Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Pháp luật về sáp nhập Ngân hàng thương mại cổ phẩn ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.34 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ DUNG
PHÁP LUẬT VỀ SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ DUNG
PHÁP LUẬT VỀ SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: T.S Nguyễn Thị Lan Hương
Hà nội – 2013
[
2
3
MỤC LỤC
Lời cam đoan Trang
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Công ty trách cổ phần: CTCP
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010: Luật TCTD 2010
Luật Chứng Khoán: Luật CK
Ngân hàng thương mại: NHTM


Tổ chức tín dụng: TCTD
Ủy Ban chứng khoán: UBCK
Nghị định: NĐ
5
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn trải nghiệm đầy thách
thức của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng. Song song trong quá
trình này là cơ hội và cũng là những vấn đề phức tạp phát sinh đòi hỏi sự phản
ứng nhạy bén, linh hoạt của các chủ thể liên quan. Theo đó từ đường lối,
chính sách kinh tế của Chính phủ đến phương án chiến lược kinh doanh của
các doanh nghiệp… cũng cần có thay đổi cho phù hợp.
Trong bối cảnh trên, tại Đại hội Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
11, vấn đề về tái cơ cấu kinh tế trong đó có tái cơ cấu thị trường tài chính với
trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính đã được
Trung ương Đảng thống nhất đưa ra. Bên cạnh đó do mức độ tác động và ảnh
hưởng đến lợi ích của đa số các chủ thể, mà có thể thấy việc tái cấu trúc hệ
thống NHTM đang nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý của giới lập chính
sách cũng như của toàn xã hội. Một trong những khía cạnh của tái cấu trúc hệ
thống NH đáng được quan tâm đó chính là vấn đề về khung pháp lý cho hoạt
động sáp nhập NHTMCP.
Đứng trước yêu cầu của việc cấu trúc lại thị trường tài chính nói chung
và hệ thống NHTM nói riêng thì một khung pháp luật hoàn thiện và phù hợp
với các điều kiện hội nhập là điều rất cần thiết. Tuy nhiên một vướng mắc vẫn
hay được đề cập trong quá trình sáp nhập NHTMCP chính là sự thiếu đồng bộ
và hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này. Xét trên
góc độ Luật học đã có một số các bài nghiên cứu, bình luận về mua bán sáp
nhập doanh nghiệp như vấn đề về hợp đồng mua bán doanh nghiệp hay những
vấn đề pháp lý về mua bán công ty cổ phần…Nhưng chưa có bài viết nào đi

6
sâu nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các quy định của pháp luật Việt Nam về
sáp nhập NHTMCP.
Bên cạnh đó, việc tìm hiểu và hệ thống hóa những lý luận về pháp luật
sáp nhập NHTMCP cũng sẽ giúp chúng ta hoàn thiện hơn hành lang pháp lý
nói chung.
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về sáp nhập
Ngân hàng thương mại cổ phẩn ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận
văn.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn sẽ vạch ra những khiếm khuyết và thiếu sót của khung pháp
luật điều chỉnh liên quan đến hoạt động sáp nhập NHTMCP ở Việt Nam. Đặt
trong tương quan so sánh và học hỏi kinh nghiệm một số nước trong chính
sách pháp luật về vấn đề trên, Luận văn sẽ đưa ra những phương hướng nhằm
giải quyết những tồn tại vướng mắc này.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích được bản chất của hoạt động sáp nhập NHTMCP;
- Hệ thống hóa các văn bản pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động sáp
nhập NHTMCP;
- Vạch ra những điểm thiếu sót, chưa đồng bộ trong các quy địnhcủa
pháp luật về sáp nhập NHTMCP ở Việt Nam hiện nay:
+ Quy định về điều kiện sáp nhập
+ Quy định về thẩm quyền quyết định sáp nhập
+ Quy định về trình tự, thủ tục sáp nhập
+ Quy định về quyền và trách nhiệm của các bên chủ thể tham gia sáp
nhập
+ Quy định về quản lý Nhà nước đối với hoạt động sáp nhập NHTMCP
7
- Phân tích đánh giá những khiếm khuyết trên trong việc ảnh hưởng đến

thực tiễn hoạt động sáp nhập NHTMCP ở nước ta hiện nay.
- Sau khi đánh giá sẽ đưa ra được những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật điều chỉnh hoạt động sáp nhập NHTMCP.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện nay chưa có bài viết đánh giá bình luận một cách đầy đủ và toàn
diện về các hoạt động sáp nhập NHTMCP dưới sự điều chỉnh của pháp luật
Việt Nam nên cách tiếp cận của đề tài có thể thấy một số điểm mới như sau:
• Phân tích rõ hơn về khái niệm sáp nhập NHTMCP- một khái niệm còn
chưa rõ ràng và đầy đủ;
• Phân tích khá toàn diện các vấn đề liên quan đến hoạt động sáp nhập
NHTMCP từ quá trình tiền sáp nhập đến khi thực hiện xong giao dịch, đưa ra
các bất cập còn gặp phải trong quá trình thực hiện sáp nhập trên;
• Hệ thống hóa các văn bản pháp luật về sáp nhập NHTMCP, đưa ra cái
nhìn tổng quát và nhận xét các bất cập về hành lang pháp lý ở nước ta trong
lĩnh vực này;
• Đề xuất một số giải pháp và phương hướng khắc phục những tồn tại
trong hệ thống pháp luật về sáp nhập NHTMCP ở nước ta.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số vấn đề xoay quanh về khung pháp luật trong hoạt động sáp nhập
NHTMCP.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về
sáp nhập NHTMCP. Các vấn đề về khái niệm, chủ thể, nguyên tắc, mục đích,
thực hiện việc sáp nhập cũng được đề cập trong khóa luận trong phần tổng
quan về hoạt động này. Bên cạnh đó các thực trạng trong quy định và thực
8
hiện pháp luật về sáp nhập NHTMCP cũng được đề cập đến: quy định về điều
kiện sáp nhập, thẩm quyền quyết định sáp nhập, trình tự thủ tục sáp nhập,
quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện sáp nhập.

2. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về sáp nhập
NHTMCP. Các vấn đề về khái niệm, chủ thể, nguyên tắc, mục đích, thực hiện
việc sáp nhập cũng được đề cập trong khóa luận trong phần tổng quan về hoạt
động này. Bên cạnh đó các thực trạng trong quy định và thực hiện pháp luật
về sáp nhập NHTMCP cũng được đề cập đến: quy định về điều kiện sáp nhập,
thẩm quyền quyết định sáp nhập, trình tự thủ tục sáp nhập, quyền và nghĩa vụ
của các bên trong việc thực hiện sáp nhập. Từ các thực trạng trên Luận văn
đánh giá và đưa ra phương hướng, kiến nghị cụ thể để giải quyết, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động sáp nhập MHTMCP.
Kết cấu chính của Luận văn gồm có ba phần:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật trong hoạt động sáp
nhập NHTMCP:
Chương 2. Thực trạng pháp luật trong hoạt động sáp nhập NHTMCP ở
Việt Nam hiện nay;
Chương 3.Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong hoạt động
sáp nhập NHTMCP ở Việt Nam hiện nay.
9
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật trong hoạt
động sáp nhập NHTMCP
1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động sáp nhập NHTMCP
1.1.1 Khái quát chung về hoạt động sáp nhập NH
* Trên thế giới: Hơn 100 năm qua, lịch sử nền kinh tế thế giới đã
chứng kiến sáu làn sóng mua bán, sáp nhập diễn ra xung quanh những mốc
thời gian: năm 1900, 1920, 1960, 1980, 1990, 2000. Những làn sóng mua bán,
sáp nhập này được diễn ra chủ yếu ở các nước phương Tây, nơi mà nền kinh
tế sớm phát triển với trình độ khoa học-kỹ thuật cao hơn so với các khu vực
khác.
Làn sóng thứ nhất bắt đầu ở Mỹ và châu Âu và diễn ra trong ngành

công nghiệp để tạo ra sự độc quyền ngang. Làn sóng mua bán với mục tiêu
tạo độc quyền đi đến kết thúc trong giai đoạn 1903-1905, khi thị trường vốn
gặp khó khăn. Làn sóng thứ hai được bắt đầu như một sự phản ứng đối với
việc thực hiện các quy định của luật chống độc quyền - bản luật ra đời sau hệ
quả để lại của làn sóng mua bán, sáp nhập đầu tiên. Mục đích của luật là
chống lại sự độc quyền vì vậy các công ty thống lĩnh buộc phải giải tán và
hướng tới hoạt động mua bán, sáp nhập dọc. Giai đoạn này được bắt đầu từ
cuối những năm 1910 và tiếp tục cho đến năm 1929 khi thị trường chứng
khoán đi xuống. Làn sóng thứ ba bắt đầu khoảng vào năm 1965. Do sự suy
thoái kinh tế trên toàn thế giới vào những năm 1930 và chiến tranh thế giới
thứ hai diễn ra ngay sau đó, trong giai đoạn này không có nhiều điểm lưu ý
đối hoạt động mua bán, sáp nhập. Được bắt đầu từ giữa những năm 1960, làn
sóng này kết thúc vào năm 1973 khi cuộc khủng hoảng dầu mỏ đầy nền kinh
tế thế giới đi vào đợt suy thoái khác. Ở Mỹ, sự bắt đầu của làn sóng mua bán,
sáp nhập thứ ba đi cùng với những quy định chống độc quyền vào những năm
1950. Những quy định nghiêm khắc về chống độc quyền này đã buộc các
10
công ty của Mỹ phải đi theo hướng đa dạng hóa thông qua việc thực hiện mua
bán, sáp nhập. Theo đó các công ty theo đuổi sự phát triển nhanh chóng bị bỏ
lại với lựa chọn duy nhất là tiếp quản các công ty ngoài lĩnh vực kinh doanh
của họ. Trong những năm 1960, các công ty đã phải tìm cơ hội phát triển với
thị trường sản phẩm mới không liên quan để nâng cao giá trị cho công ty
mình. Làn sóng thứ 4 được đặt ra bởi quá trình chuyển đổi môi trường kinh
doanh như thay đổi trong chính sách độc quyền, tạo ra các thị trường và công
cụ tài chính mới cũng như những tiến bộ công nghệ trong ngành công nghiệp
thông tin và viễn thông. Làn sóng mua bán, sáp nhập này được đặc trưng bởi
sự thâu tóm mang tính thù địch chưa từng xuất hiện trước đó. Nó được bắt
đầu từ năm 1978, khi thị trường chứng khoán được phục hồi từ cuộc suy thoái
kinh tế trước đó và kết thúc vào năm 1989. Làn sóng thứ năm được bắt đầu từ
năm 1993. Cũng giống như các giai đoạn trước, nó phát triển cùng với sự

bùng nổ của nền kinh tế và dừng lại khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào
năm 2000. Giai đoạn này được đặc trưng bởi các thương vụ tái cơ cấu lớn
trong toàn ngành công nghiệp. Làn sóng thứ sáu bắt đầu vào khoảng giữa năm
2003. Giai đoạn này, hoạt động mua bán, sáp nhập phát triển cùng với sự
phục hồi của nền kinh tế và thị trường tài chính sau cuộc suy thoái đã xảy ra
vào năm 2000 [53]. Theo xu hướng tự do hóa tài chính và xóa bỏ những hạn
chế về đầu tư, các nền kinh tế Đông Á cũng tham gia vào lĩnh vực mua bán,
sáp nhập doanh nghiệp từ giữa những năm 1980. Đi đầu trong hoạt động này
phải kể đến những nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Hồng Kông [50].
Trong bối cảnh diễn ra các làn sóng sáp nhập trên, hoạt động mua bán
sáp nhập NHTM trên thế giới cũng được thực hiện từ sớm. Các NH ở những
quốc gia phát triển đã phát triển đến mức bão hoà với quy luật lợi nhuận giảm
dần nên doanh thu, lợi nhuận cũng giảm do đó hoạt động sáp nhập diễn ra
11
nhằm cắt giảm chi phí, mở rộng mạng lưới hoạt động, bổ sung, đa dạng hoá
sản phẩm, tăng cường quy mô kinh doanh cũng như lợi thế cạnh tranh đáp
ứng với xu thế phát triển của nền kinh tế khu vực hoá và quốc tế hoá. Ví dụ,
tại Mỹ thời gian qua đã có nhiều cuộc sáp nhập với những lý do như: Các NH
Mỹ đã cho vay các nước đang phát triển quá nhiều nên nguy cơ thiếu vốn gia
tăng; Sự khác biệt về luật pháp làm cho nguồn dự trữ của hệ thống dự trữ liên
bang không lớn; Mạng lưới chi nhánh của các NH Mỹ không lớn do các hạn
chế về mở chi nhánh ở các bang khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, tuỳ thuộc
vào quy mô của các NH mà lý do sáp nhập cũng khác nhau. Đối với các NH
lớn, lý do quan trọng nhất là cắt giảm chi phí hoạt động và gia tăng quy mô
kinh doanh nhờ việc sáp nhập sẽ tăng vốn huy động, tăng vốn điều lệ và giới
hạn cho vay từng khách hàng đơn lẻ. Ngoài ra cũng có thể để đa dạng hoá sản
phẩm và dịch vụ kinh doanh, tăng uy tín của NH hoặc tiết kiệm chi phí thành
lập chí nhánh. Đối với các NHTM, M&A hoặc bán lại cho những NHTM lớn
vì thiếu vốn điều lệ hoặc tránh phá sản hoặc để tối đa hoá lợi ích của các cổ

đông. Ngoài ra, các NHTM nhỏ cũng có thể tiến hành M&A để thành một
NHTM.
* Tại Việt Nam:
Tại Việt Nam đã có nhiều vụ sáp nhập NH diễn ra từ cuối thập niên 90
của thế kỷ XX, chẳng hạn như NHTMCP Đồng Tháp, NHTMCP Đại Nam,
NHTMCP Nông thôn Châu Phú, NHTMCP Nông thôn Cái Sắn được sáp
nhập vào NHTMCP Phương Nam lần lượt các năm 1997, 1999, 2001, 2003;
NHTMCP Thạnh Thắng được sáp nhập vào NHTMCP Sài Gòn thương tín
năm 2001; NHTMCP Nông thôn Tây Đô sáp nhập vào NHTMCP Phương
Đông năm 2003.
Với quy mô nhỏ của các NH bị sáp nhập, việc chuyển các quyền và
nghĩa vụ trong hoạt động của TCTD cổ phần được sáp nhập (gồm tiền gửi,
12
tiền vay, các khoản đầu tư, cho vay, công nợ các khoản phải thu phải trả )
sang TCTD nhận sáp nhập cũng đơn giản hơn. Cùng với đó thì quyền lợi,
nghĩa vụ và trách nhiệm của các cổ đông của TCTD cổ phần được sáp nhập
cũng được giải quyết trên cơ sở tự thoả thuận giữa hai chủ thể. Trên thực tế,
với kinh nghiệm sáp nhập của mình, NHTMCP Phương Nam đã tiến hành
nhiều thương vụ nhận sáp nhập nhằm nâng cao năng lực, mở rộng quy mô
hoạt động mà không gây ra những rắc rối xung quanh vấn đề sáp nhập. Một
số các giao dịch sáp nhập NH khác trong thời gian này cũng không đặc biệt
gây nhiều ấn tượng về mặt pháp lý mặc dù hàng lang pháp luật cho hoạt động
sáp nhập có nhiều hạn chế.
Chính vì vậy trong khoảng thời gian hơn chục năm kể từ khi Quy chế sáp
nhập, hợp nhất, mua lại TCTD cổ phần Việt Nam năm 1998 được ban hành,
nhu cầu xây dựng văn bản mới thay thế Quy chế này vẫn chưa thật sự bức
thiết. Chỉ đến khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008, một trong những chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nhằm chủ động
ứng phó với tác động từ cuộc khủng hoảng trên là việc NHNN sớm xây dựng,
trình Chính phủ ban hành quy định về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, phá

sản những NH gặp vấn đề, để có căn cứ pháp lý thực hiện chủ trương về cơ
cấu lại đối với những NH thương mại và tổ chức tín dụng yếu kém, bảo đảm
sự lành mạnh, an toàn của cả hệ thống.
Chúng ta có thể thấy đến giai đoạn này thì nhu cầu sáp nhập NH không
chỉ đặt ra với các NH nông thôn mà áp lực từ nhiều phía đã đòi hỏi nhiều chủ
thể với quy mô lớn, hoạt động không hiệu quả cũng phải tiến hành sáp nhập.
Theo đó những vấn đề pháp lý về nhân sự, đãi ngộ, tích hợp hoạt động, bán
và thanh lý tài sản, phản ứng của các đối thủ cạnh tranh, quan hệ và giao tiếp
giữa các bộ phận và công ty thành viên, kế hoạch dự phòng cần phải được
xem xét cẩn trọng. Trong khoảng thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng tài
13
chính toàn cầu này, một số thông tin về việc sau khi Petro Việt Nam từ bỏ kế
hoạch thành lập NH Hồng Việt, đã từng có kế hoạch đổ vốn, nhân lực và công
nghệ dự định dành cho Hồng Việt để tham gia tái cấu trúc NH Dầu khí Toàn
cầu. Tuy nhiên, sau rất nhiều vòng đàm phán, hai bên đã không đi đến được
thỏa thuận cuối cùng. Petro Vietnam đã phải trả lại tiền góp vốn thành lập NH
Hồng Việt cho cán bộ, công nhân viên trong Tập đoàn, sắp xếp lại nhân sự đã
từng tuyển dụng và dự kiến chuyển hệ thống công nghệ thông tin đã đầu tư
cho Hồng Việt sang Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí. Trước đây, một
số NH lớn khi nhận nhiệm vụ sáp nhập một số NH nhỏ đã mất rất nhiều thời
gian và nguồn lực để giải quyết những tồn tại của các đơn vị này [44].
Như vậy có thể thấy không phải thương vụ tái cơ cấu nào cũng có thể đi
kết hồi kết tốt đẹp, thậm chí còn gây nhiều tổn thất về tài chính cho các chủ
thể này. Gần đây, cùng với đề ántái cấu trúc hệ thống NHTM được đưa ra bởi
Chính phủ, một số vụ sáp nhập mới cũng được thực hiện.
1.1.2. Khái niệm
* Khái niệm sáp nhập:
“Sáp nhập” thường được nhắc đến trong thuật ngữ “mua lại và sáp
nhập” là một thuật ngữ được dịch từ “merger and acquisition – M&A”.
Ngoài nghĩa được dịch khá thông dụng là “mua lại và sáp nhập” [1], M&A

còn được dịch “mua bán và sáp nhập” [48], “thâu tóm và hợp nhất” [15], tuy
nhiên ý nghĩa nội hàm của chúng không thay đổi.
Theo từ điển luật học “mua lại và sáp nhập” là sự kết hợp của hai công
ty khi một trong hai công ty bị hấp thụ bởi công ty còn lại. Công ty yếu hơn
sẽ mất đi tư cách pháp lý và trở thành một phần của công ty mạnh hơn - chủ
thể vẫn giữ lại tư cách pháp lý của mình. Bên nhận sáp nhập sẽ triệt tiêu bên
được sáp nhập và công ty tồn tại sẽ tiếp nhận tất cả các quyền, lợi ích và
nghĩa vụ của bên được sáp nhập [47]. Trong cuốn sách hướng dẫn về mua lại,
14
sáp nhập của Công ty xuất bản Delta cũng ghi nhận khái niệm sáp nhập tương
tự như trên. Sáp nhập là khi hai hay nhiều công ty kết hợp với nhau thành một
thực thể và chỉ công ty nhận sáp nhập tiếp tục tồn tại tư cách pháp lý. Thông
thường bên mạnh hơn sẽ là bên nhận sáp nhập. Khái niệm này cũng được đưa
ra so sánh những điểm khác biệt so với khái niệm hợp nhất. Theo đó hợp
nhất là khi hai hay nhiều công ty cùng kết hợp tạo ra một công ty mới. Tất cả
các công ty tham gia kết hợp sẽ chấm dứt tư cách pháp lý của mình [51].
Trong tài liệu nghiên cứu về mua lại sáp nhập của trường Đại học Kinh doanh
Edinburgh, thuộc trường Đại học Heriot-Watt cũng đưa ra nội dung các khái
niệm trên với nội hàm tương tự. Tài liệu cũng chỉ ra một số điểm khác nhau
giữa “mua lại” và “sáp nhập”. Trong một giao dịch sáp nhập, quá trình
thương lượng, đàm phán giữa các bên thường được thực hiện trước khi đi đến
sự kết hợp giữa chúng. Còn trong giao dịch mua lại, quá trình thương lượng
không nhất thiết cần thực hiện vì vậy có thể xuất hiện mua lại với tính chất
thân thiện hoặc thù địch [49].
Sáp nhập NH là sự kết hợp của hai NH khi một trong hai bị hấp thụ bởi
NH còn lại. Bên yếu hơn sẽ mất đi tư cách pháp lý và trở thành một phần của
bên mạnh hơn - chủ thể vẫn giữ lại tư cách pháp lý của mình. Bên nhận sáp
nhập sẽ triệt tiêu bên được sáp nhập và bên tồn tại sẽ tiếp nhận tất cả các
quyền, lợi ích và nghĩa vụ của bên được sáp nhập. Hoạt động này đặc biệt hữu
ích khi các NHTM rơi vào những thời kỳ khó khăn do cạnh tranh, tác động thị

trường hay bất kỳ yếu tố nào khác.
Ở nước ta, những khái niệm về sáp nhập, mua lại và hợp nhất được
đưa ra với những nội hàm khác nhau. Điều 17 – Luật Cạnh tranh 2004 quy
định: “sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh
nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
15
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần
tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một
ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”. Luật Cạnh tranh cũng đề cập đến
“hợp nhất doanh nghiệp” là việc “hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một
doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị hợp nhất.”
Luật Doanh nghiệp 2005 đưa ra khái niệm “sáp nhập doanh nghiệp” tại
khoản 1, Điều 153 như sau: “một hoặc một số công ty cùng loại (công ty bị
sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (công ty nhận sáp nhập) bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty
nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
Có thể thấy sáp nhập khác với hợp nhất ở chỗ sau giao dịch tư cách của
các chủ thể có sự thay đổi khác nhau: cả hai bên chấm dứt tư cách pháp lý
trong giao dịch hợp nhất để tạo ra một chủ thể có tư cách mới; chỉ một bên
được sáp nhập chấm dứt tư cách pháp lý trong khi bên nhận vẫn tiếp tục tồn
tại trong giao dịch sáp nhập. Tuy nhiên giữa haikhái niệm “sáp nhập” và “mua
lại” lại chưa thật sự có nội hàm rõ ràng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Bài Luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu về “sáp nhập” để có thể đưa ra cái
nhìn cụ thể và toàn diện hơn về khái niệm này.
* Khái niệm NHTMCP
NH bắt đầu hoạt động từ việc giữ các đồ vật quý cho những người chủ
sở hữu nó. Đổi lại,người chủ sở hữu phải trả cho người giữ một khoản
phí. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa thì NH ra đời và phát

triển thành một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế.
Dựa trên những góc độ khác nhau về chức năng, vai trò hay hoạt động
mà định nghĩa về NH có thể được hiểu cụ thể. Cách tiếp cận thận trọng nhất
là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện loại hình dịch vụ mà
chúng cung cấp: “NH là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
16
dịch vụ tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế” [18]. Bên cạnh đó, tùy từng hoàn cảnh,
điều kiện lịch sử khác nhau của mỗi quốc gia các loại hình NH khác nhau
cũng được hình thành.Trong đó NHTM là loại hình không thể thiếu và thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần, số lượng các NH.
NHTM được biết đến như là một định chế tài chính mà đặc trưng là
cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi,
cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán, ngoài ra còn nhiều dịch vụ khác
nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. Ở Việt Nam,
NHTM là một loại hình NH được thực hiện tất cả các hoạt động NH: nhận
tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và các hoạt
động kinh doanh khác theo quy định của Luật TCTD 2010 nhằm mục tiêu lợi
nhuận. NHTM trong nước được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, trừ
NHTM nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty THHH một
thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. Vì vậy, khi nhắc đến
NHTM chúng ta thường nhớ tới NHTMCP và bắt gặp nhiều các vấn đề về
liên quan đến tổ chức, hoạt động của loại hình NH này. Một số đặc điểm
trong hoạt động của NHTM có thấy được như sau:
Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm
lời (bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH).Trong
đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn
dưới các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu về
vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ NH được biểu

hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và chứng
khoán… để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một
17
thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng
chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng.
Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều
kiện, nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe
do pháp luật quy định (vốn pháp định, phương án kinh doanh, ) thì mới được
phép hoạt động trên thị trường.
Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn
nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc,
mang tính chất dây chuyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong
hoạt động NH, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải
tiến hành huy động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và
trên nguyên tắc NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn
nhất định, nên đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động NH, kéo theo đó là
sự rủi ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế.
Chính những đặc điểmtrong hoạt động của NHTM trên đã dẫn tới việc
thực hiện sáp nhập đối với các chủ thể này cũng có những đặc thù riêng. Một
số điểm đặc thù chúng ta có thể thấy được như sau:
Một là, để đi đến sáp nhập NHTM cần phải tuân theo những điều kiện
nghiêm ngặt hơn so với các doanh nghiệp đơn thuần khác. Ngoài việc không
vi phạm những điều khoản về ngăn chặn tập trung kinh tế, NHTM muốn tiến
hành sáp nhập cần phải tuân thủ nhiều điều kiện khác như: bắt buộc phải có
Đề án sáp nhập bao gồm tối thiểu các nội dung nhất định theo quy định của
pháp luật; yêu cầu về mức vốn, tài sản; thời gian thành lập.
Hai là, để sáp nhập NHTM đòi hỏi phải có sự chấp thuận của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền.Trong trường hợp này, chủ thể có thẩm quyền cũng
có thể là cơ quan khác so với trong một thương vụ sáp nhập doanh nghiệp đơn thuần.
18

Ba là, trình tự, thủ tục sáp nhập cần tuân thủ nghiêm ngặt theo những
bước được ghi nhận cụ thể trong luật. Trình tự và thủ tục này so với quy trình
áp dụng ở các doanh nghiệp thì mức độ phức tạp cao hơn. Việc xác định,
thẩm định giá trị của NH cũng cần phải tuân thủ theo những quy trình, cách
thức riêng xuất phát từ các hoạt động mang tính đặc thù của tổ chức tín dụng.
Bốn là, bên cạnh vấn đề về quyền lợi, nghĩa vụ của NHTM tham gia sáp
nhập thì quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân có liên quan cũng
cần phải đảm bảo giải quyết triệt để. NH thực hiện các nghiệp vụ huy động
vốn để cho vay rộng rãi trong nhân dân, chỉ cần một bất ổn nhỏ xuất phát từ
một NH cũng có thể gây mất niềm tin vào cả hệ thống gây ra những hiệu ứng
không tốt cho nền kinh tế. Vì vậy ngoài các quyền lợi cần được đảm bảo như
trong một thương vụ sáp nhập doanh nghiệp thì các quyền lợi mang tính chất
đặc thù trong sáp nhập NH cũng cần được ghi nhận và bảo vệ bởi luật, điển
hình như Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Trên đây là một số đặc điểm nổi bật của hoạt động sáp nhập NH. Xuất
phát từ những đặc điểm trên mà các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động
này cũng có sự chuyên biệt hơn so với hoạt động sáp nhập doanh nghiệp đơn
thuần.
1.1.3. Các yếu tố thúc đẩy sáp nhập NHTMCP
Theo đánh giá chung, Ngân hàng Việt Nam hiện nay tuy phát triển về số
lượng nhưng chất lượng chưa thật sự cao. Việt Nam hiện tại có hơn 30
NHTMCP [27]. Đó là chưa kể đến các NHNN, NH chính sách xã hội, hay các
công ty tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân cũng có chức năng huy động vốn
và cho vay như NH. Bên cạnh đó, dù gặp khá nhiều khó khăn trước bối cảnh
kinh tế chung, nhưng do cạnh tranh giành thị phần nên các NH Việt Nam có
một thời gian dài chạy đua mở rộng mạng lưới, làm cho số lượng điểm giao
dịch của NH trên cả nước tăng đến con số hàng ngàn. Tại những khu vực đô
19
thị, mật độ điểm giao dịch NH rất cao, có tính cạnh tranh khốc liệt. Tuy nhiên
việc mở rộng trên đối với nhiều NH có số vốn điều lệ không cao, kinh doanh

không có lãi… không những tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh mà còn ẩn
chứa rất nhiều rủi ro cho hệ thống tài chính NH Việt Nam.
Trong bối cảnh như vậy, phương án sáp nhập các NH là một trong
những xu hướng đúng đắn, cần thiết để tăng năng lực cho các chủ thể này.
Bởi sự hợp tác sẽ mang lại nhiều lợi thế (gia tăng quy mô hoạt động; kết hợp
sử dụng hiệu quả hơn khi các nguồn lực được bổ sung; tiết giảm chi phí giao
dịch; chi phí hoạt động…) [2] hỗ trợ cùng nhau phát triển bền vững, giúp
ngành NH trong nước đủ sức cạch tranh với các tập đoàn tài chính nước
ngoài.
Việc hoàn thiện hơn về khung khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động sáp
nhập nói chung và sáp nhập NH nói riêng cũng tạo một môi trường thu hút
các thương vụ sáp nhập NH. Hiện nay, các quy định về hoạt động mua lại và
sáp nhập ngành NH cũng đang từng bước hoàn thiện. Cụ thể năm 2010,
NHNN đã ban hành Thông tư 04/2010/TT-NHNN quy định việc sáp nhập,
hợp nhất, mua lại TCTD gồm: NHTM, công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính, TCTD hợp tác. Thông tư này cũng đang được nghiên cứu để sửa đổi và
hoàn thiện hơn nữa. Các quy định về sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam cũng được thay đổi cho phù hợp với lộ trình gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới của nước ta.
Bên cạnh đó, tham gia vào hoạt động sáp nhập trong lĩnh vực tài chính
nói chung và lĩnh vực NH nói riêng tại Việt Nam là một trong những chiến
lược của các tập đoàn tài chính NH nước ngoài. Trong những năm gần đây, từ
điều kiện thuận lợi của chính sách mở cửa hội nhập, các tập đoàn tài chính
NH nước ngoài đã lựa chọn các NH Việt Nam làm đối tác như một chiến lược
cho kế hoạch thâm nhập ngành tài chính nước ta của các tập đoàn này. Các
20
NHTM được lựa chọn đều là những NHTM cổ phần hàng đầu, có uy tín, có
kết quả làm ăn tốt. Đây là một khoản đầu tư lâu dài, đảm bảo sinh lợi cao và
an toàn. Ngoài ra việc thâu tóm các NH nhỏ thông qua các chiến lược thu
gom cổ phiếu cũng hoàn toàn có thể xảy ra.

Như vậy, xu hướng sáp nhập và mua lại là tất yếu, thời điểm sáp nhập
đã chính muồi, phù hợp với chủ trương và chỉ đạo của Chính phủ trong giai
đoạn hiện nay. Đồng thời việc liên kết, sáp nhập sẽ tăng năng lực cạnh tranh
là con đường tất yếu của các NH Việt Nam trong quá trình hội nhập và nhất là
để chống đỡ với cuộc khủng hoảng tài chính đến từ nước ngoài.
Ngoài ra, sự ra đời các tổ chức tư vấn mua lại và sáp nhập ngày càng
nhiều tại Việt Nam là yếu tố hỗ trợ cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu sáp nhập
của các doanh nghiệp và NH thực hiện hoạt động này. Bởi vì, khi thiết lập
giao dịch sáp nhập, vai trò của các tổ chức tư vấn rất quan trọng để đảm bảo
cho giao dịch đúng giá, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền lợi và lợi ích của
cả hai bên. Một số tổ chức tư vấn, hỗ trợ hoạt động sáp nhập lớn tại Việt Nam
như Công ty cổ phần đầu tư tài chính quốc tế và phát triển doanh nghiệp (IDJ
Financial), Công ty cổ phần mua bán doanh nghiệp và kết nối đầu tư quốc tế -
ICE, công ty đầu tư tài chính Việt Nam – Vietnam Financial Investment JSC
(TigerInvest)…cũng tạo ra môi trường tư vấn chuyên nghiệp cho hoạt động
sáp nhập NH diễn ra sôi động hơn.
Những yếu tố trên là những yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thúc
đẩy hoạt động sáp nhập NH diễn ra ở Việt Nam hiện nay.
1.1.4. Phương thức sáp nhập NHTMCP
Sáp nhập NHTMCP có thể được thực hiện qua một số phương thức khác
nhau tùy theo một số yếu tố như NH có niêm yết hay không, việc sáp nhập có
tính thân thiện hay thù địch. Các phương thức này có thể thấy được gồm:
21
thương lượng, chào mua cổ phiếu công khai, thu gom cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán.
• Phương thức thương lượng:
Đây là hình thức đàm phán, thương lượng và kí hợp đồng trực tiếp giữa
các NH tham gia sáp nhập. Thông qua đàm phán trực tiếp, các bên tham gia
có thể trực tiếp đưa ra các yêu cầu riêng và bảo vệ phương án đó của mình.
Việc đàm phán trực tiếp sẽ đi đến thống nhất khi lợi ích được dung hòa, tất cả

các bên đều đạt mục tiêu mà họ cho rằng có thể đạt được. Tuy nhiên để cả hai
bên cùng thắng lợi và đi đến thống nhất một thương vụ sáp nhập là điều
không hề dễ. Trên thực tế để đi đến thống nhất các bên có thể phải tốn nhiều
thời gian và tiền của để gặp nhau trao đổi, đàm phán. Chưa nói đến các
thương vụ hao tiền tốn của cho đàm phán như trên mà mục tiêu sáp nhập lại
không đạt được. Do đó tiến hành sáp nhậptheo phương thức trực tiếp như trên
có thể thấy có nhiều ưu điểm nhưng cũng có những hạn chế.
• Phương thức chào mua cổ phiếu công khai
Theo phương thức này một bên có thể thực hiện chào mua công khai
công khai một số lượng cổ phiếu nhất định của bên NH mục tiêu, theo điều
kiện và trong một thời gian cụ thể và bên chào mua không rút lại ý định mua
hay thay đổi điều kiện trong suốt thời gian này.
Theo đó, NHTM muốn thực hiện sáp nhập có thể đã là cổ đông hoặc
chưa là cổ đông của NHTM mục tiêu phải:
Áp dụng các điều kiện chào mua công khai với tất cả cổ đông của công
ty bị chào mua; Áp dụng chế độ công bố thông tin cho các cổ đông về ý định
sẽ trả một giá nào đó trong một thời gian nhất định và cam kết sẽ mua cổ
phiếu. Giá được chào mua có thể cao hơn giá thị trường rất nhiều, bởi nó phải
đủ hấp dẫn để đa số cổ đông tán thành việc từ bỏ quyền sở hữu và quản lý của
mình; Mua cổ phiếu từ bất kỳ cổ đông nào theo điều kiện đã công bố; Chấp
22
hành đúng thời hạn chào mua công khai. Nếu các cổ đông của NHTM mục
tiêu chấp nhận chào mua thì việc chào mua công khai đã thành công.
• Phương thức thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán là phương thức NH chủ
động có ý định thâu tóm sẽ tiến hành mua dần cổ phiếu của NH mục tiêu
thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, hoặc mua lại từ các cổ đông
chiến lược hiện hữu. Phương thức này đòi hỏi thời gian và tính bảo mật vì nếu
ý đồ thôn tính được tiết lộ sẽ làm giácổ phiếu của NH mục tiêu giao động
mạnh trên thị trường. Việc thâu tóm này được thực hiện trôi chảy, NH chủ

động có thể thao túng bên NH mục tiêu và đi đến hoàn thành sáp nhập theoý
chí và đưa lợi íchnghiêng về phía mình.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật trong hoạt động sáp nhập
NHTMCP
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển khung pháp lý điều chỉnh hoạt
động sáp nhập NHTMCP
* Trên thế giới:
Hành lang pháp lý là khung cơ sở cho việc thực hiện các hoạt động sáp
nhập doanh nghiệp nói chung và sáp nhập NH nói riêng. Nhưng chính nhu
cầu về sáp nhập ngày càng lớn lại thúc đẩy quá trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật điều chỉnh về vấn đề này.
Như đã đề cập ở trên, làn sóng sáp nhập đầu tiên được diễn ra vào những
năm 1890 ở Mỹ và châu Âu trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp với xu
hướng sáp nhập ngang. Xu hướng thực tế của hoạt động này đã tạo ra các tập
đoàn công ty lớn với sức cạnh tranh mạnh mẽ. Nhưng những mầm mống của
cạnh tranh không lành mạnh, của độc quyền cũng xuất hiện từ chính các
thương vụ sáp nhập trên. Từ đó nhu cầu ra đời của các quy định pháp luật về
23
chống độc quyền được đặt ra để kiểm soát và điều chỉnh hoạt động mua lại,
sáp nhập.
Ở Mỹ, Đạo luật Sherman năm 1890 là Đạo luật chống độc quyền liên
bang đầu tiên. Đạo luật này được áp dụng cho hoạt động mua lại, sáp nhập
một cách linh hoạt, phụ thuộc vào giải thích của Tòa án tối cao Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, theo Đạo luật thì Tòa án tối cao có thể phán quyết rằng tất cả các vụ
sáp nhập giữa các công ty cạnh tranh trực tiếp tạo thành một sự kết hợp hạn
chế thương mại là vi phạm Luật trên. Quy định này cản trở việc tạo ra các độc
quyền mới thông qua hình thức sáp nhập ngang. Sự sáp nhập giữa các NH lớn
cùng cung cấp những dịch vụ như nhau có thể chưa đến mức tạo ra độc quyền
những cũng tạo ra những yếu tố gây cạnh tranh không lành mạnh. Đến năm
1914, Đạo luật Clayton về chống độc quyền được Quốc hội Mỹ thông qua

nhằm làm rõ hơn các quy định của Đạo luật Sherman.
Tiếp theo các “đợt sóng” sáp nhập xuất hiện ở trên, các “đợt sóng” khác
nhau được diễn ra và đều có mục đích khá giống nhau: độc quyền, độc quyền
nhóm bán, sáp nhập thành tập đoàn. Chính vì vậy trên thế giới, hoạt động sáp
nhập được xem xét, điều tiết chủ yếu từ góc độ của pháp luật về cạnh tranh:
kiểm soát tập trung kinh tế.
Ở Mỹ các cơ quan giám sát NH đã tạo điều kiện cho những hoạt động
mua lại và sáp nhập, đặc biệt là giữa các NH có quy mô vừa và lớn bằng cách
bãi bỏ những rào cản về thị phần của các NH bán lẻ. Đạo Luật NH năm 1933
đặt ra rào cản về sản phẩm và phạm vi địa lý đối với các TCTD và hạn chế
việc mở chi nhánh trong nội bộ một Bang nhằm giảm thiểu rủi ro. Đạo luật
Celler-Kefauver được ban hành năm 1950 - sửa đổi Đạo luật Clayton với mục
đích là tăng cường pháp luật chống lại sự độc quyền mạnh mẽ được tạo ra
thông qua sáp nhập. Từ những năm 1960, sự ra đời của các công ty nắm giữ
NH đã tạo ra một lối thoát giúp các TCTD vượt qua các quy định kỹ thuật về
24
sản phẩm và địa lý. Theo đó, các chi nhánh ở các Bang khác nhau được tổ
chức lại thành các NH con thuộc một công ty sở hữu nhiều NH. Khuôn khổ
pháp lý này khiến cho hệ thống NH phình ra với số lượng lớn. Do đó, xu
hướng hoạt động mua lại và sáp nhập trong lĩnh vực NH vẫn tiếp tục phát
triển. Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư trong các
thương vụ sáp nhập thông qua các quy định pháp luật kiểm soát nghiêm ngặt
đối với báo cáo tài chính của công ty niêm yết cũng được đặt ra khi Đạo luật
Sarbanes-Oxeley ra đời năm 2002. Tóm lại “mua lại và sáp nhập NH ở Mỹ là
minh chứng rõ nét nhất của sự liên kết ngẫu nhiên giữa những thay đổi về mặt
chính sách pháp luật và làn sóng mua lại và sáp nhập chưa từng có trong lịch
sử” [17].
Ở châu Âu, hoạt động sáp nhập được điều chỉnh không chỉ thông qua
hành lang pháp luật canh tranh mà còn bằng Luật Công ty. Riêng đối với các
nước thuộc Liên Bang Nga trước đây thì pháp luật cạnh tranh tạo ra hành lang

pháp lý để kiểm soát các hoạt động sáp nhập mang tính chất tập trung quyền
lực kinh tế. Theo đó thì việc thông báo trước khi hoàn thành việc sáp nhập
được coi là thủ tục bắt buộc. Nếu thiếu đi các bước này NH sẽ không nhận
được quyết định sáp nhập của cơ quan chống độc quyền và như vậy NH mới
hình thành sẽ không được đăng ký pháp nhân một cách chính thức. Ở Italia,
trước đây, cơ cấu tổ chức NH gồm rất nhiều các NH tư nhân quy mô nhỏ và
một số tổ chức tiết kiệm do Nhà nước sở hữu. Khi chuẩn bị ra nhập Euro, khu
vực NH của nước này với các định chế không có tính cạnh tranh cao với
mạng lưới chi nhánh ít ỏi đã trải qua những thay đổi căn bản. Đạo luật NH
năm 1993 cho phép chính phủ giảm tỷ lệ nắm giữ tại các NH quốc doanh
xuống mức thấp nhất. Chương trình cổ phần hóa này đã dẫn đến sự sáp nhập
mạnh mẽ của các NH tiết kiệm và hình thành các NH lớn [17].
25

×