Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Rủi ro suy thoái toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.8 KB, 20 trang )

Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


1




RỦI RO SUY THOÁI KÉP KINH TẾ TOÀN
CẦU VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆT NAM
Bùi Ngọc Sơn
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới

(Tham luận hội thảo do Văn phòng Quốc hội và VASS tổ chức ngày
23/9/2011 tại Thành phố Hồ Chí Minh)


Qua chín tháng đầu năm 2011 nền kinh tế thế giới cho thấy sự phục hồi sau
khủng hoảng 2008-2009 đang chậm lại rõ rệt. Đồng thời xuất hiện nhiều
nguy cơ lớn đe doạ nền kinh tế thế giới có thể rơi vào suy thoái một lần nữa.
Bài viết này sẽ xem xét những động thái cơ bản của tăng trưởng kinh tế toàn
cầu, những nguy cơ đe doạ suy thoái lần thứ hai và đưa ra nhận định về triển
vọng tiếp theo của nền kinh tế thế giới. Đồng thời bài viết cũng sẽ đề cập
một bối cảnh nếu suy thoái trở thành hiện thực thì Việt Nam liệu có thể bị
tác động gì nếu nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái?

Kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm lại

Biểu đồ 1 ở dưới cho thấy tăng trưởng GDP của Mỹ quý II chỉ tăng có 1%
so với mức 0,4% của quý I. Đó là những mức tăng trưởng thấp đáng lo ngại.


Biểu đồ 1: Tăng trưởng GDP của Mỹ

Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


2


Mức tăng trưởng khá thấp như vậy là không đủ để giảm mức thất nghiệp cao
vẫn ở mức 9,1%. Ước tính để giảm được 1% mức thất nghiệp nước Mỹ cần
phải có mức tăng trưởng khoảng 3,5% năm.

Sự giảm sút trong trong tăng trưởng như vậy chủ yếu là do chi tiêu tiêu dùng
chỉ tăng 0,4 phần trăm trong quí II so với mức 2,1 phần trăm trong quý I.
Trong điều kiện mức thất nghiệp không được cải thiện thì khó có thể tăng
được chi tiêu tiêu dùng, để từ đó tăng trưởng GDP được bền vững. Bởi vì
tiêu dùng chiếm 72% GDP của nước Mỹ.

Tất nhiên sự giảm sút của tăng trưởng ở Mỹ (cũng như của nhiều nền kinh tế
chủ chốt khác được trình bày ở dưới) như vậy còn bị ảnh bởi các tác động
tồi tệ từ cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu; thiên tai và khủng hoảng hạt
nhân ở Nhật; những biến động chính trị ở Trung Đông khiến giá dầu tăng
cao đã xảy ra hồi cuối quí I và đầu quý II.

Thị trường nhà ở vẫn trì trệ chưa có dấu hiệu phục hồi. Mặc dù quý II giá
nhà ở Mỹ tăng được 3,5% so với mức sụt giảm 4,1% trong quý I, xét theo
năm thì giá nhà ở Mỹ vẫn giảm tới 5,9 so với năm ngoái. Khuynh hướng
này vẫn chưa có dấu hiệu giảm (xem biểu đồ 2 ở dưới).
1



Biểu đồ 2 : Chỉ số giá nhà ở S&P/Case-Shiller ở Mỹ (so với năm ngoái)


1
www.standardandpoors.com, 30/8/2011, S&P Indices
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


3



Ông Greenspan, nguyên chủ tịch của Fed, từng nói rằng chừng nào thị
trường nhà ở chưa ổn định và phục hồi chắc chắn thì đừng nghĩ đến sự phục
hồi kinh tế thực sự. Mức thất nghịêp cao và sự thiếu ổn định trong phục hồi
là những nguyên nhân chính giải thích sự trì trệ trong thị trường nhà ở ở Mỹ.

Thất nghiệp là hệ quả của suy thoái kinh tế, tuy nhiên, mức thất nhiệp cao và
kéo dài như hịên nay lại trở thành nguyên nhân của suy thoái. Khi vòng
xoáy xuất hiện trên thực tế thì việc xoay ngược nó lại là rất tốn kém.

Trong bối cảnh đó, cùng với nguy cơ khủng hoảng nợ châu Âu trở lại, và sắp
bầu cử, chính phủ Mỹ của tổng thống Obama đưa ra gói kích cầu lần 3 trị giá
447 tỷ đôla nhắm trực tiếp vào việc tạo thêm việc làm. Tuy nhiên, việc này
còn chờ phê duyệt. Hơn nữa, nguồn quỹ này chưa được công bố rõ, mà sơ
bộ được biết là cắt giảm một số chi tiêu ngân sách (chưa rõ cắt từ đâu), và
khoản 230 tỷ dự kiến là được lấy từ tăng thuế trong thập kỷ tới (nhưng tăng
thuế ở khu vực nào cũng chưa rõ).
2

Trong bối cảnh cuộc bầu cử tổng thống
năm 2012 sự những khác biệt chính trị có thể làm cho sự phê duyệt sẽ diễn
ra không dễ dàng.

.

2
, 9/9/2011, “Obama challenges Congress on Job Plan”
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


4


Trong khi đó, Fed vẫn gặp khó khi đưa ra các chính sách tiền tệ mở rộng
mới vì lạm phát có dấu hiệu tăng. Chỉ số CPI đã luôn tăng cao hơn dự kiến.
Chỉ số này trong tháng 8 cho thấy mức tăng 0,4%, cao mức dự kiến 0,2%.
và tính theo năm thì chỉ số này đã ở mức 3,8% (so với dự kiến là 3,6%). Đó
là lý do làm cho Fed gặp khó nếu muốn đưa ra những chương trình kích
thích mới.

Hôm 22/9/2011 Fed đưa ra chương trình hoán đổi trái phiếu kho bạc của
mình. Theo đó, Fed sẽ bán ra 400 tỷ đôla trái phiếu ngắn hạn của Mỹ và
mua vào cũng số tiền đó những trái phiếu dài hạn. Lập luận của Fed cho
rằng bằng cách này Fed muốn giảm lãi suất cho vay dài hạn và đặc biệt giảm
các mức lãi suất cho vay cầm cố bất động sản. Nhờ đó, thị trường nhà ở và
việc đầu tư dài hạn sẽ được kích thích, kết quả làm cho triển vọng kinh tế tốt
hơn.
3



Tuy nhiên, đa số đều nhận thấy rằng chương trình trên là không có thay đổi
đáng kể nào. Việc này cho thấy Fed đang gặp khó như thế nào trong việc
đưa ra những nới lỏng tiền tệ mới. Các chỉ số chứng khoán trên thế giới
đồng loạt giảm mạnh vì các nhà đầu tư tỏ ra thất vọng với hành động này
của Fed khi cho rằng nó quá xa so với kỳ vòng của họ.

Tóm lại, nền kinh tế Mỹ cho thấy những dấu hiệu suy giảm rõ rệt về tăng
trưởng cùng với những nguy cơ lạm phát xuất hiện. Trong bối cảnh đó, Fed
còn rất ít dư địa để hành động, cách duy nhất lúc này là trông đợi vào chính
phủ. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, vấn đề nợ công của Mỹ đang nổi lên,
nên điều đó lại trở thành cản trở đối với bất kỳ chương trình kích thích kinh
tế mới nào từ phía chính phủ. Mặc dù vậy, người ta vẫn có thể hy vọng vào
một gói kích thích từ chính phủ vì không còn cách nào khác. Mặt khác,
chính phủ Mỹ không phải là chính phủ phải đối mặt với nguy cơ vỡ nợ như
các chính phủ khác bất kể là số nợ của nó lớn thế nào. Nhưng, như đề cập ơ
trên, việc có được một gói kích thích mới (gọi là “kế hoạch việc làm”) cũng
cần phải có thời gian để thông qua.

Các nền kinh tế chủ chốt khác tăng trưởng kém


3
, 22/9/2011, “Fed Sees ‘Singificant’ Risks to the Economy as It Eases
Policy”.
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


5


Đức sụt giảm mạnh tăng trưởng

Đức là nền kinh tế chủ chốt ở châu Âu, khu vực đang gặp nhiều khó khăn
khủng hoảng nợ công, đồng thời đóng vai trò lớn nhất trong việc giải quyết
cuộc khủng hoảng này lại có mức tăng trưởng sụt giảm đáng thất vọng.
Biểu đồ 3 cho thấy tăng trưởng GDP của nước này trong quý II giảm mạnh
từ từ mức 1,3% trong quý I xuống chỉ còng 0,1%, gần như không có tăng
trưởng.

Biểu đồ 3: tăng trưởng GDP của Đức


Trong khi đó mức lạm phát có khuynh hướng tăng nhanh. Biểu đồ 4 cho
thấy khuynh hướng lạm phát gia tăng liên tiếp và ở mức khá cao là 2,5%
(biểu đồ 4). ECB đã nhiều lần phải tính đến chuyện nâng lãi suất đồng euro
là vì mức CPI ở Đức và ở nhiều nước khu vực eurozone khác.

Biểu đồ 4: Chỉ số CPI của Đức

Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


6



Pháp cũng tồi tệ

Nền kinh tế Pháp còn đáng lo ngại hơn, luôn tăng trưởng ở mức dưới 1%
thậm chí chỉ xoay quanh mức 0,5%, đã có mức tăng trưởng bằng không

trong quý II (biểu đồ 5). Pháp cũng là một nền kinh tế chủ chốt ở châu Âu
và có vai trò chủ chốt cùng với Đức trong việc giải cứu cuộc khủng hoảng
nợ công ở châu Âu.

Biểu đồ 5: Tăng trưởng GDP của Pháp




Kinh tế Anh trồi sụt cùng với lạm phát cao

Nền kinh tế Anh vốn không phải là một nền có mức tăng trưởng tốt cũng
đang gặp không ít khó khăn. Mức tăng trưởng trồi sụt và luôn ở mức thấp.
Quý IV năm 2010 nền kinh tế này thậm chí có mức tăng trưởng âm. Quý II
năm nay mức tăng trưởng chỉ là 0,2% so với mức không cao 0,5% trong quý
I (biểu đồ 6).

Biểu đồ 6: Tăng trưởng GDP của Anh

Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


7



Trong khi đó lạm phát ở Anh được coi là cao nhất trong khối các nước phát
triển. CPI những tháng gần đây cho thấy khuynh hướng tăng cao ở mức
4,5% (biểu đồ 7) gây lo ngại tình trạng vừa trì trệ vừa lạm phát ở quốc gia
này.


Biểu đồ 7: Chỉ số CPI của Anh




Nhật Bản vẫn phải vật lộn với khủng hoảng

Đến quý II năm nay Nhật Bản có ba quý tăng trưởng âm liên tiếp (biểu đồ
8). Nền kinh tế này vẫn chưa có lối thoát ra khỏi những trì trệ kéo dài hơn
một thập kỷ do dân số già đi, cấu trúc kinh tế chưa được cải thiện. Vừa qua
Nhật còn phải hứng chịu khủng hoảng nặng nề do thiên tai động đất, sóng
thần và sau đó là khủng hoảng hạt nhân.
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


8


Biểu đồ 8: Tăng trưởng GDP của Nhật



Lạm phát không đáng kể nhưng đồng yên tăng mạnh làm tổn hại đến xuất
khẩu, trụ cột chính của tăng trưởng. Đồng yên tăng mạnh trong tuần trước
từ ngày 4/9 đến 11/9/2011 tăng tới 3,3 phần trăm so với các đồng tiền khác
do các nhà đầu tư tìm nơi trú ẩn vì lo sợ khủng hoảng nợ châu Âu.
4
Nếu so
với đôla, kể từ đầu năm ở mức cao là khoảng 85 yên đổi 1 đôla, thì thời

điểm hiện nay chỉ còn hơn 75 yên đổi 1 đôla (biểu đồ 9 ở dưới). Mức tăng
giá này lên tới hơn 10 phần trăm. Hiện tượng này gây tổn hại không nhỏ
cho xuất khẩu, và là mối lo lớn đối tăng trưởng của Nhật trong năm nay và
sang năm.


Biểu đồ 9: Tỷ giá yên/đôla Mỹ


Nguồn:
________________________


4
“Euro falls against dollar on Greece concern”.
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


9

Nhìn chung, triển vọng kinh tế Nhật vẫn chưa có nhiều sáng sủa kể cả trong
trung hạn.

Khủng hoảng nợ công châu Âu lại trở nên nguy hiểm

Sau thành công lần trước hồi tháng bảy
5
với sự tham gia của khu vực tư
nhân góp sức giải cứu cuộc khủng hoảng Hy Lạp phần nào giải toả được nỗi
lo khủng hoảng thực sự ở Hy Lạp. Đến đầu tháng 9 này, nỗi lo khủng hoảng

Hy lạp lại trở lại do Hy-lạp không chứng tỏ cho thế giới thấy rằng họ có thể
thực hiện được những cam kết như bán bớt các tài sản nhà nước, tư nhân hoá
mạnh mẽ, tự do hoá thị trường lao động, nâng thuế, cắt giảm lương công
chức, cắt giảm chi tiêu công. Việc không thực hiện được những cam kết này
làm cho việc giải ngân gói cứu trợ tiếp theo gặp khó khăn khi mà Hy-lạp sẽ
phải trả khoản nợ 11 tỷ đôla đến hạn trong tháng 10.
6
Nguy cơ không trang
trải nổi những khoản nợ sắp đến hạn trở thành hiện thực.

Trước những diễn biến này, một số phát ngôn cho rằng Hy-lạp có thể phải
chấp nhận vỡ nợ, và châu Âu sẽ buộc phải để Hy-lạp vỡ nợ và loại nước này
ra khỏi khu vực eurozone. Bên cạnh đó, nước Đức, nước đóng vai trò chính
trong cuộc giải cứu này, đã cho tiến hành những xem xét mức độ tổn hại của
hệ thống của mình nếu Hy-lạp vỡ nợ. Tất cả những điều này làm dấy lên nỗi
lo Hy-lạp sẽ thực sự vỡ nợ trong nay mai.

Các chuyên gia cho rằng Hy lạp không thể trả hết được núi nợ hơn 300 tỷ
euro (441 tỷ đôla) trong khi đất nước này đang chìm trong suy thoái nặng nề,
không thể nâng thuế được, và nếu giảm thuế thì thâm hụt lại chìm sâu hơn.
Trong khi đó, các nước châu Âu giúp Hy-lạp vẫn chưa thoả thuận được xong
giải pháp cứu Hy-lạp. Tuần trước quốc hội Áo không thể đưa ra được thời
điểm bỏ phiếu phê duyệt giải pháp cứu Hy-lạp, khiến thị trường châu Âu và
Mỹ sụt giảm.

Căn cứ vào điểm số của nghiệp vụ hoán đổi rủi ro vỡ nợ, một nghiệp vụ rào
chắn rủi ro vỡ nợ giữa các tổ chức tài chính và ngân hàng, thì khả năng vỡ
nợ của Hy-lạp là 100%. Tiếp đến, theo hiệu ứng từ Hy-lạp, rủi ro vỡ nợ của
Bồ Đào Nha, Ai-len, Italy và Tây Ban Nha nằm trong khoảng 28% đến 66%.



5
www.ft.com, 2/8/2011, “Eurozone moves to pop up rescue fund”
6
, 27/9/2011, “Papandreou Wins Vote on Property Tax”
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


10
Cộng vào số hơn 300 tỷ nợ công Hy-lạp (người ta tin rằng hầu hết số nợ này
do các ngân hàng ở châu Âu nắm giữ), với mức nợ công của bốn nước kia,
thì tổng mức nợ lên tới 2,8 nghìn tỷ euro (3,8 nghìn tỷ đôla). Và nếu các
nước này phá sản thì rõ ràng châu Âu không có đủ tiền để trợ giúp. Jay
Bryson, nhà kinh tế quốc tế của Wells Fargo Securities cho rằng “họ có thể
cứu được Hy-lạp. Họ có thể bằng cách nào đó sống sót được nếu Bồ Đào
Nha và Ai-len sụp đổ theo. Nhưng nếu bạn gộp cả Italy và Tây Ban Nha
vào thì chúng ta sẽ phải nói đến việc loại bỏ 1 nghìn tỷ euro (nợ xấu). Đó
là một thảm hoạ”.
7


Nếu điều này trở thành hiện thực, nền tài chính toàn cầu sẽ rơi vào tình trạng
hỗn loạn và tê liệt hoàn toàn giống hệt tình trạng khi mà Leman Brothers phá
sản hồi năm 2008.

Hiệu ứng đáng lo ngại là khi nỗi lo khủng hoảng tăng lên, các nhà đầu tư sẽ
thu hẹp đầu tư của mình và tìm nơi trú ẩn an toàn. Điều này là rất tồi tệ khi
mà nền kinh tế thế giới đang rất cần mở rộng đầu tư để tiếp tục phục hồi.
Nói cách khác, sự phục hồi kinh tế thế giới sau khủng hoảng sẽ bị tổn hại
nặng nề, nếu không muốn nói là sẽ trở lại suy thoái một lần nữa.


Chỉ số Ted Spread
8
biểu thị sự khan hiếm tiền tệ trên thị trường tài chính
toàn cầu đã tăng lên rõ rệt khi các nhà đầu tư trú ẩn tài sản của mình vào các
trái phiếu chính phủ thay vì đem ra đầu tư (biểu đồ 10 ở dưới).

Biểu đồ 10: Chỉ số Ted-Spread


7
, 19/9/2011, “Greek default: What it would mean”

8
Chỉ số này đo mức chênh lệch giữa lãi suất trái phiếu chính phủ 3 tháng và lãi suất LIBOR ba tháng. Khi
bất ổn các nhà đầu tư trú ẩn vào trái phiếu làm cho lãi suất trái phiếu giảm xuống. Trong khi đó, tiền trên
thị trườn khan hiếm và các nhà đầu tư phải trả lãi suất cao hơn do rủi ro lớn hơn. Kết quả, mức chênh lệch
này gia tăng và ngược lại. Do vậy chỉ số này tăng lên phản ánh tình trạng căng thẳng và khan hiếm tiền tệ
tăng lên và ngược lại. Về dài hạn, mức điểm trong khoảng từ 10 đến 20 điểm phản ánh tình trạng bình
thường của thị trườn tài chính. Trong thời điểm phá sản Leman Brothers, chỉ số này lên tới 600 điểm.
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


11


Biểu đồ trên cho thấy chỉ số Ted Spread tăng vượt ra khỏi mức bình thường
trong khoảng 10-20 điểm. Điều này cho thấy đã xuất hiện tình trạng tiền rút
khỏi đầu tư đi tìm nơi trú ẩn vào các tài sản tài chính khác, đăc biệt, là các
trái phiếu chính phủ.


Kể cả các nền kinh tế có tăng trưởng tốt như Hàn Quốc người ta cũng thấy
xuất hiện hiện tượng rút vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài đã mua
khoảng 1,5 tỷ đôla chứng khoán ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, gần đây họ đã rút
khỏi thị trường này 514 triệu đôla do lo sợ khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ
nổ ra bắt nguồn từ khủng hoảng nợ Hy-Lạp.
9


Sự rút chạy của các dòng vốn khỏi các thị trường tài chính gây ra một nguy
cơ khan hiếm tiền đầu tư vào nền kinh tế thực. Do vậy, nền kinh tế thực, nơi
trụ cột sinh tử của nền kinh tế thế giới gặp nguy cơ trở lại suy thoái ngày
càng cao.

Thị trường tài chính toàn cầu rất bất an

Kể từ đầu năm 2011, nền tài chính thế giới chứng kiến nhiều biến động lớn,
đặc biệt là trong quý II khi mà nỗi lo khủng hoảng nợ công ở châu Âu trở lại
và có vẻ nguy hiểm hơn trước. Rõ ràng nền tài chính thế giới đang phải
sống trong tình trạng vô cùng căng thẳng bởi có hàng loạt nguyên nhân gây
ra tình trạng đó.

Với một lượng tiền lớn được các ngân hàng trung ương chủ chốt bơm ra để
cứu nền kinh tế, mức lãi suất gần bằng không ở các nền kinh tế lớn, trong
khi đó triển vọng phục hồi của nền kinh tế thế giới vẫn chưa chắc chắn.

9
, 25/9/2011, “Giới đầu tư ồ ạt rút vốn khỏi Hàn Quốc”
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn



12
Thậm chí, sự phục hồi yếu ớt đó còn bị đe doạ bởi nhiều biến cố không chỉ
kinh tế mà còn cả những biến cố thiên tai, chính trị (xem phần nguyên nhân).
Các thị trường tài chính hễ có thông tin được cho là tốt đẹp là ngay lập tức
tăng mạnh; ngược lại, nếu đó là thông tin được cho là xấu thì ngay lập tức
giảm rất mạnh.

Hãy nhìn vào những biến động ở một số chỉ số chứng khoán quan trọng, hầu
hết đều có mức biến động rất lớn. Đặc biệt, trong tháng bảy với sự trở lại
nguy cơ vỡ nợ của Hy-lạp và đặc biệt nhất với việc S&P đánh tụt hạng tín
dụng của chính phủ Mỹ các chỉ số chứng khoán toàn cầu đã sụt giảm tới hơn
5% trong một phiên. Và kể từ đó, các chỉ số này vẫn chưa thể lấy lại được
mức trước đó.

Chỉ số Down Jones đã mất mức đỉnh 12.800 điểm đạt được hồi tháng Năm
xuống còn trên 10.000 điểm hồi đầu tháng Tám. Mức điểm hiện nay vẫn
chưa thể vượt qua được mức 11.500 điểm (biểu đồ 11).

Biểu đồ 11: Chỉ số Down Jones


Nguồn:
______________________________________________

Chỉ số DAX của thị trường chứng khoán Đức và FTSE-100 của Anh cũng
cho thấy mức độ biến động và thời điểm biến động tương tự như chỉ số
Down Jones cúa Mỹ (biểu đồ 12 và 13)
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn



13

Biểu đồ 12: Chỉ số chứng khoán DAX của Đức



Nguồn:
________________________________________________________


Biểu đồ 13: chỉ số chứng khoán FTSE-100 của Anh



Nguồn:
__________________________________________________


Trong bối cảnh triển vọng đầu tư không mấy sáng sủa và còn quá nhiều biến
động, vàng và một số đồng tiền (như đồng yên Nhật và đồng France của
Thụy Sĩ) được các nhà đầu tư tìm đến như là những nơi trú ẩn giá trị của
mình. Hiện tượng này đã gây ra những cơn sốt giá vàng với mức tăng
khoảng 30% từ mức 1300 đôla/once hồi tháng 1/2011 lên mức 1900
đôla/once vào đầu tháng Chín vừa rồi, trước khi hạ nhiệt mạnh còn khoảng
1600 đôla/once như thời điểm hiện tại (biểu đồ 14).

Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn



14
Biểu đồ 14: Giá vàng thế giới năm 2011


Nguồn:
__________________________________

Thị trường hối đoái cũng có quá nhiều diến biến phức tạp. Đồng đôla Mỹ và
đồng euro trồi sụt liên tục cùng nhịp với những nỗi lo vơi đầy về khủng
hoảng nợ công châu Âu và những tin tức về sức khoẻ của nền kinh tế Mỹ và
châu Âu. Hiện tượng đáng chú ý nhất là sự lên giá mạnh của đồng yên Nhật
và đồng France Thuỵ Sĩ như đề cập ở trên.

Đồng yên Nhật lên giá hơn 10 phần trăm (xem phần trên về kinh tế Nhật),
còn đồng France Thụy Sĩ cũng lên giá tới 7,88 phần trăm so với đồng đôla
Mỹ trong vòng 12 tháng qua (biểu đồ 15).
10


Biểu đồ 15: Tỷ giá Franc Thuỵ Sĩ và đôla Mỹ

10

Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


15


Những biến động này đã gây nhiều hệ quả xấu đối với hai nền kinh tế này.

Để ngăn chặn, ngân hàng trung ương hai nước đã có những động thái can
thiệp mạnh tay, bán mạnh đồng tiền của mình nhằm ngăn sự lên giá của
chúng. Nhưng kết quả đạt được rõ ràng là khá hạn chế, vì như chúng ta đã
thấy khuynh hướng này là khó đảo ngược nhờ vào những hành động đó.

Nguyên nhân

Sự giảm sút tăng trưởng của nền kinh tế thế giới trong nửa đầu năm 2011
chủ yếu là do những nguyên nhân như:

1. Khủng hoảng nợ công ở châu Âu bắt đầu từ đầu năm 2010 trở nên
nguy hiểm hồi tháng Tư khi Hy-Lạp không có khả năng trả được
những khoản nợ công sắp đến hạn và bị hạ mức tín nhiệm quốc gia
11
.
Nguy cơ này làm cho kỳ vọng các nhà đầu tư giảm sút nghiêm trọng
cũng như hệ thống tài chính toàn cầu trở nên căng thẳng vì các tổ
chức tài chính cẩn trọng hơn với việc cung ứng tài chính cho nền kinh
tế.
2. Khủng hoảng thiên tai sóng thần đầu tháng Ba và khủng hoảng hạt
nhân kéo dài vài tháng sau đó ở Nhật cũng đã làm tê liệt nhiều cơ sở
sản xuất quan trọng ở Nhật, Mỹ và nhiều nơi trên thế giới. Đồng thời
biến cố này cũng góp phần làm gia tăng kỳ vọng xấu về triển vọng
kinh tế thế giới, khiến các nhà đầu tư thu hẹp đầu tư.
3. Tiếp đến là cuộc khủng hoảng chính trị ở Trung Đông (đặc biệt ở
Lybia) trở nên mất kiểm soát kể từ hồi tháng Ba làm giá dầu tăng cao.

11
www.reuters.com, 14/6/2011, “Timeline-Greece’s debt crisis”
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn



16
Trong khi giá lương thực và các hàng nguyên liệu khác cũng tăng cao
làm chi phí sản xuất dẫn đến lạm phát có nguy cơ bùng phát trên toàn
cầu. Nguy cơ lạm phát rõ rệt nhất là ở các nền kinh tế đang nổi (cộng
với hậu quả của của các gói kích cầu trước đó). Kết quả là sức mua
toàn cầu giảm sút đáng kể. Đặc biệt, sức mua ở Mỹ giảm chính là
điều đáng lo ngại vì đó là nguyên nhân quan trọng làm chậm tăng
trưởng rõ rệt ở nước này trong bối cảnh mức thất nghiệp vẫn cao 9,1%
mà vẫn chưa có dấu hiệu giảm xuống.
4. Thêm vào đó, những biến cố tồi tệ không đáng có như việc nâng trần
nợ công Mỹ và sự kiện giảm mức tín nhiệm nợ công của Mỹ từ S&P
làm cho thị trường tài chính trở nên rối loại thêm, và đặc biệt là kỳ
vọng của các nhà đầu tư trong nền sản xuất thực trở nên xấu thêm.

Tất cả những tình huống đó, một mặt, gây ra sự sụt giảm trực tiếp nền sản
xuất toàn cầu như cuộc khủng hoảng thiên tai và hạt nhân ở Nhật, mặt khác,
tạo ra sự bất ổn trong hệ thống tài chính làm suy yếu khả năng hỗ trợ nền
kinh tế thực từ khu vực này. Mặt khác và nguy hiểm hơn, những biến cố đó
làm tổn hại nghiêm trọng kỳ vọng của các nhà đầu tư trong nền kinh tế thực
khiến họ không mở rộng, hoặc thậm chi thu hẹp sản suất, kinh doanh, và rút
về phòng ngự tìm nơi trú ẩn giá trị như vàng và các đồng tiền an toàn.

Điều này phần nào được thể hiện ở giá vàng thế giới tăng hơn 30% và các
đồng tiền như đồng yên Nhật và france Thụy Sỹ lên giá mạnh kể từ đầu
năm. Động thái này, đến lượt nó, lại làm cho một số nền kinh tế chủ chốt
như Nhật vốn đã khó khăn lại thêm khó khăn hơn, và nền tài chính thế giới
thêm rắc rối, và cuối cùng, như vòng luẩn quẩn, nó lại làm cho kỳ vọng của
các nhà đầu tư thêm tăm tối.


Nguy cơ suy thoái và triển vọng

Rõ ràng nền kinh tế thế giới tám tháng đầu năm 2011 cho thấy sự giảm sút
mạnh trong tăng trưởng và có nhiều dấu hiệu nguy cơ trở lại suy thoái một
lần nữa. Trong khi đó các chính phủ và các ngân hàng trung ương các nước
lại đang ở vào thế vô cùng khó khăn trong việc đưa ra một sự kích thích kinh
tế nào. Bởi vì, nạn lạm phát đang có nguy cơ bùng phát khắp nơi do những
gói kích thích kinh tế trước đó ở hầu hết các quốc gia. Những hy vọng còn
lại vào lúc này chính là việc giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công ở châu
Âu và gói kích thích tạo việc làm ở Mỹ mà thôi.

Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


17
Cho tới thời điểm này ba nguyên nhân sau cùng nêu ở trên cơ bản đã qua.
Có lẽ những tác động xấu đã thể hiện ra dưới những tăng trưởng chậm hẳn
lại từ các quốc gia chủ chốt như trình bày ở trên. Duy vấn đề khủng hoảng
nợ công châu Âu vẫn là nguy cơ lớn và trực tiếp có thể dẫn đến suy thoái
kinh tế toàn cầu. Nếu cuộc khủng hoảng này không được giải quyết thì chắc
chắn nền kinh tế thế giới sẽ rơi vào suy thoái.

Bên cạnh đó, phải kể đến một nguy cơ xuất phát từ chính sự trì trệ của kinh
tế Mỹ và triển vọng giảm thất nghiệp ở nền kinh tế này. Như được đề cập ở
trên, nếu tình trạng này không được giải quyết, thì chính nó lại trở thành
nguyên nhân có thể làm cho nền kinh tế toàn cầu quay trở lại suy thoái.

Về nguy cơ thứ nhất, mặc dù mức độ nguy hiểm cao nhưng khả năng để Hy-
lạp vỡ nợ là khó xảy ra. Các nhà làm chính sách ở châu Âu và thế giới đủ

hiểu biết để hiểu rằng cái giá phải trả để giữ Hy-lạp vượt qua khó khăn lúc
này dù lớn đến đâu cũng rẻ hơn nhiều cái giá để Hy-lạp vỡ nợ. Những nỗ
lực gần đây từ phía Hy-lạp và châu Âu cho thấy điều này.

Pháp và Đức tái khẳng định sẽ cứu Hy Lạp và không để cho Hy-lạp phải rời
khỏi khu vực đồng euro. Và ngày 19/9/2011, bộ trưởng tài chính Hy-lạp sau
buổi gặp với Ủy Ban châu Âu, IMF và ECB đã nói rằng cuộc họp là “tích
cực và thật sự có ý nghĩa lớn” (“productive and substantive”). Thị trường
chứng khoán có vẻ yên tâm đôi chút khi cắt giảm được mức mất điểm từ
1,9% kéo dài gần hết ngày dao dịch xuống còn 0,9% vào lúc gần cuối
ngày.
12


Fed cũng góp một tay khi vào hôm 15/9 đã cùng với các ngân hàng chủ chốt
khác của Anh, Thuỵ Sĩ, ECB và Nhật Bản phối hợp thực hiện các hoán đổi
tiền tệ. Trong đó, các ngân hàng trung ương được Fed cung cấp đôla để
cung ứng ra thị trường từ nay đến hết năm. Vì nhiều ngân hàng ở châu Âu
không vay được đôla do các ngân hàng Mỹ lo sợ rủi ro ở khu vực này.
Đồng đôla trở nên khan hiếm, và thanh khoản của các ngân hàng ở châu Âu
gặp khó. Hành động này giúp các ngân hàng ở châu Âu có đôla cung ứng
cho những ngân hàng có nhu cầu, làm tăng thanh khoản của họ. Đồng euro
lên giá trở lại so với đôla hơn 1% sau thông tin này, và thị trường bớt căng
thẳng.
13



12
, 19/9/2011, “Stocks cut losses on hopes for Greece”.

13
, 15/9/2011, “Stock Jump as ECB Offers Loans to Banks”
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


18
Và gầy nhất là ngày 28/9 thủ tướng Hy-lạp Papandreou đã thành công trong
cuộc bỏ phiếu ở quốc hội hậy thuẫn kế hoạch nâng thuế và các biện pháp
thắt lưng buộc bụng cho thấy Hy-lạp có thể làm hài lòng các nhà cho vay.
14

Trong khi đó người ta hy vọng quốc hội Đức, nước chủ chốt trong việc giải
quyết vấn đề này, cũng sẽ bỏ phiếu thông qua kế hoạch giải cứu Hy-lạp vào
ngày 30 tháng 9 này. Nói tóm lại nguy cơ Hy-lạp vỡ nợ có thể không xảy ra
trong hiện tại.

Đối với nguy cơ thứ hai là sự suy thoái của kinh tế Mỹ dẫn đến suy thoái
kinh tế toàn cầu nếu tình trạng thất nghiệp cao và tăng trưởng chậm không
được khắc phục sớm, thì câu trả lời nằm ở kế hoạch việc làm của tổng thống
Obama vừa được đưa ra. Theo kế hoạch này chính phủ Mỹ sẽ đưa ra gói
kích thích kinh tế trị giá 447 tỷ đôla nhằm trực tiếp giải quyết vấn đề việc
làm.

Theo một số tính toán, nếu kế hoạch của Obama được thông qua sẽ làm tăng
GDP Mỹ năm 2012 thêm 2%, và có thể tăng từ 1,5 đến 1,9 triệu việc làm.
Mặc dù còn nhiều cản trở trong việc thông qua kế hoạch này, nhưng người ta
tin rằng nó sẽ được thông qua vì đó được xem là cách duy nhất và khẩn cấp
nhất lúc này giúp nước Mý (và thế giới) tránh được suy thoái.

Tuy nhiên, nhìn tổng thể thì nền kinh tế toàn cầu vẫn sẽ trong tình trạng bấp

bênh và nhiều khó khăn trong vài quý tới. Bởi vì, cho dù Hy-lạp không bị
vỡ nợ, thì giải quyết vấn đề này sẽ còn mất nhiều thời gian vì nhiều lý do:
món nợ quá lớn trong khi nền kinh tế Hy-lạp lại yếu kém và đang gặp nhiều
khó khăn; chính phủ muốn nâng cao được năng lực của mình cũng phải mất
nhiều thời gian; nền kinh tế nước này muốn cải tổ hiệu quả hơn lại càng mất
nhiều thời gian hơn; trong khi đó, những nước giúp Hy-lạp và cả thế giới
cũng đang gặp khó khăn của chính mình Tóm lại vấn đề nợ Hy-lạp sẽ còn
tác động xấu đến nền kinh tế châu Âu và thế giới trong một thời gian khá dài
nữa.

Còn về kế hoạch của tổng thống Obama, cho dù có được thông qua thì nó
cũng phải mất thời gian và khi được thông qua thì tác động của nó đến nền
kinh tế thực cũng mất nhiều thời gian hơn.

Tóm lại, nền kinh tế thế giới bất luận thế nào vẫn sẽ tăng trưởng thấp ít nhất
là đến hết quý I năm 2012. Điều duy nhất đạt được lúc này, nếu những kỳ

14
,28/9/2011, “Papandreou Secures Greece Parliament Vote on Property Tax”
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


19
vọng về giải quyết nợ Hy-lạp và kế hoạch việc làm ở Mỹ được thông qua là
lấy lại lòng tin cho các nhà đầu tư, một điều đang bị tổn hại nghiêm trọng
trong vài tháng gần đây. Thậm chí, người ta còn cho rằng bây giờ lòng tin
của các nhà đầu tư là vấn đề đáng được quan tâm nhất vào lúc này. Nếu giải
toả được những nỗi lo của họ, nền kinh tế thế giới có thể tránh được cuộc
suy thoái đang dần hiện hữu.


Với tình hình trên, các dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu cho những quý
còn lại của năm 2011 đều điều chỉnh giảm so với những lần trước là điều dễ
hiểu.

Việt Nam có bị tác động gì?

Giả định nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái thì câu hỏi đặt ra là Việt Nam
có bị tác động không và như thế nào?

Hai trụ cột quan trọng cho tăng trưởng của Việt Nam là xuất khẩu và FDI.
Tuy nhiên, những nghiên cứu trước
15
và thực tế cho thấy rằng xuất khẩu của
Việt Nam ít bị tác động do suy thoái kinh tế thế giới. Nguyên nhân là hàng
xuất khẩu của Việt nam chủ yếu là hàng thiết yếu. Cầu đối với loại hàng này
ít biến động giảm do suy thoái ở các nền kinh tế lớn. Thậm chí, trong một
vài trường hợp có thể có lợi, do thu nhập giảm nên tiêu dùng ở các nước
phát triển phải chuyển sang dùng những hàng hoá cấp thấp hơn tương tự như
hàng xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay xuất khẩu của Việt Nam 8 tháng
đầu năm tăng tới 33,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
16


FDI cũng vậy, chính lãi suất thấp và triển vọng không tốt ở các nền kinh tế
phát triển làm cho dòng vốn vào các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam tăng
lên. Sự giảm sút FDI từ đầu năm vào Việt Nam là do bất ổn kinh tế vĩ mô
của chính Việt Nam chứ không phải do yếu tố bên ngoài.

Nói tóm lại, nếu nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái thì tác động đến tăng
trưởng của Việt Nam là không lớn. Tuy nhiên, trong trường hợp Hy-Lạp bị

cho vỡ nợ thì sẽ xuất hiện tượng khan hiếm tín dụng giống như khi Leman
Brothers sụp đổ thì sẽ có những tác động xấu. Đó là vì hệ thống tài chính
toàn cầu khi đó bị rơi vào tình trạng hỗn loạn và tê liệt. Các nhà nhập khẩu

15
Bùi ngọc Sơn, 2008, Nguy cơ Suy thoái Toàn cầu và Tác động đến Việt Nam, (Nhiệm vụ khoa học cấp
viện- Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới)
16
Vụ Thống kê TMDV, Tổng cục Thống kê, 22/8/2011,
Rủi ro Suy thoái kép (tham luận hội thảo) Bùi Ngọc Sơn


20
hàng của Việt Nam và, phần nào, các nhà đầu tư vào Việt Nam không tiếp
cận được nguồn vốn thì họ sẽ buộc phải cắt giảm hợp đồng hoặc kế hoạch
kinh doanh. Xuất khẩu của Việt Nam khi đó sẽ bị tác động giảm mạnh và
đột ngột.

Trong trường hợp này cần phải có kế hoạch dự phòng khuyến khích cầu
trong nước bù lại phần sụt giảm cầu từ bên ngoài. Nhưng kế hoạch này là
rất có giới hạn, mục tiêu phải rõ ràng và chỉ dùng để vượt qua lúc tài chính
toàn cầu tê liệt. Khi tình trạng này được khắc phục kế hoạch phải dừng
ngay, không được lạm dụng để mở rộng thành một kế hoạch kích cầu lớn và
kéo dài như trước đây. Tuy vậy, như phân tích ở trên, khả năng này là khó
xảy ra, do đó, hãy xem đây là kế hoạch dự phòng trong trường hợp tồi tệ
nhất mà thôi./.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×