trường sẽ
kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện chương trình dạy học từng bộ môn, từng
khối, từng lớp thông qua sổ báo giảng, phân phối chương trình của từng lớp. Từ đó
điiều chỉnh bổ sung về nội dung dạy học, yêu cầu giáo viên không cắt xén chương
9
trình, dồn bài, thêm bớt tiết của bất cứ môn học nào một cách tuỳ tiện. Chỉ có thực
hiện đúng đủ phân phối chương trình, dạy học bám sát vào chuẩn kiến thức và kĩ
năng, phân môn dạy, mỗi bài dạy, giáo viên cần phải xác định rõ mục tiêu, phân
hóa kiến thức phù hợp với từng đối tượng học sinh thì những cơ sở khoa học, tính
chất giáo dục toàn diện, mục đích đào tạo của chương trình dạy học mới trở thành
hiện thực như ý kiến đồng chí nguyên tổng Bí thư Lê Duẩn:
“Yêu cầu cơ bản nhất, quan trọng bao chùm toàn bộ chương trình giảng
dạy là đào luyện con người toàn diện về đức, trí, thể, mĩ và lao động là xây dựng
cho học sinh thành những con người mới, có tình cảm tốt đẹp, có tri thức đầy đủ
để đáp ứng được những đòi hỏi của việc xây dựng chế độ mới của chúng ta”
Muốn làm tốt việc này Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng cùng các tổ trưởng
chuyên môn phân công nhau theo dõi, nắm tình hình thực hiện chương trình dạy
học hàng tuần, hàng tháng. Sử dụng các biểu bảng, lịch kiểm tra học tập, sổ thăm
lớp dự giờ, dạy định mức vv… để nắm tình hình có liên quan đến việc thực hiện
chương trình dạy học. Ban giám hiệu lên thời khoá biểu chung của toàn trường để
điều khiển và kiểm soát tiến độ thực hiện chương trình dạy học của tất cả các môn,
các lớp sao cho đồng đều, cân đối. Nếu chương trình dạy học là “bản thiết kế ” của
một công trình thì hoạt động dạy của thầy là sự “thi công” mà Ban giám hiệu là
“tổng công trình sư” phải điều khiển “thi công” đúng “thiết kế ”. Với những biện
pháp đó, việc thực hiện chương trình của trường tôi đã được thực hiện đúng và
nghiêm túc. Đảm bảo đúng kế hoạch thời gian đăng kí với phòng Giáo dục và Đào
tạo về dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2011-2012.
1.3. Soạn bài
- Mỗi giáo viên trước khi lên lớp phải có kế hoạch dạy học, cần bám sát vào
chuẩn kiến thức và kĩ năng để xác định đúng mục tiêu, nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức của từng bài dạy. Trong mỗi một tiết dạy gáo viên cần phân hóa
đối tượng học sinh, xác định kiến thức phù hợp với đối tượng học sinh khá- giỏi;
đưa ra kiến thức phù hợp cho đối tượng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức và kĩ
năng; tránh trong bài giảng của thầy còn có trường hợp học sinh đứng bên lề mỗi
10
bài giảng, học sinh không được tham gia vào quá trình học tập. Giáo án cần thể
hiện rõ nội dung tích hợp giáo dục môi trường, nội dung tích hợp giáo dục ngoài
giờ lên lớp theo từng chủ điểm phù hợp với từng khối lớp.
- Ngoài việc giáo viên soạn bài, định hướng nội dung hình thức lên lớp còn
chuẩn bị đồ dùng tranh ảnh, dụng cụ thí nghiệm, sưu tầm các mô hình vật thật để
các em trực tiếp nhìn thấy, sờ thấy giúp các em sẽ hiểu bài sâu hơn, nhớ bài tốt
hơn, bài soạn đạt hiệu quả cần tiến hành một số công việc sau:
- Thống nhất về nội dung và hình thức thể hiện các loại bài soạn. Với những
giáo viên khá giỏi, dạy lâu năm thì yêu cầu bài soạn khác với những giáo viên mới
ra trường. Phải có nội dung phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với đối tượng
học sinh. Ban giám hiệu và các khối trưởng chuyên môn phân công kiểm tra, theo
dõi, nắm tình hình soạn bài của giáo viên.
- Ban giám hiệu trực tiếp dự các buổi sinh hoạt khối chuyên môn về trao đổi
phương pháp dạy bài khó, bài dài. Đưa ra các hình thức tổ chức dạy và học phù hợp
với từng đối tượng học sinh, trong mỗi tiết học vừa bồi dưỡng và phát hiện học sinh
năng kiếu, vừa bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức và kĩ năng.
- Ban giám hiệu và tổ trưởng chuyên môn, chủ tịch công đoàn thường
xuyên kiểm tra hồ sơ chuyên môn của giáo viên sau mỗi đợt kiểm tra có nhận xét,
đánh giá xếp loại cụ thể chính xác công bằng, khách quan mang tính xây dựng. Sử
dụng phiếu đánh giá xếp loại hồ sơ giáo viên, mối tháng kiểm tra và xếp loại hồ sơ
giáo viên một lần. Ban giám hiệu kiểm tra bài soạn của giáo viên: 5 lân/1 năm học.
- Ban giám hiệu kiểm tra hồ sơ của tổ chuyên môn, của các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường: 5 lần/ 1 năm học.
- Tổ trưởng chuyên môn kiểm tra hồ sơ giáo viên trong tổ: 1 lần/ 1 tháng
- Sau mỗi đợt kiểm tra vào phiếu đánh giá hồ sơ có nhận xét, đánh giá: Ưu
điểm, tồn tại để giáo viên kịp thời điều chỉnh bổ sung và đánh giá xếp loại chính
xác, công tâm, công bằng, khách quan. Các bộ hồ sơ của giáo viên được công nhận
loại tốt, đạt chất lượng về nội dung, trình bày khoa học sạch sẽ, được trưng bày,
11
triển lãm nhằm mục đích nhân rộng điển hình trong toàn trường. Các bộ hồ sơ xếp
loại trung bình yêu cầu điều chỉnh bổ sung và kiểm tra lại.
Qua các việc làm trên, tôi thấy ở trường tôi các đồng chí giáo viên đã thực
hiện rất nghiêm túc việc soạn bài, chất lượng bài soạn được nâng cao và có tác
dụng tốt đến hiệu quả của tiết dạy. Qua các đợt kiểm tra của Phòng giáo dục, của
nhà trường được đánh giá là đơn vị nhà trường có nhiều hồ sơ tốt, bài soạn đã đi
sâu vào đổi mới phương pháp, đưa ra hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối
tượng học sinh, đã phân hóa kiến thức giành cho học sinh khá giỏi, kiến thức giành
riêng cho học sinh chưa đạt yêu cầu chuẩn kiến thức và kĩ năng.
Kết quả kiểm tra hồ sơ giáo viên năm học 2010-2011:
- Hồ sơ xếp loại tốt: 8 bộ
- Hồ sơ xếp loại khá: 10 bộ
- Hồ sơ xếp loại đạt yêu cầu: 4 bộ
- Hồ sơ xếp loại chưa đạt yêu cầu: không
Kết quả kiểm tra hồ sơ giáo viên năm học 2011-2012:
- Hồ sơ xếp loại tốt: 15 bộ
- Hồ sơ xếp loại khá: 11 bộ
- Hồ sơ xếp loại đạt yêu cầu: 2 bộ
- Hồ sơ xếp loại chưa đạt yêu cầu: không
Qua đối chiếu về chất lượng hồ sơ trong hai năm học 2010-2011 và 2011-
2012, tôi thấy chất lượng các bộ hồ sơ có sự chuyển biến rõ rệt. Tỉ lệ các bộ hồ sơ
khá và tốt tăng lên 12%, tỉ lệ bộ hồ sơ đạt yêu cầu giảm xuống 12%. Chứng tỏ việc
đổi mới công tác quản lí đã từng bước nâng cao chất lượng hồ sơ của giáo viên.
1.4. Giảng bài
Hoạt động dạy và học trong trường Tiểu học hiện nay được thực hiện chủ
yếu bằng hình thức dạy và học trên lớp. Thầy là người tổ chức và hướng dẫn, còn
trò là người tự học, tự phát hiện, tự tiếp thu, tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Thông
qua tranh ảnh đồ dùng, vật thật Giờ lên lớp giữ vai trò quyết định chất lượng dạy
học. Vì vậy giáo viên gắn trách nhiệm vào mỗi giờ dạy trên lớp với mục đích là tất
12
cả đối tượng học sinh của lớp đều nắm được nội dung của bài học, đạt yêu cầu theo
chuẩn kiến thức và kĩ năng.
* Đối với một giờ lên lớp cần phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
+ Đảm bảo yêu cầu kiến thức cơ bản, giáo viên cần xác định đúng mục tiêu
bài dạy, trong bài dạy giáo viên nên đưa ra những câu hỏi, bài tập để phát hiện và
bồi dưỡng học sinh năng kiếu, bồi dưỡng học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức và kĩ
năng. Sau mỗi tiết học 100% học sinh nắm được kiến thức của bài.
+ Đi đúng đặc trưng phương pháp từng môn học, tích cực đổi mới phương
pháp dạy học, giáo viên khắc sâu được kiến thức trọng tâm của bài, phù hợp với đối
tượng học sinh của lớp, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để tạo hướng
thú cho học sinh tham gia học tập, để giờ học đạt hiệu quả cao nhất.
+ Hình thức tổ chức trong một tiết dạy phong phú, đa dạng linh hoạt, sáng
tạo nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
+ Giáo viên thao tác và sử dụng đồ dùng dạy học thuần thục, nhuần nhuyễn,
linh hoạt và phù hợp với từng hoạt động của bài dạy. Đồ dùng: Tranh ảnh, vật
thật… đưa ra cần khai thác triệt để giúp học sinh hiểu bài, nhớ bài tốt hơn.
+ Bài dạy cần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tao, hứng thú học tập ở
tất cả các đối tượng: Giỏi, khá, trung bình, học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức và kĩ
năng, kiến thức đưa ra trong mỗi hoạt động cần có sự phân hóa để bồi dưỡng và
phát hiện học sinh năng kiếu, học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức và kĩ năng.
+ Giáo viên nên kịp thời động viên, kích lệ học sinh khi các em có tiến bộ
trong học tập, lời đánh giá nhận xét học sinh thể hiện tôn trọng nhân cách, nhẹ
nhàng thân thiện, mang tích chất động viên kích lệ.
Ví dụ: Môn Khoa học chú trọng việc cho học sinh được thực hành bằng thí
nghiệm, quan sát vật thật để từ đó rút ra kết luận về các hiện tượng của tự nhiên…
Hoặc có bài giảng lại cho học sinh học ở vườn sinh vật, ngoài trời môn Địa: Kĩ
năng sử dụng bản đồ. Tập làm văn: Kĩ năng nói, môn Toán kĩ năng sử dụng đồ
dùng, kĩ năng đặt tính, cộng, trừ, nhân, chia
1.5. Thăm lớp - dự giờ
13
- Ban giám hiệu cùng với tổ chuyên môn ngay từ đầu năm học xây dựng kế
hoạch thăm lớp - dự giờ: dự giờ đột xuất, báo trước, thường xuyên, chuyên đề,
kiểm tra các hoạt động sư phạm của giáo viên( kiểm tra toàn diện) Sau mỗi tiết
dự giờ khảo sát chất lượng học sinh để đánh gía mức độ nắm bắt kiến thức của học
sinh sau mỗi bài dạy và là cơ sở để đánh gía tiết dạy của giáo viên. Sau khi dự giờ,
Ban giám hiệu phải có đánh giá nhận xét tỉ mỉ và chính xác mang tính xây dựng,
khuyến khích giáo viên phát triển được những mặt mạnh, điều chỉnh những mặt
còn tồn tại hạn chế.
- Thực hiện tốt công tác đánh gía xếp loại học sinh, thực hiện nghiêm túc"
Dạy thật- học thật- thi thật- chất lượng thật", phân hoá đối tượng dạy học theo
đối tượng vùng miền, bám sát vào chuẩn kiến thức và kĩ năng.
- Qua dự giờ cần đánh giá tiết dạy một cách khách quan, thẳng thắn công
bằng trung thực, để từ đó có những bi pháp thích hợp xây dựng giờ dạy hay, giờ
dạy tốt. Phát hiện giáo viên có năng lực chuyên môn bồi dưỡng tài năng cử đi thi
giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, đồng thời giúp những giáo viên còn non yếu
về chuyên môn vươn lên.
- Kết quả qua dự giờ giúp đỡ và kiểm tra giáo viên năm học 2010-2011:
- Giờ dạy xếp loại tốt: 18 giờ
- Giờ dạy xếp loại khá: 37 giờ
- Giờ dạy xếp loại trung bình: 9 giờ
- Giờ dạy xếp loại yếu, kém: không
- Kết quả qua dự giờ giúp đỡ và kiểm tra giáo viên năm học 2011-2012:
- Giờ dạy xếp loại tốt: 36 giờ
- Giờ dạy xếp loại khá: 24 giờ
- Giờ dạy xếp loại trung bình: 6 giờ
Qua đối chiếu về chất lượng các giờ dạy kiểm tra và giúp đỡ giáo viên trong
hai năm học 2010-2011 và 2011-2012, chất lượng các giờ dạy đã có sự đầu tư về
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, chuẩn bị tranh ảnh, đồ dùng dạy hoc chu
14
đáo. Chất lượng giờ dạy khá và tốt tăng lên 6% đặc biệt là số giờ dạy tốt tăng lên rõ
rệt, giờ dạy đạt yêu cầu giảm.
1.6. Nâng cao chất lượng “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”
- Ngay từ đầu năm nhà trường đã tổ chức cho giáo viên khảo sát phân loại
học lực và chữ viết của học sinh. Xây dựng kế hoạch để những em viết chữ xấu,
viết bẩn có ý thức rèn luyện nâng cao chất lượng "Vở sạch chữ đẹp".
- Yêu cầu giáo viên tiến hành điều tra để rút ra từng tác nhân cụ thể xem
nguyên nhân, lý do nào khiến vở chưa sạch, chữ chưa đẹp. Sau đó yêu cầu giáo
viên quy định các loại vở cho học sinh và thống nhất các loại vở chung theo khối
lớp trong trường như sau:
* Đối với khối lớp 1 * Đối với khối lớp 2 + 3 * Đối với khối lớp 4 + 5
+ Vở toán. + Vở toán. + Vở toán
+ Vở chính tả + Vở chính tả. + Vở chính tả
+ Vở ghi chung + Vở ghi chung + Vở ghi chung
+ Vở tập làm văn + Vở tập làm văn + Vở tập làm văn
+ Vở luyện chữ. + Vở khoa, sử, địa
- Dành các giờ học buổi chiều hướng dẫn cho học sinh các yêu cầu về “Vở
sạch, chữ đẹp”. Yêu cầu các em bọc vở bằng báo, giấy bọc dán nhãn vở. Cách
trình bày vở sao cho hợp lý, cân đối trang giấy. Tên các phân môn ghi ở giữa vở…
Cách kẻ hết tiết, hết ngày, hết tuần. Khi viết sai chỉ được gạch chân nhẹ, không
được tẩy xoá.
- Trong mọi tiết học, giáo viên phải thường xuyên uốn nắn, nhắc nhở cho học
sinh viết đúng, đẹp. Đối với học sinh yếu thường xuyên động viên, giúp đỡ các em.
Những em nào có tiến bộ thì tuyên dương kịp thời.
- Trong tất cả các giờ học, giáo viên đều phải kèm cặp, nhắc nhở các em.
Yêu cầu học sinh khi viết phải để mắt cách lề vở 30cm. Tay phải viết, tay trái giữ
vở. Hướng dẫn học sinh nếu mép vở bị quăn phải vuốt lại ngay cho thẳng.
- Phát động phong trào thi đua cho học sinh, thi đua rèn vở sạch chữ đẹp.
Hai tháng một lần, giáo viên tổ chức thi luyện viết cho các em tại lớp. Những học
15
sinh có điểm cao nhất sẽ được trưng bày ở góc nghệ thuật để làm mẫu. Ngoài ra
còn có một phần thưởng nhỏ cho các em để khích lệ các em. Mặt khác, giáo viên
phải là người viết mẫu bảng, viết mẫu vở thật đẹp, viết đúng mẫu chữ mới.
- Nhà trường tổ chức thi “Vở sạch chữ đẹp” cấp trường đối với tất cả các
khối lớp, chọn ra những em có chữ đẹp, biết giữ vở sạch vào đội tuyển chữ đẹp của
trường đi thi ở những cấp cao hơn. Chọn ra những giáo viên có chữ đẹp, có kinh
nghiệm trong việc rèn chữ viết cho học sinh để bồi dưỡng.
* Kết quả đạt được:
Sau một thời gian thực hiện rèn“ Vở sạch chữ đẹp”cho học sinh thì tỉ lệ vở
sạch chữ đẹp tăng lên rõ rệt. Những em viết xấu, viết cẩu thả đã có ý thức viết nắn
nót, viết cẩn thận, có ý thức thi đua với các bạn. Những học sinh có vở sạch thì chữ
viết ngày càng đẹp, đúng mẫu chữ, những em học sinh vở bẩn thì vở viết sạch hơn.
Kết quả thực tiễn đạt được năm học 2010-2011
* Thi “Vở sạch chữ đẹp” cấp trường đối với giáo viên
- Tổng số giáo viên tham gia: 8 đồng chí.
- Tổng số giáo viên đạt giải: 5 đồng chí
* Thi “Vở sạch chữ đẹp” cấp trường đối với học sinh
- Tổng số học sinh tham gia: 52 em.
- Tổng số học sinh đạt giải: 12 em.
Kết quả thực tiễn đạt được năm học 2011-2012.
* Thi “Vở sạch chữ đẹp” cấp trường đối với giáo viên
- Tổng số giáo viên tham gia: 11 đồng chí.
- Tổng số giáo viên đạt giải: 8 đồng chí
* Thi “Vở sạch chữ đẹp” cấp trường đối với học sinh
- Tổng số học sinh tham gia: 76 em.
- Tổng số học sinh đạt giải: 27 em.
Nhà trường tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng vở sạch, chữ đẹp cả thầy
và trò để tham gia thi cấp huyện.
Qua đối chiếu về chất lượng giữ vở sạch, rèn chữ viết đẹp của giáo viên và
16
học sinh trong hai năm học 2010-2011 và 2011-2012 đã có chiều hướng phát triển
tốt: Chất lượng chữ đẹp của giáo viên tăng 10.5%, chất lượng chữ đẹp của học sinh
tăng 12.5%.
1.7. Sinh hoạt tổ chuyên môn
Đối với giáo viên việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm
đây là một nhiệm vụ trọng tâm, vì vậy người hiệu trưởng phải quán triệt ngay từ
đầu năm học mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung sinh hoạt chuyên môn. Chỉ đạo thực
hiện nội dung, hình thức sinh hoạt chuyên môn để giáo viên học tập lẫn nhau, trao
đổi thảo luận cùng nhau tháo gỡ vướng mắc, chỉ ra được các phương pháp đúng
đắn phù hợp với học sinh của trường có như vậy mới đem lại hiệu quả thiết thực
trong mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn.
Sinh hoạt tổ chuyên môn là công việc không thể thiếu được trong nhà trường
trong đó vai trò lòng cốt là đồng chí tổ khối trưởng, hàng tháng vào tuần 1, 3 sinh
hoạt tổ chuyên môn, tuần 2 sinh hoạt chuyên môn chung nhà trường. Sinh hoạt
chuyên môn bồi dưỡng thêm cho giáo viên về phương pháp dạy tất cả các môn học
trong cấp tiểu học; sinh hoạt chuyên đề Toán, Tiếng Việt nhằm bổ sung thêm kiến
thức cho giáo viên để bồi dưỡng học sinh năng giỏi của lớp.
Để nâng cao chất lượng chuyên môn trong tập thể giáo viên nhà trường tiến
hành triển khai các chuyên đề cấp trường, tham gia các chuyên đề do Phòng hướng
dẫn; giải toán tuổi thơ, tập san
* Các chuyên đề sinh hoạt chung của tổ khối và nhà trường trong năm học
- Chuyên đề: Hồ sơ giáo viên
- Chuyên đề: Thống nhất phương pháp dạy học
- Chuyên đề: Rèn kĩ năng giữ vở sạch, viết chữ đẹp
- Chuyên đề: Đề tài sáng kiến kinh nghiệm( Đăng kí một đổi mới)
- Chuyên đề: Bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh chưa đạt chuẩn kiến
thức kĩ năng.
Chuyên đề: Đánh gía xếp loại học sinh theo thông tư 32; đánh gía xếp loại
viên chức theo chuẩn giáo viên tiểu học.
17
- Chuyên đề: Toán, Tiếng Việt lớp 4, 5.
- Ban giám hiệu đã có kế hoạch tổ chức các chuyên đề một cách khoa học, có
chất lượng, sắp xếp thời gian để các giáo viên trong trường đi dự, sau đó tổ chức
thảo luận để rút kinh nghiệm đi đến thống nhất về hướng lựa chọn phương pháp
giảng dạy, lựa chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp với tình hình thực tế của
lớp, của trường.
Ngoài ra, Ban giám hiệu còn chú ý nắm chắc kế hoạch triển khai chuyên đề
của Phòng, các trường bạn từ đó thông báo kịp thời cho giáo viên đi dự. Qua đó
học hỏi thêm kinh nghiệm của trường bạn, áp dụng những điều đã học vào giảng
dạy.
Làm tốt công việc này là một biện pháp hữu hiệu để củng cố và nâng cao khả
năng chuyên môn cho giáo viên, nhất là trong giai đoạn với yêu cầu đổi mới triệt
để phương pháp và chương trình thay sách giáo khoa mới.
Qua việc thường xuyên tổ chức các chuyên đề của trường và dự chuyên đề
của phòng, của trường bạn, Ban giám hiệu và các đồng chí giáo viên đã nắm vững
hơn về việc đổi mới phương pháp của từng bộ môn và từ đó có sự chỉ đạo các tiết
dạy có hiêu qủa hơn. Thực tế qua các đợt kiểm tra bồi dưỡng chuyên môn của
Phòng, thi giáo viên dạy giỏi các cấp đều đạt kết quả cao.
1.8. Làm và sử dụng đồ dùng dạy học góp phần quan trọng tới chất lượng
giảng dạy:
- Ngoài việc chuẩn bị tốt về kế hoạch dạy học, để góp phần nâng cao hiệu
quả giờ dạy, ban giám hiệu nhà trường yêu cầu giáo viên tích cực tự làm và sử
dụng đồ dùng dạy học: tranh ảnh, mô hình dạy học, vật thật Từ trực quan giúp
cho các em tự phát hiện, tự tiếp thu, tự chiếm lĩnh kiến thức mới, giúp cho các em
nhìn thấy, sờ thấy tạo hứng thú cho các em trong học tập.
- Chỉ đạo giáo viên thường xuyên làm mới đồ dùng bổ sung vào thư viện của
nhà trường. Mỗi giáo viên làm 5 đồ dùng có gía trị sử dụng lâu dài/ 1 năm học.
Phấn đấu trong năm học 2011-2012 nhà trường tổ chức thi đồ dùng dạy học tự làm
cấp trường, lựa chọn đồ dùng có chất lượng tốt tham gia thi các cấp.
18
- Quá trình nhận thức là từ trực quan cụ thể đến tư duy trừu tượng, nhất là
đối với học sinh tiểu học, yếu tố trực quan lại càng cần thiết. Chính vì vậy Ban
giám hiệu rất chú ý đến việc sử dụng đồ dùng dạy học. Chính vì thấy rõ tầm quan
trọng của đồ dùng trực quan tới chất lượng bài dạy nên Ban giám hiệu đã chỉ đạo:
+ Thành lập ban kiểm tra đồ dùng dạy học mà đồng chí Hiệu trưởng-Trưởng
ban, Hiệu phó - Phó ban, 5 Khối trưởng là uỷ viên với các hình thức kiểm tra: Đột
xuất, báo trước trong đó kiểm tra đột xuất là chính.
+ Có nhân viên chuyên trách phòng đồ dùng.
+ Đồ dùng được sắp xếp theo môn, theo tuần, theo tháng.
+ Thông báo đồ dùng các môn trước một tuần để giáo viên giảng dạy chủ
động lập kế hoạch sử dụng đồ dùng.
+ Hàng năm, nhà trường bổ sung các đồ dùng còn thiếu, thanh lý đồ dùng
dạy học đã cũ nát, hiệu quả kém.
+ Sau đợt thi giáo viên dạy giỏi các cấp, mỗi giáo viên nộp năm đồ dùng có
chất lượng vào thu viện nhà trường.
+ Hằng năm phòng giáo dục đều tổ chức hội thi triển lãm đồ dùng dạy học
cấp trường và cấp huyện. Đây là một dịp để giáo viên thể hiện rõ tài năng, sáng tạo
của mình trong việc tạo ra các sản phẩm đồ dùng dạy học có hiệu quả.
Kết quả: Nhờ đồ dùng dạy học phong phú, giáo viên có điều kiện đổi mới
phương pháp giảng dạy ở các bộ môn. Học sinh hứng thú học tập, chủ động tìm
hiểu nội dung bài dưới sự hướng dẫn của thầy.
* Số đồ dùng tự làm trong năm học 2010-2011 là: 110 đồ dùng
+ Đồ dùng xếp loại A: 25 đồ dùng
+ Đồ dùng xếp loại B: 50 đồ dùng
+ Đồ dùng xếp loại C : 35 đồ dùng
* Số đồ dùng tự làm trong năm học 2011- 2012 là: 140 đồ dùng
+ Đồ dùng xếp loại A: 57 đồ dùng
+ Đồ dùng xếp loại B: 49 đồ dùng
+ Đồ dùng xếp loại C : 34 đồ dùng
19
- Số bộ đồ dùng tham gia thi cấp trường: 03 bộ
- Số bộ đồ dùng tham gia cấp huyện: 02 bộ
Số đồ dùng tự làm trong năm học 2011-2012 tăng so với năm học 2010-2011
là: 30 đồ dùng, số đồ dùng xếp loại A tăng lên 32 đồ dùng. Điều này chứng tỏ đổi
mới công tác quản lí, chỉ đạo đã đạt hiệu quả đáng khích lệ về ý thức tự làm đồ
dùng dạy học.
1.9. Bồi dưỡng mũi nhọn giáo viên dạy giỏi.
- Muốn đẩy mạnh phong trào dạy tốt điều quan trọng nhất phải xây dựng
được chất lượng mũi nhọn về giáo viên, khuyến khích động viên giáo viên tham gia
giáo viên dạy giỏi các cấp, có kế hoạch bồi dưỡng để giáo viên có hướng phấn đấu
vươn lên và khảng định mình qua các cuộc thi giáo viên dạy giỏi do nhà trường,
phòng tổ chức.
- Năm học 2011-2012 ngay từ đầu năm trường đã tổ chức hội giáo viên dạy
giỏi cấp tổ, cấp trường, yêu cầu 100% cán bộ quản lí, giáo viên tham gia để cùng
học hỏi, bồi dưỡng trao đổi về chuyên môn. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn tập
trung từ khối 1 đến khối 5 dự giờ dạy giáo án điện tử.
- Khuyến khích tạo đà cho giáo viên học tập nâng cao trình độ. Mỗi đồng
chí giáo viên đều coi việc học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và tay
nghề là quyền lợi và trách nhiệm của mình.
* Cán bộ quản lí giáo viên tham gia hội giảng các cấp năm học 2011-2012.
- CBQL, giáo viên dạy giỏi cấp tổ: 30/30 đồng chí.
- CBQL,giáo viên dạy giỏi cấp trường: 26/30 đồng chí.
- CBQL, giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện: 7/24 đồng chí( bảo lưu
kết quả năm học 2010-2011)
1.10. Viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm
- Nhà trường xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể chủ đề " Đổi mới công tác
quản lí và nâng cao chất lượng giáo dục" trong năm học.
- Nhà trường đã triển khai tới tới tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong
toàn trường và tổ chức đánh giá triển khai một năm thực hiện chủ trương :
20
+ Xây dựng một kế hoạch cụ thể về đổi mới công tác quản lí, chỉ đạo để từng
bước nâng cao chất lượng dạy và học và đổi mới phương pháp dạy học.
+ Mỗi cán bộ quản lí đăng kí một chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học
+ Mỗi giáo viên đăng kí 1-2 việc, tổ chuyên môn nhà trường đăng kí 1-2
chuyên đề.
* Năm học 2011-2012 nhà trường thực hiện đăng kí đề tài sáng kiến kinh
nghiệm( chuyên đề 1 đổi mới):
- Nhà trường đăng kí 1 chuyên đề
- 5 tổ chuyên môn đăng kí 5 chuyên đề
- Tổng số cán bộ quản lí, giáo viên đăng kí thực hiện: 29 đồng chí
* Sáng kiến năm học 2010-2011.
- Sáng kiến xếp loại A: 2
- Sáng kiến xếp loại B: 16
- Sáng kiến xếp loại C: 6
* Sáng kiến năm học 2011-2012.
- Sáng kiến xếp loại A: 4
- Sáng kiến xếp loại B: 22
1.11. Ứng dụng công nghệ thông tin:
Ngay từ đầu năm học nhà trường có kế hoạch thực hiện chủ đề năm học và
các nội
dung có liên quan như: Đổi mới phương pháp dạy học; bồi dưỡng học sinh giỏi,
phụ đạo học sinh yếu theo đối tượng vùng miền, Ứng dụng công nghệ thông tin vào
trong quản lí và giảng dạy.
Tuyên truyền sâu rộng nhận thức ứng dụng công nghệ thông tin vào trong
quản lí và giảng dạy tới tập thể cán bộ quản lí, giáo viên, nhân viên nhà trường.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí và áp dụng vào
giảng dạy. Tổ chức tập huấn cho toàn thể giáo viên, công nhân viên tạo điều kiện
để cán bộ giáo viên truy cập tìm kiếm thông tin trên mạng Intrernet.
21
Năm học 2011-2012 nhà trường có 24 đồng chí soạn bài trên máy tính. Các
đồng chí soạn bài trên máy tính Ban giám hiệu nhà trường ra quyết định thành lập
tổ công nghệ thông tin sát hạch khả năng sử dụng máy tính, kĩ năng soạn và trình
bày giáo án của giáo viên. Giáo viên soạn bài trên máy tính 2 tháng dạy 1 tiết giáo
án điện tử.
* Kết quả dạy giáo án điện tử trong năm học là: 12 tiết
1.12. Đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng tập thể vững mạnh trong nhà trường
Muốn phát huy hết năng lực trí tuệ và lòng say mê tận tụy với nghề dạy học
của giáo viên thì Hiệu trưởng luôn quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của
cán bộ, giáo viên, nhân viên để họ yên tâm công tác. Để làm tốt điều này, Hiệu
trưởng cần phải: Luôn luôn coi trọng việc xây dựng một tập thể đoàn kết, nhất trí,
đồng sức, đồng lòng, kề vai gánh vác, thương yêu giúp đỡ nhau trong công tác và
đời sống. Tập thể nhà trường luôn giữ được bầu không khí vui vẻ, thông cảm, chia
sẻ với nhau. Công Đoàn nhà trườnglà “một tổ ấm gia đình”, trong đó mọi thành
viên đều chân tình cởi mở. Giáo viên luôn tìm thấy nguồn động viên khuyến khích
của tập thể, yên tâm phấn đấu trong giảng dạy để vươn lên.
Ngoài việc xây dựng tập thể nhà trường đoàn kết, các đồng chí giáo viên,
nhân viên trong nhà trường gánh vác một trọng trách lớn lao hơn cả là xây dựng
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa các em học sinh
trong lớp, trong trường.
Với sự chỉ đạo sát sao và đúng hướng của Ban giám hiệu như đã nêu ở trên,
phong trào thi đua dạy tốt của trường diễn ra sôi nổi, năng lực chuyên môn của giáo
viên được nâng lên rõ rệt và nhiều giáo viên luôn có ý thức học hỏi, giúp đỡ lẫn
nhau. Điều đó đã có tác dụng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện của nhà trường.
II. Quản lí các hoạt động của học sinh
Hoạt động dạy của thầy thành công và đạt hiệu quả, khi hoạt động của trò
được tổ chức hướng dẫn tốt từ trong lớp học - giờ lên lớp - đến hoạt động ngoài giờ
22
lên lớp và ở nhà. Đó là sự liên tục của hoạt động dạy học, là trách nhiệm của người
thầy đối với “sản phẩm” của mình.
Hoạt động học tập của học sinh bao giờ cũng ăn nhịp với hoạt động dạy của
giáo viên, do giáo viên điều khiển nên hoạt động dạy của giáo viên phải bao gồm:
Tổ chức, hướng dẫn hoạt động học tập của học sinh. Thông qua giáo viên hiệu
trưởng quản lí hoạt động của học sinh làm sao để học sinh thấy được: “Mỗi ngày
đến trường là một ngày vui!”.
Trong việc quản lý hoạt động học tập của học sinh, Ban giám hiệu cần bao
quát được khoảng không gian và thời gian và các hình thức hoạt động học tập để
điều hoà, cân đối chúng, điều khiển chúng hoạt động phù hợp với tính chất và quy
luật của hoạt động dạy học. Vấn đề quản lý hoạt động học tập của học sinh đặt ra
đối với Hiệu trưởng không phải chỉ trên bình diện khoa học giáo dục mà còn là một
đòi hỏi có ý nghĩa về tinh thần trách nhiệm của một nhà giáo đối với sự nghiệp giáo
dục thế hệ trẻ. Để hoạt động học tập của học sinh tiến triển tốt, Ban giám hiệu cần
thực hiện quản lý những vấn đề sau:
2.1. Giáo dục tinh thần, thái độ, động cơ học tập của học sinh
Hiệu trưởng giao trách nhiệm cho tổng phụ trách theo dõi tình hình học tập
các lớp qua sổ cờ đỏ (Sổ theo dõi sĩ số hàng ngày, các nền nếp hoạt động ra vào lớp
của trường) kịp thời phát hiện những trường hợp đặc biệt để phối hợp cùng với giáo
viên chủ nhiệm, phụ huynh học sinh, trưởng thôn bản, xã có biện pháp nhắc nhở
học sinh đi học chuyên cần.
Để xây dựng cho các em ý thức động cơ học tập đúng đắn, Ban giám hiệu
luôn chú ý lồng mục đích giáo dục này trong nội dung các buổi sinh hoạt tập thể:
Khai giảng, chào cờ đầu tuần, sinh hoạt Đội, các kỳ sơ kết, tổng kết, các ngày lễ
hội… Với nhiều hình thức như: Nêu các gương điển hình gương vượt khó học tốt, ,
đôi bạn ùng tiến, số hoa điểm tốt, hái hoa dân chủ, trò chơi dân gian. Để học sinh
thấy được “ Tại sao phải học tốt ”, “ Muốn học tốt phải như thế nào? ”.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, học sinh phải có nền nếp học tập tốt, kỉ
luật tốt, sách vở và đồ dùng học tập đầy đủ, giữ gìn cẩn thận. Ban giám hiệu cần đề
23
ra những quy định thống nhất về hoạt động của học sinh để làm căn cứ xây dựng nề
nếp, tác phong học tập tốt cho học sinh, ngăn ngừa những hành vi sai trái. Ban
giám hiệu có kế hoạch phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong tổ chức kiểm tra
cho điểm từng mục ở tất cả các lớp theo định kì và đột xuất, từ đó đánh giá, xếp
loại thi đua từng đợt và cuối năm học. Ban giám hiệu khi dự giờ, thăm lớp còn chú
ý nhận xét học sinh qua các hoạt động học tập ý thức tập trung vào bài học, xây
dựng bài, việc chuẩn bị bài, sự cố gắng ở khâu luyện tập, ý thức liên hệ thực tế…
Để phát hiện nhân lên những điển hình tốt và kịp thời điều chỉnh, nhắc nhở học
sinh chưa đạt yêu cầu.
- Đối với học sinh tiểu học, cần coi trọng việc động viên, khen thưởng để
kích thích tinh thần học tập của các em, Ban giám hiệu cần đặt ra tiêu chuẩn khen
thưởng với nhiều mức độ và nhiều hình thức khác nhau, tiến hành thường xuyên và
định kì: Hàng tháng, định kì và cuối năm … Hoặc các đợt kỉ niệm 20/11, 22/12,
26/3 với những món quà nhỏ như: Quyển vở, hộp bút, cặp sách… Đã khích lệ
được trong các em tinh thần thi đua học tập giữa các cá nhân với cá nhân, giữa khối
này với khối kia, làm cho phong trào thi đua học tập được khuấy động sôi nổi.
2.2. Mọi hoạt động lao động đều phải tính đến hiệu quả
Ban giám hiệu cần tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả chất lượng học tập của
học sinh qua các hình thức:
Các đợt kiểm tra định kì: Ban giám hiệu ra đề theo trọng tâm chương trình,
phân công giáo viên coi và chấm ở tất cả các khối lớp để việc đánh giá được khách
quan, công bằng.
Khảo sát chất lượng học tập của học sinh sau tiết dự giờ, thăm lớp để biết
học sinh nắm bài ở mức độ nào bằng cách hỏi miệng hoặc khảo sát trên giấy. Ban
giám hiệu nhận xét, đánh giá phải luôn luôn nhìn nhận sự việc theo hướng phát
triển tiến bộ, luôn động viên những biểu hiện tốt để khuyến khích sự vươn lên của
học sinh.
Nắm số lượng học sinh giỏi, yếu ở các lớp. Ban giám hiệu, tổ chuyên môn
24
và các giáo viên chủ nhiệm quan tâm và giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức,
kĩ năng mau chóng vươn lên đạt trình độ trung bình. Hàng tháng tổ chức khảo sát
chất lượng để nắm bắt kết quả học tập của học sinh.
Ngoài việc học tập ra, Ban giám hiệu cần tổ chức các hoạt động học tập, lao
động, vui chơi giải trí một cách hợp lý, phù hợp với tâm lý và sức khoẻ của học
sinh như tập thể dục giữa giờ, múa hát tập thể, các đợt thi văn nghệ, hội khoẻ Phù
Đổng Đây là một yêu cầu quan trọng mà người phụ trách Đội cần chú ý trong
quản lý các hoạt động học tập của học sinh.
Để giáo dục học sinh ngoài nhà trường ra cần chú ý phối hợp các lực lượng
giáo dục quản lý hoạt động học tập của học sinh. Gia đình và Đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh có tác dụng quan trọng đối với việc học tập của học sinh. Giáo
dục học sinh tham gia tích cực hoạt động từ thiện như giúp đỡ gia đình thương
binh, liệt sĩ, giúp đỡ bạn gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhưng vươn lên học tốt.
Qua đó tăng cường rèn luyện cho học sinh ý thức kỉ luật trong học tập, có lòng
nhân ái, tình yêu quê hương đất nước.
Ban giám hiệu cần tổ chức tốt sự phối hợp giữa giáo viên phụ trách lớp với
tổ chức Đội với gia đình học sinh để quản lý chặt chẽ hoạt động học tập của học
sinh từ trong gia đình đến trường lớp. Trong sự phối hợp này, Ban giám hiệu đề cao
vai trò của tổ chức Đội, thông qua các hoạt động của Đội mà phát huy vai trò làm
chủ tập thể của học sinh tự giác, tích cực, tự quản các hoạt động học tập của học
sinh.
Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường đã họp với Hội cha mẹ học
sinh toàn trường để tuyên truyền tới các phụ huynh thấy được trách nhiệm của
mình trong việc chăm lo đến điều kiện học tập của học sinh như góc học tập, đồ
dùng học tập, thời gian học ở nhà, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại cho nhà trường.
Kết quả là Ban giám hiệu nhà trường và Hội cha mẹ học sinh, các tổ chức đoàn thể
đã phối hợp nhịp nhàng để giáo dục học sinh ngày càng tốt hơn về mọi mặt (học
tập cũng như đạo đức).
III. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
25