Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP “DẠY HỌC DỰ ÁN” TRONG DẠY HỌC CÁC BÀI HỌC NHẬT DỤNG - CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.02 MB, 39 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG THPT NGÔ QUYỀN
SÁNG KIẾN DỰ THI CẤP TỈNH
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP “DẠY HỌC DỰ ÁN” TRONG DẠY HỌC
CÁC BÀI HỌC NHẬT DỤNG - CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Tác giả: Trần Thị Thanh Hương
Trình độ chuyên môn:Thạc sĩ
Chức vụ: Giáo viên
Nơi công tác: Trường THPT Ngô Quyền
NAM ĐỊNH, NĂM 2014
1

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP “DẠY HỌC DỰ ÁN” TRONG DẠY HỌC
CÁC BÀI HỌC NHẬT DỤNG - CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Ngữ văn
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: năm học 2013- 2014
4. Tác giả:
-Họ và tên: TRẦN THỊ THANH HƯƠNG
-Giớí tính: Nữ
-Ngày, tháng, năm sinh: 27-01-1982
-Nơi thường trú: 85 Máy Chai- TP Nam Định
-Đơn vị công tác: Trường THPT Ngô Quyền- TP Nam Định
-Chức vụ hiện nay : Giáo viên Ngữ văn
-Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Thạc sỹ sư phạm Ngữ văn
-Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Thanh Hương- Giáo viên Trường THPT Ngô Quyền
- TP Nam Định


-Điện thoại: 0123.6464762
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Trường THPT Ngô Quyền- TP Nam Định
2
A. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
I. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học
môn Ngữ văn nói riêng
- Sự tiến bộ kì diệu của khoa học kĩ thuật, số liệu các tri thức cần lĩnh hội tăng lên một cách ghê
gớm, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi căn bản cả nội dung giáo dưỡng lẫn phương pháp dạy học
(viết tắt PPDH). PPDH phải nhằm phát triển tối đa sự suy nghĩ độc lập của HS, kĩ năng đạt đến
và vận dụng tri thức.
- Mặt khác, trong xu thế đổi mới ngành giáo dục ở Việt Nam trong đó có môn Ngữ Văn, với việc
xây dựng chương trình mở, kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh, …càng đặt
ra thách thức cho HS trong vai trò chủ động tiếp cận lĩnh hội và giải quyết kiến thức trong toàn
bộ quá trình học tập. Do đó, việc đổi mới PPDH ở nước ta đã trở thành một yêu cầu vừa hiển
nhiên vừa bức thiết.
II. Xuất phát từ thực tiễn tình hình triển khai phương pháp dạy học dự án
1. Dạy học dự án là một chiến lược dạy học ở nhiều nước trên thế giới
Mầm mống đầu tiên của dạy học dự án (viết tắt DHDA) đã có trong quan niệm của các
nhà giáo dục kinh điển như Rouseau (1712-1778), H.Pestalozzi (1746-1827), F.Frobel (1782-
1852) và W. Humboldt Xuất hiện trước hết từ châu Âu rồi lan sang Bắc Mĩ, ngày nay, DHDA
mang tính tòan cầu. Đã có nhiều công trình của các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu về dạy
học dự án, đó là các công trình: J.Deway, W.Kilpatrich (Mĩ), Celestin Freinet (1896-1966) và
Macarenko- nhà sư phạm tiên tiến Liên Xô cũ
2. Dạy học dự án đã được triển khai rộng rãi trong các trường THPT ở Việt Nam
Ở Việt Nam, DHDA chính thức du nhập vào năm 2003. Có rất nhiều bài viết tiếp cận
DHDA từ góc độ lý luận trên các tạp chí và website; tiêu biểu các tác giả như: PGS.TS Đỗ
Hương Trà, PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa và Võ Thị Bảo Ngọc, TS Nguyễn Văn Cường và
Th.S Nguyễn Thị Diệu Thảo Ngoài ra, DHDA cũng được nghiên cứu trong các khóa luận và
luận văn tốt nghiệp. Và hằng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo có kế hoạch tập huấn rộng rãi chương
trình Dạy học cho tương lai t(dạy học của Intel, phiên bản 10.4) trong đó có DHDA cho các GV

phổ thông toàn quốc
3. Dạy học dự án là một phương pháp dạy học tích cực đem lại nhiều ưu thế
- Với đặc trưng: dạy học thông qua hoạt động của chính người học nhằm hình thành và phát
triển các kĩ năng tự học, tự nghiên cứu và dạy học dựa trên việc đánh giá, tự đánh giá và cùng
3
đánh giá, phương pháp dạy học dự án ̣̣̣̣ đã thể hiện được ưu điểm nổi bật của mình trong việc
hướng tới các mục tiêu của giáo dục hiện đại mà UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm,
học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
- DHDA được vận dụng vào thực tiễn dạy học môn Ngữ văn ở trường THPTsẽ phát huy tính
tích cực, chủ động của HS trong học tập; tạo được hứng thú cho HS và góp phần đa dạng hóa
các PPDH. Bởi lẽ HS sẽ hứng thú hơn với việc học khi có cơ hội thâm nhập vào những vấn đề
phức tạp, mang tính thách thức cao và đôi khi đầy rẫy những vấn đề nhưng rất sát với thực tế
đời sống Vậy nên, DHDA đã trở thành một trong những PPDH “làm cho GV chỉ cần dạy ít mà
HS học được nhiều và làm cho nhà trường bớt sự nhàm chán và bớt sự nhọc nhằn” (GI.
Comenski)
III. Xuất phát từ thực trạng dạy học các bài học nhật dụng của môn Ngữ văn ở trường
THPT Việt Nam
1. Về phía người dạy
- Bối cảnh chung của Việt Nam hiện nay là rất nhiều giáo viên Ngữ văn còn lúng túng trong việc
xác định một PPDH nhằm gây được nhiều hứng thú cho HS và tích cực hóa hoạt động học tập
của HS. Để làm rõ hơn, chúng tôi đã sử dụng Phiếu điều tra để đánh giá việc vận dụng phương
pháp dạy học dự án và một số phương pháp dạy học khác trong môn Ngữ Văn ở trường THPT
Ngô Quyền – Nam Định. (Mẫu phiếu điều tra ở phần Phụ lục 1)
* Đồ thị biểu diễn kết quả của phiếu điều tra ở Phụ lục 1:
- Rõ ràng, dễ nhận thấỵ̣̣, dạy học các bài học nhật dụng môn Ngữ văn ở trường THPT còn tồn tại
nhiều vấn đề như: còn thiên về chú trọng việc truyền thụ tri thức khoa học mà ít gắn với thực
tiễn, PPDH chiếm ưu thế vẫn là các phương pháp thuyết trình, trong đó giáo viên là trung tâm
của quá trình dạy học, như vậy sẽ hạn chế việc phát triển toàn diện, tích cực sáng tạo của học
sinh. Sự bất cập này càng được thể hiện rõ trong việc dạy học các loại văn bản không hư cấu;
có tính thực tiễn và tính cập nhật cao ̣thường gọi là bài học nhật dụng . Đa số giáo viên chưa

chú ý đến cái đích của loại bài học này là trau dồi kiến thức về các vấn đề cấp thiết đặt ra trong
4
cuộc sống nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân với xã hội, cuộc sống. Sự mơ hồ
kiến thức về các bài học nhật dụng của HS, thái độ chưa thực sự quan tâm đến các bài học nhật
dụng của giáo viên đã dẫn đến khuynh hướng đồng nhất giữa phương pháp dạy học bài học nhật
dụng và bài học văn chương thuần túy. Chẳng hạn: khi dạy học bài “Thái sư Trần Thủ Độ”-
SGK Ngữ văn 10, nhiều GV chỉ dừng ở phân tích nhân vật Trần Thủ Độ mà không liên hệ cách
dùng người của ông với vấn đề bồi dưỡng và sử dụng nhân tài của Đảng và nhà nước ta hiện
nay. Thực tế, tần số áp dụng phương pháp dạy học dự án chưa cao do tâm lí e ngại sợ mất
nhiều thời gian và công sức chuẩn bị của GV. Điều này được phản ánh phần nào qua kết quả
điều tra khi đưa ra 4 bài học nhật dụng trong SGK Ngữ văn 10 và việc tổ chức dạy học dự án
mà HS được tiếp cận trong 4 bài học nhật dụng đó, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Lớp- Trường Số HS Phương án
1/4 bài 2/4 bài 3/4 bài 4/4 bài
10K- Ngô Quyền 47 47 0 0 0
10I- Ngô Quyền 40 0 40 0 0
10D1- Ngô Quyền 45 0 45 0 0
Tổng 132 47 85 (35.6 %) 0 (64.4%) 0
2. Về phía học sinh
- Thói quen học thụ động vẫn còn khá phổ biến. Đa số các em không quan tâm đến hoạt động tự
tìm đến tri thức mà quen nghe, chép và ghi nhớ, tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì
mà GV đã giảng. Điều này làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến người học
thành quen suy nghĩ, diễn đạt bằng ý vay mượn, lời sẵn có và thành người nô lệ của sách vở. Vì
chưa có hào hứng, chưa quen bộc lộ suy nghĩ tình cảm của cá nhân trước tập thể nên khi phải nói
và viết, HS cảm thấy rất khó khăn. Khi được hỏi về mức độ tích cực tham gia học tập của 1
nhóm học sinh trong giờ học Ngữ Văn, chúng tôi thu được kết quả sau:
Phương án
Tham gia
thảo luận
đưa ý kiến

cá nhân
Lắng nghe và
ghi chép, bản
thân không
có ý kiến gì
Không quan tâm
nhưng không làm
ảnh hưởng đến tiến
trình lớp học
Làm việc
riêng
10K- Ngô Quyền 21 4 7 7 2
10I- Ngô Quyền 20 6 8 5 3
10D- Ngô Quyền 21 5 7 6 2
Tổng 62 15 (21,2%) 22 (35.5 %) 18 (29%) 7(11,5%)
Kết quả này phản ánh phần nào thực trạng học sinh không thực sự hứng thú với việc học
môn ngữ Văn đồng thời cũng phản ánh tình trạng giáo viên chưa biết cách lôi kéo HS tham gia
tích cực vào giờ dạy của mình.
3. Về kiểm tra đánh giá
5
Việc kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở bậc THPT vẫn có nhiều bất cập, chưa “đo” được
toàn diện năng lực của người học, chưa khuyến khích được sự sáng tạo của HS trong làm bài và
chưa góp phần điều chỉnh, đổi mới PPDH. Các đề kiểm tra hầu như được ra theo dạng “đề
đóng”, tính tích hợp (giữa các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Văn học và liên môn) chưa cao;
các câu hỏi chủ yếu đánh giá HS ở hai mức nhận biết và thông hiểu. Mặt khác việc đánh giá còn
chưa đa chiều, vẫn thiên về kênh đánh giá từ phía giáo viên mà không quan tâm nhiều đến phía
HS tự đánh giá
Trước thực trạng còn nhiều tồn tại trên, vấn đề đặt ra cấp thiết là phải đổi mới phương
pháp dạy học. Và cốt lõi của việc đổi mới này là chú trọng hơn nữa phương pháp tự học cho
HS, khả năng hợp tác, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đa dạng hóa các hình thức

hoạt động học tập, xây dựng môi trường học tập tích cực, tương tác, thể hiện rõ đặc trưng bộ
môn; tạo động lực học tập Ngữ văn cho HS, giúp HS thực sự hứng thú, say mê với môn học; sử
dụng PP để giúp HS rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, hình thành năng lực giao tiếp;
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Ngữ văn
B. GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM
Từ những vấn đề do thực tiễn đặt ra, tôi đã mạnh dạn thực hiện đề tài:
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP “DẠY HỌC DỰ ÁN” TRONG DẠY HỌC
CÁC BÀI HỌC NHẬT DỤNG - CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC DỰ ÁN
1. Khái niệm phương pháp “dạy học dự án” (viết tắt DHDA)
- Dạy học dự án được hiểu như là một phương pháp hay một hình thức dạy học, trong đó người
học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo
ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao
trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế họach, đến việc thực hiện dự
án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Điểm cốt lõi của học tập dựa
trên dự án là: học qua làm (Learning by doing) tức là thông qua làm việc (hành động có chủ
định) mà hiểu biết và lĩnh hội giá trị.
Đặc điểm của “dạy học dự án”: điểm cốt lõi của DHDA là: định hướng học sinh, định hướng
thực tiễn và định hướng sản phẩm và đưọc sơ đồ hóa như sau:
6
- Mục tiêu dạy học trong DHDA mang tính định hướng rõ ràng và được thiết kế dựa trên
chuẩn chuẩn kiến thức và nhắm tới kĩ năng tư duy bậc cao của thế kỉ 21.
- Nội dung dạy học trong DHDA mang tính tổng hợp hoặc liên môn. Vấn đề phải hấp dẫn, sát
với thực tiễn để thiết kế được nhiều hoạt động.
- Phương tiện dạy học trong DHDA rất đa dạng và đặc biệt thuận lợi khi có sự hỗ trợ của các
phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại.
- Kiểm tra, đánh giá trong DHDA mang tính đa chiều: dựa trên việc đánh giá, tự đánh giá và
cùng đánh giá. Việc kiểm tra đánh giá của GV diễn ra trong toàn bộ quá trình hoàn thành nhiệm
vụ của HS. Các tiêu chí đánh giá được công bố, thống nhất trước khi các em bắt tay vào làm việc

- Vai trò của giáo viên và học sinh trong DHDA
+ Vai trò của giáo viên là người định hướng (guide), một nhà tư vấn (advise), hướng dẫn
viên và một học viên cộng tác (bạn cùng học).
+ Vai trò của học sinh: Là “tác giả tích cực” của quá trình học tập, nên: HS thực hiện dự
án bằng thực hiện các vai được chỉ định và tự lực triển khai dự án và tập giải quyết vấn đề có
thật trong đời sống
2. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học dự án
2.1. Ưu điểm của DHDA
- Về nội dung kiến thức: kiến thức được mở rộng, phong phú hơn; gắn với thực tế và có tính
liên môn. Có thể lí giải điều này qua Sơ đồ về tỉ lệ tiếp thu trung bình
7
Tính tự
lực cao
Hợp tác
làm việc
Định
hướng
sản phẩm
Định
hướng
thực tiễn
Mang
tính phức
hợp
Dạy học


dự án
1
Đọc

Nghe nhìn
Mô tả, trình bày
Thảo luận nhóm
Thực hành
Ứng dụng ngay việc học/ Dạy cho người khác
Thuyết giảng
5%
10 %
20%
30%
50%
Sơ đồ về tỉ lệ tiếp thu trung
bình
- Về năng lực tư duy và kĩ năng
+ Phát triển kĩ năng tự học, tự định hướng và xử lý các vấn đề phức tạp
+ Rèn các kĩ năng: thu thập và xử lí thông tin; công nghệ thông tin và làm việc nhóm
+ Phát triển tư duy sáng tạo; giải quyết vấn đề và kĩ năng thuyết trình
-Về môi trường học tập: tạo ra bầu không khí học tập cởi mở, thoải mái và dân chủ
2.2. Nhược điểm của DHDA
- DHDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang tính trừu tượng, hệ thống
- DHDA cần nhiều thời gian và công sức chuẩn bị nên không thể tiến hành một cách thường
xuyên trong chương trình môn học.
- Mặt khác, DHDA đòi hỏi về cơ sở vật chất, tư liệu tham khảo nên ở những nơi còn thiếu và
yếu về các phương tiện dạy học thì khó triển khai DHDA.
- DHDA yêu cầu phải thay đổi thói quen dạy học cũ của GV và HS
3. Quy trình của “dạy học dự án”
Tiếp cận DHDA theo chương trình dạy học của Intel, có thể chia các giai đoạn của DHDA theo
5 giai đoạn chính. Cụ thể là:
1. Giai đoạn 1: Sáng kiến về dự án (Giai đoạn chuẩn bị)
2. Giai đoạn 2: Thiết kế dự án

3. Giai đoạn 3: Thực hiện dự án
8
Nguồn: />75%
90%
4. Giai đoạn 4: Thu thập kết quả và báo cáo sản phẩm
5. Giai đoạn 5: Đánh giá dự án
II. ÁP DỤNG “DẠY HỌC DỰ ÁN” TRONG DẠY HỌC CÁC BÀI HỌC
NHẬT DỤNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Điều kiện để áp dụng phương pháp “dạy học dự án”
1.1 .Nội dung học tập
- Đặc điểm chủ đề nội dung bài học: gắn liền với thực tiễn và mang tính thời sự, cập nhật
- Mục tiêu cơ bản nhất của bài học: tập trung rèn luyện và phát triển kĩ năng thực hành cho HS
thông qua hoạt động của chính các em.
2.2. Đối tượng người học và người dạy
- Người học: Được trang bị đầy đủ kiến thức (về môn học; liên môn và về phương pháp
DHDA); có thói quen làm việc chủ động; phương pháp học tập khoa học và có ít nhiều kĩ năng
về công nghệ thông tin
- Người dạy: Có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ; phong cách làm việc chuyên nghiệp và khả năng
quản lí HS. Khả năng tư duy linh hoạt và cần một bản lĩnh nghề nghiệp.
1.3. Phương tiện dạy học
Đầy đủ các phương tiện dạy học cơ bản và có sự hỗ trợ của các phương tiện dạy học hiện đại
1.4. Các điều kiện khác
- Sự đồng thuận của cấp quản lí trường học; các Ban ngành địa phương
- Cơ chế thi cử cần chú trọng đến tính thực tiễn của kiến thức
2. Khả năng vận dụng phương pháp “dạy học dự án” trong dạy học các
bài học nhật dụng của môn Ngữ văn THPT
Khái niệm bài học nhật dụng (BHND) được nói đến trong bài nghiên cứu
này để chỉ những bài học mà toàn bộ hay một phần nội dung của bài học có tính
nhật dụng. Như vậy, BHND bao gồm các bài đọc- hiểu các văn bản nhật dụng;
những bài học Làm văn và số ít bài tiếng Việt có hướng tới tính nhật dụng cho học sinh

bằng cách sử dụng các văn bản nhật dụng làm ngữ liệu hoặc gíup HS tạo lập các văn bản
nhật dụng (văn bản viết và văn bản nói)
2.1. Đối với bài đọc- hiểu các Văn bản nhật dụng
a. Đặc điểm bài học
9
Đây là loại văn bản không sử dụng hư cấu, tưởng tượng. Đặc điểm nổi bật của văn bản nhật
dụng là tính thực tiễn và tính cập nhật. Đặc trưng này làm cho lọai bài học này có sức lôi cuốn
người học không những trong hoạt động đọc- hiểu văn bản mà còn cuốn hút họ trong việc sưu
tầm, tìm hiểu các thông tin có liên quan, thống kê số liệu về các vấn đề tương tự đang diễn ra
xung quanh họ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc văn bản nhật dụng trở thành sợi dây kết nối
người học với thực tiễn
b. Mục tiêu bài học
- giúp HS hiểu nội dung của 1 số bài viết về các vấn đề cấp thiết đặt ra trong cuộc sống; biết
cách đọc- hiểu Văn bản nhật dụng và nâng cao ý thức trách nhiệm của cá nhân với xã hội.
- Nhằm đáp ứng được mục tiêu trên, nguyên tắc chỉ đạo trong các giờ đọc- hiểu VBND là: Tổ
chức cho HS liên hệ tới bản thân và các vấn đề nhật dụng có liên quan; Đảm bảo cá nhân trực
tiếp tham gia bài học và kết hợp làm việc trên văn bản lấy từ thực tiễn. Điều này cho thấy, với
bài đọc- hiểu văn bản nhật dụng phải tạo cơ hội nhiều nhất cho HS tham gia đọc- hiểu văn bản
theo hướng tự tìm hiểu, thuyết minh tư liệu liên quan đến chủ đề bài học.
c. Khả năng vận dụng dạy học dự án vào giờ đọc- hiểu văn bản nhật dụng:
Từ những điều phân tích về đặc điểm và mục tiêu bài học nêu trên, việc áp dụng DHDA ở
loại bài học này là hòan tòan có cơ sở. Hướng vận dụng DHDA ở đây khá phong phú. Dựa trên
hoàn cảnh thực tế và bằng khả năng tổ chức, GV có thể vận dụng DHDA trong giờ đọc- hiểu
VBND trên lớp. Và khi cần, với những vấn đề có tính thời sự cấp thiết, có thể áp dụng DHDA
trong các hoạt động ngoại khóa để tiến hành khảo sát thực trạng, đề xuất giải pháp và tham gia
(nếu có thể).
2.2. Đối với các bài học tạo lập các văn bản nhật dụng hay sử dụng văn bản
nhật dụng làm ngữ liệu
2.2.1. Các bài học tiếng Việt
a. Đặc điểm bài học

Các bài học tiếng Việt được đưa vào chương trình THPT chỉ tập trung vào một số nội dung
chính (Hoạt động giao tiếp; Phong cách ngôn ngữ; Những vấn đề chung về tiếng Việt) và chú
trọng thực hành, các đơn vị kiến thức gần gũi và liên quan tới thực tiễn giao tiếp hằng ngày của
HS.
b. Mục tiêu bài học
10
Chú trọng đến thực hành, không mang tính “hàn lâm”, “kinh viện”. Phần tiếng Việt gồm 2 loại
bài: Loại bài thiên về hình thành kiến thức, kĩ năng mới và Loại bài thực hành để củng cố kiến
thức, kĩ năng. Xét về số lượng: Loại bài thực hành có số lượng lớn hơn. Có thể minh họa bằng
số liệu sau: Phần tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 10 Nâng cao, trừ 1tiết dành cho bài Ôn tập tiếng
Việt, trong 18 tiết học thì nội dung có tính chất lí thuyết chiếm 7,5 tiết (hơn 40%), nội dung có
tính chất thực hành chiếm 10,5 tiết (non 60%). Còn xét về cấu trúc: Ngay ở cả các Loại bài
thiên về hình thành kiến thức, kĩ năng mới thì ở cuối mỗi bài đều có phần Luyện tập và kiến
thức, kĩ năng mới chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực hành (từ khâu tìm hiểu, phân
tích ngữ liệu thực tế, ).
- Từ 2 đặc điểm nêu trên và qua khảo sát kĩ lưỡng từng bài học tiếng Việt trong chương trình,
chúng tôi thấy ngoài nội dung các bài thực hành, một số đơn vị kiến thức là những vấn đề lý
thuyết nhưng rất lại gần gũi, quen thuộc và có liên quan tới thực tiễn giao tiếp trong cuộc sống
hằng ngày của HS. Cụ thể:
- Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ với các nhân tố tham gia giao tiếp, hai quá trình giao
tiếp (tạo lập và lĩnh hội), hai dạng (nói và viết trong giao tiếp), sản phẩm của giao tiếp là văn
bản. Đây là một hoạt động mà các em thường xuyên tiến hành trong cuộc sống gia đình, nhà
trường và ngoài xã hội.
- Các phong cách chức năng: trừ PCNN nghệ thuật thì PCNN sinh hoạt, PCNN báo chí,
PCNN hành chính cũng không phải là những vấn đề quá xa lạ với HS. Chẳng hạn: ở PCNN
sinh hoạt, ngôn ngữ sinh hoạt là lời ăn tiếng nói hằng ngày để thông tin, trao đổi ý nghĩ, đáp ứng
nhu cầu tự nhiên của con người trong cuộc sống. Còn với PCNN báo chí, ngôn ngữ báo chí là
ngôn ngữ được dùng trong các thể loại báo chí (tin tức, phóng sự) thì các em cũng được thấy
thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng: đài, báo, truyền hình,
c. Khả năng vận dụng dạy học dự án:

Có thể sử dụng DHDA như một biện pháp hoặc một kĩ thuật dạy học nhằm đa dạng hóa các hoạt
động học tập. GV có thể xây dựng dự án nhỏ, thực hiện được trong khỏang thời gian ngắn như
thời gian làm bài tập trong mục Luyện tập ở cuối mỗi bài học. Điển hình ở các bài học về phong
cách ngôn ngữ
2.2.2. Các bài học Làm văn
a. Đặc điểm bài học:
11
Tập trung vào một số nội dung sau: Trình bày một vấn đề; Phát biểu theo chủ đề; Kế hoạch cá
nhân; Văn bản quảng cáo; Văn bản tổng kết; Bản tin; Tiểu sử tóm tắt, Mặt khác, Đề làm văn
trong chương trình mở rộng phạm vi hơn, có huy động hiểu biết về đời sống của HS, gắn liền
với các tri thức trong phần Văn học và tiếng Việt. Về cơ bản, nội dung phần Làm văn THPT gần
gũi, thiết thực với đời sống.
b. Mục tiêu bài học:
Chủ yếu rèn luyện và nâng cao kĩ năng tạo lập văn bản: tạo lập các kiểu văn bản viết và văn bản
dạng nói. Nguyên tắc chỉ đạo trong dạy học Làm văn là: bằng thực hành, thông qua thực hành và
hướng tới thực hành.
c. Khả năng vận dụng dạy học dự án
vận dụng được ở cả 2 hình thức: trên lớp và trong các hoạt động ngoại khóa
Nhận định chung: Với bất cứ dạng bài học nhật dụng của môn Ngữ văn THPTnào , GV cũng
có thể tìm thấy đơn vị kiến thức phù hợp để vận dụng phương pháp DHDA và nhân tố có ý
nghĩa quyết định là sự nhạy cảm, bản lĩnh và kinh nghiệm của GV. Và có 2 khả năng vận dụng
DHDA trong dạy học các bài học nhật dụng của môn Ngữ văn ở trường THPT có tính khả thi
nhất. Đó là: Vận dụng phương pháp DHDA trong các giờ học bình thường và Vận dụng DHDA
trong các hoạt động ngoại khóa.
3. Quy trình áp dụng phương pháp “dạy học dự án” trong dạy học các
bài học nhật dụng của môn Ngữ văn THPT
3.1. Quy trình chung
Gồm 3 Giai đoạn cơ bản
Giai đoạn1: Hoạt động trước giờ học (Sáng kiến về dự án và thiết kế dự án)
Hoạt

động
của
Hoạt động 1: Chuẩn bị dự án, định hướng bài học
giáo viên
⋅ Xây dựng ý tưởng dự án và kịch bản dự án
12
⋅ Xác định mục tiêu cần đạt khi thực hiện dự án
⋅ Xác định các nguồn hỗ trợ dạy học
Hoạt động 2: Thiết kế dự án
⋅ Lập kế hoạch bài dạy và soạn giáo án
⋅ Chuẩn bị các tài liệu có liên quan đến dự án
⋅ Chia nhóm học sinh và phân công nhiệm vụ cho các nhóm
⋅ Cung cấp bộ công cụ đánh giá và tài liệu hỗ trợ dự án
⋅ Chuẩn bị trang thiết bị và cơ sở vật chất để thực hiện tốt dự án
Hoạt động cá nhân
⋅ tự nghiên cứu các nội dung bài học; thu thập các tài liệu
⋅ Đóng góp ý tưởng và cách giải quyết nhiệm vụ
Hoạt động nhóm
⋅ Chia nhóm, bầu nhóm trưởng, thư kí nhóm
⋅ Nhận nhiệm vụ nhóm; chia nhiệm vụ nhóm thành nhiệm vụ nhỏ hơn
⋅ Họp nhóm, bàn bạc lên kế hoạch thực hiện dự án
Giai đoạn 2: Hoạt động trong giờ học (Thực hiện dự án, báo cáo sản phẩm và đánh giá dự án)
Hoạt động1
Tổ chức
thực
hiện
dự án
Giáo viên Học sinh
- Nêu lại ý tưởng dự án và nhiệm
vụ đã bàn giao

- Chỉ dẫn cách thực hiện và hạn
định thời gian
- Kiểm tra tiến độ và hỗ trợ kịp
thời khi HS gặp vướng mắc
- Họp nhóm, tập hợp lại tài liệu
- Nhóm trưởng thiết lập các vai, giao nhiệm
vụ cho từng thành viên trong nhóm và tiến
hành thực hiện dự án
- Hòan thiện sản phẩm; thống nhất cách thức
trình bày sản phẩm
Hoạtđộng2:
Tổ chức
- Chỉ dẫn cách thức; thời gian trình
bày sản phẩm
- Bốc thăm thứ tự trình bày
- Trình diễn sản phẩm và thảo luận
13
báo cáo
sản phẩm
- GV phát Phiếu tham vấn, Phiếu
tự đánh giá
- Địnhhướng kiến thức bài học
- HS điền vào các phiếu
- Các nhóm điều chỉnh sản phẩm nhóm
- HS tự rút ra và bổ sung kiến thức
Hoạtđộng3:
Tổ chức
đánh giá
dự án
- GV nhắc lại tiêu chí đánh giá -

GV tập hợp các kết quả kết hợp để
xem xét tính điểm cho tổng điểm
tòan nhóm
- Căn cứ trên tiêu chí này, HS điền vào các
phiếu mà GV đã phát
-HS phân chia điểm hợp lý trong nhóm rồi
báo cáo lại cho GV.
Giai đoạn3: Hoạt động sau giờ học
GV
⋅ Bàn giao nhiệm vụ mới cho các nhóm (có chỉ dẫn cụ thể)
Hoạt
động
củaHS
⋅ Nhận nhiệm vụ mới và hoàn thiện sản phẩm nhóm
⋅ Các nhóm rút kinh nghiệm, chia sẻ kiến thức về bài học
3.2. Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong dạy học bài: “Phỏng vấn
và trả lời phỏng vấn” (SGK Ngữ văn 11, tập1)
3.2.1. Giai đoạn 1: Hoạt động trước giờ học
- Hoạt động 1: Chuẩn bị dự án, định hướng bài học
+ Xây dựng ý tưởng dự án và kịch bản dự án:
Để thu thập thông tin cho chuyên mục “Trang vàng truyền thống” của tờ báo Đòan
TNCSHCM trườngnhân dịp kỉ niệm ngày 20/11, em được giao nhiệm vụ phỏng vấn các nhân vật
(Thầy (cô) hiệu trưởng; Một thầy (cô) giáo đã dạy học lâu năm tại trường; bác lao công đã gắn
bó với trường từ ngày thành lập đến nay và Anh (chị) bí thư Đoàn trường)
+ Xác định mục tiêu dự án
+ Xác định các nguồn hỗ trợ dạy và học
- Hoạt động 2: Thiết kế dự án
+ Lập kế hoạch bài dạy và Soạn giáo án
+ Chia nhóm học sinh và Phân công nhiệm vụ cho các nhóm
+ Cung cấp bộ công cụ hỗ trợ dự án

+ Chuẩn bị trang thiết bị và cơ sở vật chất để thực hiện tốt dự án
3.2.2. Giai đoạn 2: Hoạt động trong giờ học
- Hoạt động 1: Tổ chức thực hiện dự án, thu thập kết quả hòan thành dự án
14
Giáo viên Học sinh (làm việc theo hình thức nhóm)
- Nêu lại ý tưởng và kịch bản dự
án; nhiệm vụ đã bàn giao
- Chỉ dẫn cách thực hiện và hạn
định thời gian
- Kiểm tra tiến độ thực hiện dự
án của từng nhóm
- Hỗ trợ khi HS gặp vướng mắc
- Họp nhóm, tập hợp lại tài liệu, các thành viên đề xuất ý
tưởng thực hiện dự án.
- Thực hiện1cuộc phỏng vấn bằng cách phân vai cho các
thành viên trong nhóm (Người phỏng vấn; Người trả lời
phỏng vấn; Người ghi biên bản)
- Từng thành viên báo cáo kết quả và nhóm tổng hợp kết quả,
hòan thiện sản phẩm

- Hoạt động 2: Tổ chức báo cáo sản phẩm
+ GV nêu lại nhiệm vụ nhóm, chỉ dẫn về cách thức, thời gian trình bày sản phẩm
+ Các nhóm trình bày sản phẩm và chọn ra sản phẩm ấn tượng nhất
+ GV tổ chức cho HS phân tích cuộc phỏng vấn vừa được chọn
+ Các nhóm trình diễn một hoạt động phỏng vấn và trả lời phỏng
+ GV tổ chức cho HS phân tích cuộc phỏng vấn được chọn và định hướng kiến thức
- Hoạt động 3: Tổ chức thảo luận, đánh giá dự án
3.2.3. Giai đoạn 3: Hoạt động sau giờ học
GV: Bàn giao nhiệm vụ mới: Cung cấp choHS 1đoạn video (đã xóa lời) ghi lại hình ảnh trang
phục của giới trẻ hiện nay. Dựa trên đoạn phim này hãy thực hiện một cuộc phỏng vấn một thầy

(cô) giáo trong trường theo chủ đề:“Về trang phục HS và thanh niên hiện nay”
HS: Nhận nhiệm vụ mới; Rút kinh nghiệm, chia sẻ kiến thức
III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1.Mục đích thực nghiệm
Kiểm nghiệm tính khả thi của DHDA khi dạy học bài học nhật dụng của môn Ngữ văn ở
trường THPT và đánh giá triển vọng của phương pháp này trong việc tạo ra nhiều hứng thú, tích
cực hóa hoạt động của HS
2. Địa điểm, đối tượng và thời gian thực nghiệm
15
Phương pháp dạy học dự án được thực nghiệm tại trường THPT Ngô Quyền- TP Nam
Định với cơ sở vật chất tương đối đầy đủ: có phòng học đa chức năng. Đối tưọng lớp10D với45
HS có ý thức học tập tốt, đa số có kiến thức về tin học …
Thời gian thử nghiệm sư phạm diễn ra trong 1 tuần từ 07/4/2014- 15/ 4/2014
3. Tiến trình thực nghiệm
3.1. Chuẩn bị cho quá trình thực nghiệm
- Xây dựng kế hoạch bài dạy và giáo án.
- Làm việc với tập thể học sinh
- Tiếp xúc, làm quen với tập thể HS lớp 10D trước khi bắt đầu bài học 1 tuần
- Giới thiệu cho các em về Dạy học dự án
- Giới thiệu bài học “Viết quảng cáo” (SGK Ngữ văn 10, Tập 2)
- Giới thiệu về dự án để học bài “Viết quảng cáo” (SGK Ngữ văn 10, Tập2)
Tham dự cuộc thi “Tuyển dụng nhân sự cho phòng kinh doanh” của một công ty chuyên cung
cấp hàng tiêu dùng, em nhận được một chủ đề như sau:“Trong vai một nhân viên marketting
của công ty, hãy thiết kế một quảng cáo cho một trong các sản phẩm của công ty để thu hút
được nhiều nhất khách hàng lựa chọn và tin dùng sản phẩm”. Em sẽ làm như thế nào để chiến
thắng trong cuộc thi này.
- Chuyển giao nhiệm vụ cho HS
+ Chia nhóm học sinh: thành 4 nhóm và đảm bảo mỗi nhóm có HS giỏi (khá), HS trung
bình, HS yếu và có lưu ý đến hứng thú của HS
+ Phân công nhiệm vụ và chỉ dẫn cụ thể : mỗi nhóm nhận 2 nhiệm vụ như nhau:

Nhiệm vụ 1: Sưu tầm một số VBQC về sản phẩm dầu gội đầu (văn bản trên báo chí, đoạn
video hoặc có minh họa hình ảnh); phân tích và thẩm định các VBQC này. Nhiệm vụ 2: Trong
vai một nhân viên marketting của một công ty chuyên cung cấp hàng tiêu dùng, hãy thiết kế một
quảng cáo cho một trong các sản phẩm của công ty. Thiết kế quảng cáo được trình diễn trên
PowerPoint
+ Cung cấp cho HS các tài liệu in sẵn và 1số địa chỉ trang web; Tiêu chí đánh giá sản
phẩm, Phiếu hướng dẫn nghiên cứu dự án và Kế hoạch dự án (xem phụ lục)
+ Thống nhất với HS kế hoạch thực hiện
3.2. Tiến trình thực nghiệm
16
Được tiến hành vào 2 tiết học cùng ngày 4/2014. Các hoạt động cụ thể như sau:
3.2.1. Khởi động bài học (5phút)
GV giới thiệu lại về dự án đã được chuẩn bị trước khi học bài “Viết quảng cáo”:
3.2.2. Thực hiện dự án (30 phút)
Giáo viên Học sinh (làm việc theo hình thức nhóm)
- Nêu lại ý tưởng và kịch bản
dự án đã thống nhất và các
nhiệm vụ đã bàn giao cho
các nhóm
- Chỉ dẫn cách thực hiện và
hạn định thời gian
- Thường xuyên kiểm tra
tiến độ thực hiện dự án của
từng nhóm
- Quan sát bao quát thái độ
làm việc của các thành viên
trong các nhóm
- Hỗ trợ kịp thời khi HS
gặp vướng mắc
- Họp nhóm, tập hợp lại tài liệu được lựa chọn

- Nhóm trưởng nhắc lại nhiệm vụ của nhóm và điều hành các
thành viên thiết kế quảng cáo trong các vai:
+ Nhà nghiên cứu: Mọi thành viên trong nhóm đều phải
tham gia tìm kiếm thông tin và nghiên cứu ý tưởng thiết kế
quảng cáo cho sản phẩm mà nhóm lựa chọn
+ Nhà thiết kế: đề xuất ý tưởng quảng cáo, lên kế hoạch chi
tiết cho văn bản quảng cáo (VBQC) quảng cáo như: bố cục,
nội dung lời quảng cáo và dự kiến hình thức trình bày
+Chuyên viên công nghệ: thực hiện nghiên cứu trên
Internet, tải thông tin và sau khi bàn bạc với nhà thiết kế
quyết định hình thức trình bày VBQC (lựa chọn cách thức
trình bày sản phẩm sao cho ấn tượng như: định dạng tờ rơi, áp
phích hay văn bản viết có minh họa hình ảnh)
+ Biên tập viên: ghi chép quá trình làm việc của nhóm
+ Người thuyết trình: giới thiệu quá trình nghiên cứu của
nhóm, trình bày kết quả (có thể kết hợp nhiều cá nhân) và
thuyết minh về ý đồ quảng cáo của nhóm mình
- Các thành viên thực hiện dự án trên cơ sở Kế hoạch dự án,
Phiếu hướng dẫn nghiên cứu dự án và Tiêu chí đánh giá
sản phẩm do GV cung cấp trước giờ lên lớp.
- Sau thời gian hạn định, từng thành viên báo cáo kết quả và
thảo luận trước nhóm
- Nhóm cùng chỉnh sửa, hòan thiện sản phẩm; bàn bạc về
cách thức trình bày. Quá trình làm việc này sẽ được Thư kí
nhóm ghi chép vào Biên bản làm việc nhóm
3.2.3. GV tổ chức cho HS báo cáo sản phẩm (35 phút )
- Hoạt động 1: GV nêu lại nhiệm vụ, chỉ dẫn về cách thức và thời gian trình bày cho các nhóm
- Hoạt động 2: Các nhóm trình bày sản phẩm và chọn ra sản phẩm ấn tượng nhất
+ Mỗi nhóm có 4 phút để giới thiệu VBQC mà nhóm mình sưu tầm
+ 4 VBQC cùng được trình bày trên PowerPoint và ở một vị trí của lớp học

+ Các nhóm nhận xét, phân tích, đánh giá và chọn ra VBQC hay nhất và kết quả VBQC
về xe máy của nhóm 2 được các nhóm đánh giá là độc đáo nhất
17
- Hoạt động 3: GV tổ chức cho các nhóm HS phân tích VBQC hay vừa được chọn và trên cơ sở
nhận xét của các nhóm, GV tổng hợp và định hướng kiến thức bài học về: Vai trò và yêu cầu
chung của VBQC
- Hoạt động 4: Các nhóm trình bày sản phẩm quảng cáo mà nhóm đã thiết kế được với tư cách là
nhân viên Marketting (thời gian 5- 7 phút):
+ Các nhóm lần lượt trình bày sản phẩm quảng cáo mà nhóm đã thiết kế; còn các nhóm
còn lại đóng vai là các khách hàng, người tiêu dùng
+ Đại diện các nhóm sáng tỏ ý tưởng quảng cáo của nhóm mình về các mặt: Mục đích và
đối tượng quảng cáo; Phân tích các yếu tố hấp dẫn của VBQC
- Hoạt động 5: GV tổ chức cho các nhóm HS báo cáo về các bước tiến hành viết một văn bản
quảng cáo mà nhóm đã thực hiện (5-6 phút). GV tổng hợp và định hướng cho HS kiến thức về
Cách viết một VBQC
- Hoạt động 6: GV đưa thêm một số lưu ý để giúp HS thiết kế được một sản phẩm quảng cáo hấp
dẫn và thu hút nhất
3.2.4. GV tổ chức cho HS thảo luận, đánh giá dự án (10 phút)
- Tổ chức thảo luận: các nhóm cử đại diện đưa ra các nhận xét và câu hỏi chất vấn (nếu có) về
dự án của các nhóm khác. GV đóng vai “trọng tài” điều hành cuộc thảo
- Đánh giá dự án:
+ HS điền vào các phiếu (Phiếu tham vấn, Phiếu đánh giá (xem phụ lục)
+ Cùng với việc trực tiếp quan sát thái độ làm việc và sự cộng tác, GV tập hợp các kết
quả kết hợp với Biên bản làm việc nhóm, Phiếu đánh giá để xem xét tính điểm cho tổng điểm
tòan nhóm . Từ việc nhận điểm tổng của GV, các nhóm HS đã căn cứ vào quá trình làm việc và
phân chia điểm hợp lý trong nhóm rồi báo cáo lại cho GV.
3.2.5. Dặn dò HS, bàn giao nhiệm vụ mới (10 phút cuối)
- GV yêu cầu các nhóm chỉnh sửa, hòan thiện sản phẩm quảng cáo đã thiết kế
- Đưa ra nhiệm vụ mới: Cung cấp cho HS 1 đoạn video quảng cáo về sản phẩm bột ngọt
Miwon đã bị xóa âm thanh, yêu cầu các nhóm viết lời quảng cáo cho sản phẩm này.

- Cuối tiết học, HS làm bài kiểm tra 5 phút đánh giá kiến thức HS thu nhận được sau tiết học
C. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
18
Một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong nghề dạy học chính là người
Thầy phải giải phóng được mọi tiềm năng trong học sinh. Việc tạo ra những tình huống có
vấn đề, những mâu thuẫn trong nhận thức sẽ kích thích được nhu cầu khám phá của học
sinh, tạo động lực cho quá trình học tập. Phương pháp dạy học dự án sẽ khơi dậy ở học sinh
niềm say mê học tập, khả năng tìm tòi, bồi dưỡng năng lực thích ứng và giải quyết các vấn đề
đặt ra trong học tập cũng như trong cuộc sống
Điều này có thể được minh chứng qua một số kết quả sau:
I. Kết quả bài kiểm tra
Câu hỏi trong đề kiểm tra gồm 7 câu, nội dung chủ yếu bám sát 4 nội dung chính của bài học
nhằm kiểm tra mức độ hiểu bài của HS và giúp các em nhớ bài học ngay trên lớp. HS làm bài
kiểm tra với thái độ nghiêm túc.
ĐỀ KIỂM TRA TRẮC NGHIỆM
(Thời gian làm bài: 5phút)
1. Lựa chọn từ đúng để hòan thiện khái niệm về văn bản quảng cáo:
Văn bản quảng cáo là loại văn bản [ ] về một sản phẩm dịch vụ nhằm [ ] và thuyết phục
khách hàng về chất lượng, tiện ích, của sản phẩm, dịch vụ mà ham thích [ ] và [ ] dịch
vụ đó
a. Thông tin/ thu hút/ mua hàng/ sử dụng
b. Miêu tả/ thu hút/ sản phẩm/ sử dụng
c. Cung cấp thông tin/ giới thiệu/ mua hàng/ sử dụng
d. Miêu tả/ giới thiệu/ mua hàng/ sử dụng
2. Mục đích nào sau đây không phù hợp cho một văn bản quảng cáo?
a. Giới thiệu một cuốn sánh mới hay một bộ phim mới chiếu
b. Trình bày, giới thiệu một mặt hàng mới
c. Chào mời mọi người cùng đến khai trương một cửa hàng
d. Giới thiệu nội dung một hội thảo về môi trường
3. Nội dung nào sau đây là cần thiết nhất trong một văn bản quảng cáo?

a. Tên sản phẩm và nhà sản xuất
b. Tên sản phẩm và chất lượng sản phẩm
c. Tên sản phẩm và quy trình sản xuất
d. Tên sản phẩm và địa chỉ liên hệ
4. Khâu khó khăn nhất khi phải xây dựng một văn bản quảng cáo là gì?
19
a. Xác định đối tường mà quảng cáo cần hướng tới
b. Thiết kế được một ý tưởng có khả năng diễn đạt được hết tính ưu việt của sản phẩm
bằng một kịch bản độc đáo
c. Xác định xem cần đưa vào quảng cáo thông tin nào về sản phẩm
d. Nên sử dụng hình thức nào cho quảng cáo
5. Để khẳng định chất lượng của sản phẩm quảng cáo, cần sử dụng kiểu câu nào?
a. Nghi vấn c. Khẳng định
b. Phủ định d. Cảm thán
6. Yêu cầu nào dưới đây không phải là yêu cầu cơ bản của một văn bản quảng cáo?
a. Nội dung thông tin xác thực và đầy đủ
b. Bất ngờ, thông minh
c. Ngắn gọn, súc tích
d. Tôn trọng pháp luật và thuần phong mĩ tục
7. Đọc văn bản quảng cáo dưới đây :
“Tiêu đề của văn bản: Bạn có muốn trở thành một người sành điệu?
Bạn có biết ăn bóng đá, ngủ bóng đá là gì không? Hãy đến sân cổ vũ cho trận đấu bóng đá
giao hữu giữa trường ta và trường Nguyễn Khuyến! Bạn sẽ trở thành một người sành điệu”
Hãy thuyết minh ngắn gọn ý đồ thiết kế quảng cáo được thể hiện trong văn bản quảng cáo này ở
các mặt sau:
- Mục đích quảng cáo và đối tượng hướng tới:
- Phân tích các yếu tố hấp dẫn:
+ Tiêu đề:
+ Câu văn, từ ngữ:
Kết quả thu được như sau :

Lớp
Số
HS
Điểm kết quả thực nghiệm
Điểm giỏi
(9 – 10)
Điểm khá
(7 – 8)
Điểm trung
bình
(5– 6)
Không đạt
(0 –> 4)
HS % HS % HS % HS %
Thực nghiệm10D 45 12 27 19 42 11 25 3 6
Đối chứng
10E
47 9 19 19 41 14 30 5 10
So sánh kết quả nhận thức của 2 lớp thực nghiệm và lớp đối chứng qua 2 biểu đồ
Hình 1: Biếu đồ thể hiện số lượng điểm của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
20
Hình 2: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ xếp loại phần trăm học lực của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng

Như vậy, sau khi tiến hành bài giảng thử nghiệm ta thấy kết quả chất lượng bài kiểm tra ở lớp
thực nghiệm cao hơn ở lớp đối chứng
II. Kết quả điều tra phỏng vấn
Chúng tôi tiến hành Phiếu phỏng vấn lấy ý kiến của HS sau tiết học thực nghiệm (Phiếu phỏng
vấn- xem phụ lục 6) , chúng tôi đi đến một số nhận định về việc vận dụng DHDA trong môn
Ngữ văn ở trường THPT như sau:
1. Về nội dung kiến thức bài học

21
Với câu hỏi “Để giải quyết các bài tập dự án trong tiết học thực nghiệm, em đã khai thác và sử
dụng nội dung thông tin từ những nguồn nào dưới đây?
a. Từ sách giáo khoa Ngữ văn
b. Từ vốn hiểu biết và kĩ năng của chính bản thân
c. Từ các nguồn tư liệu tham khảo và khai thác qua máy tính có nối mạng Internet
d. Từ các điều GV định hướng; các bạn học hỗ trợ và ý kiến của các chuyên gia
e. Cả 4 đáp án trên
Ở đây có tới 32/45 HS (chiếm tới 71.1%) đã lựa chọn đồng thời đáp án e. Điều đó cũng
đồng nghĩa với việc, để thực hiện các nhiệm vụ học tập trong DHDA, HS đã huy động tối đa nội
dung thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh đó, từ số liệu ở trên, có tới số lượng HS đạt
điểm giỏi và khá là 22HS (chiếm 48.8%), chứng tỏ gần 1/2 HS trong lớp trả lời tốt các câu hỏi
bài học và nắm bài ngay trên lớp. Điều này đã khẳng định: Do HS hoàn tòan chủ động trong
DHDA từ xây dựng đến triển khai kế hoạch học tập, đặc biệt là được ứng dụng ngay kiến thức lí
thuyết vào thực tiễn cuộc sống, kiến thức được lưu giữ hơn trong trí nhớ của HS; hơn nữa, các
đơn vị nội dung bài học được mở rộng và được hiểu sâu hơn.
2. Về môi trường học tập
Trong tiết học thực nghiệm, việc vận dụng DHDA vào dạy học Ngữ văn đã đem đến một
bầu không khí học tập thật mới mẻ. Lấy ý kiến từ HS sau tiết học thực nghiệm, chúng tôi thấy
đã có 40/45 HS chọn phương án a và không có HS nào chọn b,c cho câu hỏi: “Khi cùng các bạn
học tập theo dự án, em thấy không khí giờ học diễn ra như thế nào?
a. Giờ học sôi nổi, thỏai mái không nhiều áp lực và có một sự trải nghiệm thú vị
b. Giờ học bình thường như bao giờ học khác mà không có DHDA
c. Giờ học tẻ nhạt, trầm lắng; không có nhiều hấp dẫn
Rõ ràng DHDA đã cải thiện được không khí đơn điệu, buồn tẻ của những giờ học mà ở
đó thuần túy chỉ là sự truyền thụ một chiều của GV. Trong giờ học có sử dụng DHDA, được trực
tiếp tham gia kiến tạo và xây dựng kiến thức cùng với sự trải nghiệm thú vị của chính bản thân,
HS đã cảm thấy rất thoải mái, cởi mở và thân thiện. Chính không khí sôi nổi này đã kích thích
tinh thần học tập, đem lại rất nhiều hào hứng cho các em khi thực hiện các nhiệm vụ học tập-
Đây cũng là điều góp phần tháo gỡ được sự lúng túng của rất nhiều GV Ngữ văn hiện nay trong

việc tìm kiếm một PPDH có thể nâng cao được hứng thú học tập cho HS.
2. Về năng lực tư duy và rèn luyện kĩ năng
22
Trong bài học “Viết quảng cáo” có sử dụng DHDA, PPDH này đã tích cực hóa hoạt
động học tập của HS và đảm bảo HS được tiếp nhận kiến thức một cách chủ động, tích cực.
Qua kết quả cuộc phỏng vấn, con số 35/45 HS khẳng định: Hoạt động chủ yếu trong tiết học
thực nghiệm này là tham gia thực hiện các bài tập dự án, thảo luận sôi nổi và đưa ra được ý
kiến của cá nhân. Và 30/45 HS có thừa nhận đã tự nghiên cứu và tìm hiểu thêm các tài liệu
trước khi bắt đầu với tiết học thực nghiệm.
Có thể dễ dàng nhận thấy, khi DHDA đặt HS vào vị trí “tác giả tích cực” của quá trình
học tập, HS được tự đề xuất, lựa chọn vấn đề nghiên cứu và tự tiến hành các công việc thì HS đã
hoàn tòan chủ động (thu thập, xử lý thông; tích cực thực hiện các hành động học trong sự tương
tác với người khác). Nhờ đó mà tính tự lực, tính trách nhiệm đồng thời năng lực tư duy sáng tạo
và giải quyết vấn đề có điều kiện phát triển. Hơn nữa, khi HS đưa ra được ý kiến của cá nhân đó
là lúc các em được tự tìm hiểu chính mình và tự khẳng định mình. Đây cũng chính là biểu hiện
của kĩ năng tự học mà DHDA hình thành và phát triển ở người học.
Trong Phiếu trả lời phỏng vấn của HS lớp thực nghiệm, hầu hết HS đều nhận thấy
kiến thức mà các em lĩnh hội được từ học tập theo dự án không phải chỉ từ sự cung cấp và truyền
đạt của GV mà đều thông qua hình thức làm việc nhóm, hợp tác với các bạn trong lớp. DHDA đã
tạo được môi trường học tập tương tác đa chiều. Trong quá trình làm việc nhóm, năng lực cộng
tác, chia sẻ và năng lực lĩnh hội, đánh giá được củng cố và nâng cao. Khi có được những kĩ năng
thiết yếu của xã hội hiện đại này, HS sẽ trở thành con người năng động.
Dạy học dự án hòan tòan có khả năng vận dụng vào thực tiễn dạy học môn Ngữ văn
trong trường THPT ở Việt Nam và nếu được vận dụng một cách phù hợp, sáng tạo thì sẽ tạo
được nhiều hứng thú cho HS; phát huy tính tích cực, chủ động của HS trong học tập và góp
phần đa dạng hóa các PPDH Ngữ văn theo xu hướng hội nhập quốc tế.
D. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận. Qua triển khai đề tài “Vận dụng phương pháp DHDA trong môn Ngữ văn ở
trường THPT”, chúng tôi đã đưa ra và giải quyết các vấn đề sau:
- Chúng tôi đã làm rõ đặc điểm bản chất của DHDA; ưu điểm, hạn chế của nó đồng thời chỉ ra

được vai trò của GV và HS; đặc biệt có nhấn mạnh đến vai trò của HS trong tiến trình đó.
- Trên cơ sở bộ tiêu chí điều kiện để vận dụng DHDA, chúng tôi tiến hành phân tích các dạng
bài học của môn Ngữ văn THPT và nhận thấy có hai khả năng vận dụng DHDA được coi là
mang tính khả thi hơn cả: Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong các giờ học bình thường
23
và Vận dụng “dạy học dự án” trong các hoạt động ngoại khóa Với quan điểm này, dựa trên tiến
trình chung của DHDA, chúng tôi trình bày quy trình vận dụng phương pháp DHDA trong môn
Ngữ văn ở trường THPT.
- Chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm tổ chức áp dụng phương pháp DHDA trong dạy học
bài “Viết quảng cáo” cho HS lớp 10THPT. Quá trình thực nghiệm đã chứng tỏ tính khả thi của
phương pháp DHDA trong môn Ngữ văn ở trường THPT nhằm tích cực hóa hoạt động của HS
và tạo được hứng thú cho các em. Tuy nhiên, thực nghiệm sư phạm mới chỉ được tiến hành một
lần với số lượng HS có hạn nên việc đánh giá hiệu quả của đề tài còn chưa có tính khái quát.
Chúng tôi sẽ tiếp tục thực nghiệm trên diện rộng hơn để có thể áp dụng DHDA một cách đại trà.
II. Kiến nghị
Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài này, chúng tôi có đề xuất kiến nghị sau:
- Có thể mở rộng mô hình DHDA cho tất cả các môn học trong trường THPT, đặc biệt là khi dạy
học các nội dung kiến thức phức hợp có liên quan đến thực tiễn
- Để có thể vận dụng tốt PPDH dự án thì GV phải thực sự nghiên cứu để có được sự chuyển biến
trong PPDH; mà điều này đòi hỏi người GV phải thâm nhuần tư tưởng của phương pháp DHDA.
Theo đó, cần có quá trình đào tạo GV một cách bài bản và thường xuyên.
- Cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất và các phương tiện dạy học, trang thiết bị hiện đại để
DHDA đạt được hiệu quả tối ưu. Biên chế lại số HS trong từng lớp để hỗ trợ cho cho việc tổ
chức các nhóm học tập.
+ Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá, nội dung kiểm tra cần chú trọng đến thực tiễn của kiến
thức mà các em đã được học.
+ Việc áp dụng phương pháp DHDA khi dạy học một nội dung kiến thức nào đó là việc làm
không đơn giản, nó liên quan đến các yếu tố khác như: nội dung kiến thức, điều kiện tổ chức dạy
học cũng như đối tượng HS. Để đạt được mục tiêu dạy học, chúng tôi không tuyệt đối hóa một
phương pháp nào mà cần phối hợp với các PPDH khác. Việc vận dụng DHDA sẽ đạt được kết

quả cao hơn khi có sự kết hợp và phát huy ưu thế của các PPDH truyền thống
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục & Đào tạo. Chương trình giáo dục phổ thông. Nxb giáo dục, 2006
2. Bộ giáo dục & Đào tạo. Phân phối chương trình Ngữ văn 10,11,12
3. Bộ giáo dục& Đào tạo. SGK Ngữ văn 10, 11,12 ( tập I, II). Nxb giáo dục, 2009
4. Phan Trọng Luận. Thiết kế bài giảng ngữ văn 10, 11 và 12 (Tập 1,2). Nxb giáo dục, 2006.
24
5. Nguyễn Thị Phương Hoa- Võ Thị Bảo Ngọc. Tình hình vận dụng phương pháp project
trong dạy học ở trường Đại học Ngoại Ngữ- Đại học Quốc gia Hà Nội. Nxb Đại học Quốc Gia
Hà Nội, 2004.
6. Phạm Toàn. Công nghệ dạy văn. Nxb Lao động, 2006.
7. Debbie Candau, Jennifer Doherty, Robert Hannafin, John Judge, Judi Yost, Paige
Kuni. Intel teach to the future (Chương trình dạy học cho tương lai của Intel). Nxb Lao động
xã hội, 2004.
8. Đỗ Ngọc Thống (2004), “Đổi mới nội dung và hình thức kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn”,
Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 9 tháng 4 năm 2004, tr. 15- 17.
9. Phạm Đức Quang (2004), “Về phương pháp dạy học tích cực & dạy học theo dự án”, Tạp
chí Dạy và Học ngày nay, số 3 tháng 4 năm 2004, tr. 10- 17.
10. Đỗ Hương Trà (2007), “Dự án và tiến trình thực hiện”, Tạp chí giáo dục số 157 kỳ 1 tháng
3 năm 2007, tr. 12- 14.
11. Nguyễn Thị Diệu Thảo- Nguyễn Văn Cường (2004), “Dạy học theo dự án- một phương
pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo viên”, Tạp chí giáo dục, số 80 (4/ 2004), tr. 15- 17.
12.CÁC TRANG WEB có liên quan
/>http:// vi . wikipedia.org (các từ khóa : méthode, pédagogie, pédagogie active, pédagogie de
project, project, ).
http: //www.eduquer-respect. Pédagogie- et- didactique/index.html
PHỤ LỤC 1
PHIẾU ĐIỀU TRA(Dành cho giáo viên)
1. Trong dạy Ngữ văn ở trường THPT, anh chị thường áp dụng những phương pháp dạy học:
STT Các phương pháp dạy học đã áp dụng

Mức độ sử dụng
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Chưa bao giờ
25

×