SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC CỦA GIÁO VIÊN
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG DỰ GIỜ THĂM LỚP CỦA CÁN BỘ
QUẢN LÝ”
MỤC LỤC
PHẦN I : NÊU VẤN ĐỀ
1.Sự cần thiết tiến hành đề tài:
2. Phạm vi nghiên cứu:
3. Phương pháp nghiên cứu:
PHẦN II :NỘI DUNG
I. Thực trạng về việc kiểm tra đánh giá giờ dạy trên lớp của
giáo viên
1. Cơ sở lý luận
1. 1 Quan niệm về kiểm tra đánh giá
1.2 Tác dụng của việc kiểm tra đánh giá đối với hoạt động
chuyên môn trong nhà trường
1.3 Nội dung kiểm tra đánh giá:
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1 Đặc điểm của trường tiểu học Gia Sàng
2.2 Kết quả hoạt động của trường tiểu học Gia Sàng
II. Những biện pháp đẩy mạnh hoạt động dạy học thông qua
việc dự giờ thăm lớp.
1/ Xây dựng kế hoạch tổ chức dự giờ kiểm tra đánh giá:
2/ Thực hiện kế hoạch dự giờ kiểm tra đánh giá:
III. Kết quả đạt được và tính khả thi của sáng kiến kinh nghiêm
PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Những kiến nghị, đề xuất
Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 5
Trang 5
Trang 6
Trang 6
Trang 8
Trang 10
Trang 10
Trang 11
Trang 18
Trang 21
Trang 21
Trang 24
PHẦN I : NÊU VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết tiến hành đề tài:
Nghị quyết dại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XI đã
khẳng định: “ Đổi mới và phát triển toàn diện, mạnh mẽ giáo dục, đào tạo. Thực hiện
đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện. đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, năng
lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội.
Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng ”
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới của xã hội, để thực hiện nghị quyết của Đảng Cộng
Sản Việt Nam lần thứ XI, ngành giáo dục đặt ra cho hệ thống giáo dục nói chung và
bậc tiểu học nói riêng, việc nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục là một yêu cầu
cấp thiết đặt ra cho những nhà quản lý cũng như mỗi người giáo viên. Chất lượng
giảng dạy và giáo dục của nhà trường, phụ thuộc vào giờ lên lớp của giáo viên, do vậy
các nhà quản lý phải kiểm tra thường xuyên, kịp thời và đánh giá chính xác giờ lên lớp
của giáo viên.
Thực tế hiện nay, cán bộ quản lý ( CBQL) tuy đã để tâm đến việc kiểm tra-đánh
giá giờ lên lớp của giáo viên, nhiều năm qua việc kiểm tra đánh giá giờ lên lớp của
giáo viên đã góp phần thúc đẩy hoạt động sư phạm trong nhà trường. Bước đầu việc
kiểm tra đánh giá giờ lên lớp của CBQL đã tác động tới từng giáo viên trong việc
giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Nhưng việc kiểm tra đánh giá giờ
lên lớp của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Có những CBQL chỉ kiểm tra
cho điểm mà không đánh giá, nhận xét hoặc đánh giá chung chung Điều đó chẳng
những không kích thích động viên được giáo viên mà còn làm cho các giáo viên trong
hội đồng sư phạm không có hứng thú trong giảng dạy, họ tự ti, ỷ lại và làm việc không
hết trách nhiệm.
Vấn đề kiểm tra- đánh giá ở trường tiểu học là khâu quan trọng trong chu trình
quản lý nó được coi như một thứ vũ khí sắc bén của các nhà quản lý để đẩy mạnh hoạt
động dạy học trong nhà trường.
Xuất phát từ thực trạng trên khiến tôi quyết định chọn sáng kiến :" Nâng cao
chất lượng dạy học của giáo viên thông qua hoạt động dự giờ thăm lớp của cán
bộ quản lý". Với mục đích tìm ra biện pháp khắc phục những hiện trạng nêu trên và
nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường tiểu học.
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về đánh giá giờ dạy trên lớp của giáo viên, đề xuất
một số biện pháp của người CBQL về việc đánh giá giờ dạy trên lớp của giáo viên ở
nhà trường tiểu học góp phần nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục ở nhà trường và
hiệu quả công tác quản lý.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu cơ sở lý luận về công tác đánh giá của CBQL đối với giờ dạy trên lớp
của giáo viên ở trường tiểu học.
Đề xuất một số biện pháp của CBQL để thực hiện kiểm tra-đánh giá giờ dạy trên
lớp của giáo viên trường tiểu học có hiệu quả.
2. Phạm vi nghiên cứu:
* Địa điểm: Các giờ dạy trên lớp của các giáo viên trong trường tiểu học Gia
Sàng và thực tế dự giờ ở một số tiết dạy trường bạn.
* Thời gian nghiên cứu: Năm học 2009 - 2010; 2010 - 2011; 2011 - 2012
* Đối tượng nghiên cứu: Giáo viên trường tiểu học Gia Sàng thành phố Thái
Nguyên.
* Phạm vi nghiên cứu: Nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên thông qua
hoạt động dự giờ thăm lớp của cán bộ quản lý.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và nghiên cứu các tài liệu văn bản để hiểu
được cơ sở lý luận của việc đánh giá giờ lên lớp của giáo viên.
- Phương pháp quan sát: Thông qua việc đánh giá giờ dạy của giáo viên để có
những số liệu về thực trạng giúp cho việc nghiên cứu.
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi phỏng vấn của cán bộ quản lý và giáo viên
tiểu học để thu thập thông tin phục vụ cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tập hợp lại những kinh nghiệm nghiên cứu
và thực tiễn về đánh giá đề xuất các biện pháp.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC KIỂM TRA-ĐÁNH GIÁ GIỜ DẠY
TRÊN LỚP CỦA GIÁO VIÊN
1. Cơ sở lý luận
1.1 Quan niệm về kiểm tra đánh giá
1.1.1 Kiểm tra: Là quá trình xem xét thực tế nhằm đo nhiệm giữa mục tiêu đề ra
với trình độ đạt chuẩn trên thực tế của đối tượng nhằm thu thập thông tin (ngược). Tạo
nên quá trình điều chỉnh của hệ quản lý và tự điều chỉnh của hệ bị quản lý.
1. 1.2 Đánh giá:
- Đánh giá là đưa ra nhận định tổng hợp về các dự kiện đo lường được thông qua
các kỳ kiểm tra lượng giá trong quá trình và khi kết thúc bằng cách đối chiếu, so sánh
với những tiêu chuẩn đã được xác định rõ ràng trước đó trong các mục tiêu.
- Đánh giá là quá trình thu thập thông tin,xử lý thông tin để lượng định tình hình
và kết quả công việc giảng dạy của giáo viên người đánh giá có kế hoạch quyết định
và hành động có hiệu quả.
1. 1.3 Đánh giá giờ dạy trên lớp đối với giáo viên:
Là một quá trình tiến hành có hệ thống nhằm xác định mục đích thành công của
giáo viên trong giờ dạy về nội dung giờ dạy,về phương pháp mà giáo viên đã áp dụng
về phong thái của giáo viên trong giờ dạy học, nó bao gồm sự miêu tả định tính và
định lượng kết quả đạt được thông qua những nhận xét, so sánh với mục tiêu giờ lên
lớp dựa vào các chuẩn đánh giá.
2. Tác dụng của việc kiểm tra đánh giá đối với hoạt động chuyên môn trong nhà
trường.
2.1.1 Việc kiểm tra đánh giá giúp cho CBQL:
- Qua việc kiểm tra đánh giá giờ dạy trên lớp giúp cho CBQL nắm bắt được năng
lực sư phạm của từng giáo viên trong trường, xác định được thực trạng của việc giảng
dạy để phát huy những ưu điểm và hạn chế những vướng mắc trong giờ dạy trên lớp,
từ đó CBQL điều chỉnh ngăn ngừa những sai lệch. Thông qua kết quả kiểm tra đánh
giá cho phép CBQL đi đến những quyết định tối ưu nhất để xếp loại chuyên môn
nghiệp vụ và công nhận giáo viên giỏi cấp trường đồng thời giúp cho CBQL sử dụng
đúng người đúng việc phát huy được năng lực sở trường của mỗi giáo viên.
2.1. 2. Kiểm tra đánh giá giúp cho GV:
- Giáo viên tự đánh giá khả năng năng lực chuyên môn của mình đồng thời học
hỏi được từ CBQL về kiến thức kĩ năng, phương pháp, cách thức tổ chức….để từ đó
nâng cao nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện nhân cách nhà giáo, tinh thần trách nhiệm, nỗ
lực ý chí, tính kiên trì lòng tự tin, ý thức tập thể và quan hệ ứng xử.
3. Nội dung kiểm tra đánh giá:
3. 1. Đánh giá công tác chuẩn bị của giáo viên
3.1.1. Việc soạn bài:
Khi kiểm tra-đánh giá việc soạn bài cần chú ý những vấn đề sau:
Soạn đúng, đủ yêu cầu các mục đề như: Ngày soạn, ngày giảng, tên môn, tên bài.
Soạn đúng theo phân phối chương trình của bộ quy định, về nội dung đã được
nâng cao và chắt lọc lại những bài học có bổ sung phần giảm tải. Trong việc soạn phải
hình thành các hoạt trong một tiết dạy, các bước trong từng hoạt động đó, thời gian,
định hình các hoạt động của thầy, hoạt động của trò, giáo viên cần khắc sâu điều gì
HS dễ mắc phải, mở rộng ra sao? Hệ thống câu hỏi phải logic, phải đưa HS vào tình
huống có vấn đề để khai thác vốn sống và vốn kiến thức HS đã có vào nội dung bài
dạy.
3.1.2. Đánh giá việc chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học
Đánh giá việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng có thể đánh giá được tinh thần
nhiệt tình sáng tạo của giáo viên trong công tác ta cần xem xét để thấy được bài dạy có
thể sử dụng được những đồ dùng nào giáo viên có thể tự làm, góp ý cho giáo viên
giúp họ có thể sáng tạo, tìm tòi để có nhiều đồ dùng phù hợp, tiện lợi phục vụ cho
bài dạy đạt hiệu quả
3.1.3. Đánh giá việc giảng bài trên lớp của giáo viên :
CBQL cần chỉ ra những ưu điểm để giáo viên phát huy và những hạn chế mà giáo
viên cần khắc phục.
CBQL cần tạo tâm lí cho giáo viên để cùng giáo viên trao đổi những kinh nghiệm
trong giảng dạy, tháo gỡ những khó khăn tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên phát huy
hết năng lực chuyên môn
2 . Cơ sở thực tiễn:
2. 1. Đặc điểm của trường tiểu học Gia Sàng
Trường tiểu học Gia Sàng nằm trên địa bàn phường Gia Sàng với diện tích 1775
m
2
.
Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối khang trang với 16 phòng học cao tầng;
các phòng ban như nhà hiệu bộ, thiết bị thư viện đầy đủ. Chính vì vậy trường đã tổ
chức học 2 buổi/ ngày cho 100% học sinh trong đó 70 % học sinh ăn học bán trú tại
trường.
Trường đã được công nhận trường chuẩn Quốc gia mức độ 1, phấn đấu năm
2014 đạt chuẩn Quốc gia mức độ II.
* Quy mô phát triển trường lớp: ( Năm 2011- 2012)
- Trường có 16 lớp học 2 buổi/ngày với tổng số 438 HS.
- Toàn trường có 33 CB - GV, 13 Đảng viên.
- Trường có 1 giáo viên giỏi toàn quốc; 5 giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh và nhiều
giáo viên dạy giỏi cấp Thành phố.
Về trình độ chuyên môn:
Năm học
Tổng số
CBGV
Trình độ
Ghi chúĐại học Cao đẳng
Trung
cấp
SL % SL % SL %
2008-2009 24 13 54 3 12,7 8 33,3
2009-2010 28 16 57,2 4 14,2 8 28,6
2010-2011 29 18 62,1 7 24,1 4 13,8
2011-2012 33 19 57,6 10 30,3 4 12,1
Về tuổi đời giáo viên
Năm TSGV
Tuổi
từ 20-
25
Tuổi
từ 26-
30
Tuổi từ
31-40
Tuổi
từ 41-
50
Tuổi
trên 50
2008-
2009
24 1 7 3 11 3
2009-
2010
28 5 8 4 8 3
2010-
2011
29 10 4 9 2 4
2011-
2012
33 13 5 13 1 1
Phần lớn đội ngũ giáo viên trường tiểu học Gia Sàng tâm huyết với nghề, tận tâm
với học sinh, nhiều tấm gương các thầy cô giáo đã vượt qua khó khăn về đời thường
để dạy tốt - nêu gương sáng cho học sinh noi theo; trường nhiều năm đạt danh hiệu
trường tiên tiến xuất sắc.
Trong 3 năm gần đây do có chế độ nghỉ hưu sớm nên nhà trường được tuyển
thêm giáo viên trẻ, họ nhiệt tình trong công tác, ham học hỏi, cầu tiến bộ nhưng lại
chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy. Do cơ chế tuyển viên chế hiện nay của ngành
giáo dục ( những giáo viên là dân tộc, con gia đình chính sách được cộng 30 diểm ưu
tiên) nên nhiều giáo viên trẻ là dân tộc nhà ở xa như Võ Nhai, Định Hoá, Phú Lương,
thậm chí ở tỉnh khác như Lạng Sơn, Bắc Cạn được trúng tuyển nhưng phải thuê nhà ở
trọ. Đồng lương thấp, lại phải thuê trọ nên kinh tế của những giáo viên này gặp không
ít khó khăn nên củng ảnh hưởng không nhỏ tới chuyên môn.
Từ năm học 2008 - 2009, tuy việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy đã được nhà
trường quan tâm, 100% GV đã được học bồi dưỡng tin học nhưng phòng máy vi tính
của trường chưa đồng bộ, đội ngũ GV mới chỉ biết sử dụng vi tính trong soạn thảo văn
bản thông thường hoặc biết các thao tác để sử dụng giáo án điện tử đã được soạn sẵn;
tỷ lệ giáo viên biết soạn giáo án điện tử thành thạo hoặc khai thác dữ liệu nguồn để xây
dựng giáo án còn chưa nhiều. Cho đến nay trường đã có phòng học vi tính cho học
sinh và các phòng ban khác đều được trang bị đầy đủ, tỷ lệ giáo viên biết dạy học và
sử dụng máy tính thành thạo ngày càng cao hơn.
2.2 Kết quả hoạt động của trường tiểu học Gia Sàng
Trong những năm học vừa qua trường tiểu học Gia Sàng luôn đạt trường tiên
tiến, tiên tiến xuất sắc , Công đoàn vững mạnh, vững mạnh xuất sắc, Liên Đội mạnh
xuất sắc cấp tỉnh.
Cụ thể như sau:
Năm
Giáo viên Học Sinh
CSTĐ LĐTT
GVG
TP
GVG
trường
HSG
TP-
TỈNH
HSG HSTT HSTB
HS
yếu
2008-
2009
2 14 2 12 25 194 86 76 7
2009-
2010
2 15 2 15 29 269 78 48 6
2010-
2011
2 16 3 16 35 312 87 20 1
* Ưu điểm:
Do giáo viên có ý thức tự giác trong việc học tập, tự nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho bản thân.
Đội ngũ giáo viên đoàn kết, sẵn sàng giúp đỡ nhau năng cao tay nghề và hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
Chất lượng tổ chuyên môn từng bước được cải thiện, tổ chuyên môn đã dần
phát huy vai trò của mình trong việc định hướng nâng cao tay nghề giáo viên.
Ban giám hiệu thực hiện đổi mới quản lí, chú trọng đến bồi dưỡng, nâng cao
chất lượng cho đội ngũ.
Nhà trường tạo điều kiện tối đa để giáo viên được tham gia các lớp học , các
lớp tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
*Tồn tại
Tuy đội ngũ giáo viên có nhiều mũi nhọn làm đồn bẩy cho phong trào thi đua
dạy tốt song chất lượng đội ngũ còn chưa đồng đều. Một số giáo viên nghiệp vụ
chưa vững vàng.
Việc đổi mới các phương pháp dạy còn chậm, khi triển khai còn lúng túng
nên ảnh hưởng tính phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Giáo viên còn thụ động, chưa chủ động, tích cực, sáng tạo trong nên hiệu quả
giáo dục chưa cao.
Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và quản lý học
sinh còn nhiều hạn chế.
Nhiều giáo viên chưa có ý thức tự học tập bồi dưỡng để nâng cao trình độ,
việc học tập mang tính thụ động, chỉ học tập, bồi dưỡng khi có sự chỉ đạo. Một số
giáo viên có tư tưởng an phận, không muốn phấn đấu , một số muốn học tập để
nâng cao tay nghề nhưng do năng lực của bản thân hạn chế nên không thể bứt phá
vươn lên trở thành giáo viên có tay nghề vững vàng.
*Nguyên nhân của những yếu kém:
Do năng lực và nhận thức của giáo viên không đồng đều, nhiều giáo viên mặc
dù đã cố gắng nhưng vẫn còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ.
Chưa có biện pháp triệt để nhằm bồi dưỡng tay nghề cho giáo viên . Chưa có
kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng giáo viên.
Mặc dù đã được nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học tập nâng
cao trình độ chuyên môn đào tạo nhưng chưa có định hướng cụ thể và chưa hỗ trợ
giáo viên trong việc tự bồi dưỡng, chưa nhân được điển hình.
Một số giáo viên trẻ mới được tuyển viên chức còn quá mới mẻ, kinh nghiệm
giảng dạy còn thiếu, mặc dù đã được trang bị những tri thức đã học ở trường sư
phạm nhưng ra thực tế giảng dạy vẫn còn gặp nhiều lúng túng, việc sử lí các tình
huống sư phạm chưa khéo nên chưa lôi cuốn được học sinh trong quá trình giảng
dạy.
Do bão giá của thị trường nên với đồng lương hiện nay, nhất là đối với giáo
viên mới ra trường thì cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn vì vậy họ không thể toàn
tâm toàn ý với nghề nghiệp.
Sinh hoạt tổ chuyên môn mặc dù đã có tác dụng nhưng vẫn còn thiếu sự sáng
tạo, chưa thu hút được giáo viên nên hiệu quả, chất lượng chưa đạt được như mong
muốn.
II. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THÔNG
QUA VIỆC DỰ GIỜ THĂM LỚP.
1. Xây dựng kế hoạch tổ chức dự giờ kiểm tra đánh giá:
Kế hoạch dự giờ được xây dựng dưới nhiều hình thức: Báo trước, không báo
trước, dự giờ cả buổi, dự giờ có mời đồng nghiệp cùng dự, dự giờ có sử dụng công
nghệ thông tin…
Để xây dựng kế hoạch dự giờ hiệu quả thiết thực người CBQL cần bám sát phân
phối chương trình chẳng hạn dự khối 1 vào thời gian nào? nhằm tháo gỡ vấn đề gì?
VD: Dự vào bài 29 vần IA chuyển từ dạng bài dạy âm sang dạy vần. Hay khối 2
dự môn toán bài phép cộng có tổng bằng 10 chuyển từ dạng bài cộng trừ không nhớ
sang dạng bài cộng trừ có nhớ….
Để xây dựng kế hoạch dự giờ cần dựa trên việc phân loại tay nghề nghiệp vụ sư
phạm : đối với giáo viên đầu đàn của trường thì dự tiết nào mà CBQL cho là khó dạy
để xem giáo viên tháo gỡ chỗ vướng đó như thế nào? Đối với giáo viên đầu yếu trong
trường cần dự những tiết chuyển từ dạng bài này sang dạng bài khác xem giáo viên đó
có nắm chắc tiến trình lên lớp hay không? Hay dự tiết dạy lí thuyết, tiết dạy thực hành
xem giáo viên đó truyền tải nội dung bài ra sao? Đối với giáo viên đầu yếu cần thường
xuyên dự giờ để giáo viên luôn luôn chuẩn bị tâm thế cũng như ý thức đối với nghề
nghiệp hơn.
Để xây dựng kế hoạch dự giờ CBQL cũng nắm bắt xem cùng một giáo viên đó ở
tiết dạy này của năm trước ra sao? Cùng một tiết dạy này sau khi được dự giờ đánh giá
có sự tiếp thu chỉnh lí như thế nào?
2, Thực hiện kế hoạch dự giờ kiểm tra đánh giá:
2. 1. Việc chuẩn bị của CBQL trước khi dự giờ kiểm tra đánh giá:
Bước 1:Bám sát kế hoạch đề ra, xem dự ai? dự môn gì ? dạng bài nào? nhằm đạt
mục đích gì ? tháo gỡ về kiến thức kĩ năng hay phương pháp ?
Bước2: CBQL cần xem trước bài dự về SGK về Gợi ý hướng dẫn trong
SGV Định hướng được vấn đề mà giáo viên dễ mắc phải về kiến thức về phương
pháp hay c ách thức tổ chức., hay về tiến trình tiết dạy để xem giáo viên đó tháo gỡ
ra sao? sáng tạo như thế nào? có gì đổi mới về phương pháp cách thức tổ chức ?
2. 2. Dự giờ thăm lớp kiểm tra đánh giá:
Bước 1:Tiến hành dự giờ thăm lớp:
CBQL phải tập trung ghi chép lại tiến trình tiết dạy , rút ra những ưu điểm, tồn
tại của tiết dạy và định hướng việc tư vấn thúc đẩy.
CBQL dự kiến điều cần tham gia, cần tư vấn về phương pháp, về kiến thức về
cách thức tổ chức về phõn bố thời gian, về sử lí tình huống sư phạm về hoạt động của
thầy và trò
Bước 2: Phân tích sư phạm giờ lên lớp đã dự : Dựa vào lý thuyết các kiểu bài học
phân tích những hoạt động của thầy, trò trong việc thực hiện mục đích, yêu cầu, nội
dung, phương pháp, kết quả và mối liên hệ giữa chúng, cần chú trọng các yếu tố sau :
+ Kiến thức trọng tâm: Đạt (chưa đạt) ở mức độ nào, có gì mới ? Cách khắc phục
giải quyết những tồn tại.
+ Phương pháp lên lớp: Phù hợp hay chưa phù hợp ? các tồn tại và cách sửa
đổi? vấn đề sử dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh?
+Phong thỏi sư phạm: ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi cần chuẩn mực trong sáng
gần gũi với học sinh sao cho dễ hiểu, trên phương diện tôn trọng người học, phát
huy khả năng vốn sống và vốn kiến thức của HS vào bài dạy
+ Chất lượng học sinh:Thông qua việc tiếp thu bài giảng, việc thực hành kiến
thức trên lớp, việc đóng góp xây dựng bàicủa HS để CBQL nắm bắt chất lượng
HS. Hoặc có thể sau dự giờ CBQL có thể kiểm tra kết quả học tập của HS bằng
một bài kiểm tra chất lượng
+ Ngoài các mặt trên cần chú trọng các yếu tố như: khoa học thực tiễn gắn liền
với cuộc sống, đào tạo toàn diện, bám sát mục đích yêu cầu của bài học, điều kiện
phương tiện thiết bị dạy học và các tình huống xảy ra trong tiết học có tính tích cực
hoặc ngược lại.
Bước3: Nhận xét đánh giá tiết dạy:
+ Cho GV nêu lại tiến trình tiết dạy, ý tưởng tự đánh giá việc làm được và những
vấn đề chưa làm được của mình
+CBQL tham gia từng khâu đoạn trong tiến trình tiết dạy, chỉ ra cho GV thấy
được mặt mạnh, yếu để giáo viên có cái nhin tổng quát về tiết dạy
Bước 4 Nêu kết quả cuối cùng, ghi biên bản.
CBQL cho giáo viên kí nhận những việc đạt được trong tiết dạy và những hạn chế
của tiết dạy, làm cơ sở cho việc kiếm tra đánh giá sự tiến bộ khả năng cập nhật đổi mới
phương pháp trong những lần dự sau.
Bước 5:Rút kinh nghiệm cho bản thân người CBQL sau dự giờ học được ở GV sự
sáng tạo nào? Từ đó bổ sung kiến thức phương pháp cho mình làm hành trang trong
việc kiểm tra đánh giá đồng nghiệp trong những lần kiểm tra.
*Lưu ý:Để bước 3 nhận xét tư vấn giáo viên tiếp thu hiệu quả nhất CBQL cần tôn
trọng tư duy nhà giáo để giáo viên được nói ra ý tưởng của mình, CBQL chỉ nhẹ nhàng
uốn nắn những suy nghĩ chưa đảm bảo tính khoa học để giáo viên nhận được bài học
từ sự tư vấn của CBQL về PP,cách thức tổ chức…sao cho phù hợp với năng lực sư
phạm của mỗi giáo viên và đối tượng học sinh của giáo viên đó.
- CBQL phải có trình độ, có năng lực phân tích. Muốn vậy phải dựa vào lí luận
dạy học, tính khoa học, tính lôgic, dựa vào vốn kinh nghiệm dự giờ. CBQL phải biết
lựa chọn sự sáng tạo của giáo viên này để tham gia cho giáo viên khác.
- CBQL phải có năng lực tư vấn: muốn vậy CBQL phải là người có trình độ, có
uy tín có năng lực chuyên môn để tư vấn sao cho giáo viên tâm phục khẩu phục và
thừa nhận những vấn đề tư vấn có sức thuyết phục, có tính khả thi, có hiệu quả trong
hoạt động dạy và học.
* Tóm lại: bước 3 là bước quan trọng nhất bởi dự giờ kiểm tra phải có nhận xét
và đánh giá thì việc dự giờ mới có tác dụng. Việc nhận xét đánh giá chỉ có tác dụng
hiệu quả khi nhận xét trên nguyên tắc đôi bên trao đổi tranh luân chuyên môn và việc
tham gia nhận xét tư vấn nhận được sự đồng thuận cao cùng hướng về một đích là mục
tiêu đẩy mạnh hoạt động dạy học trong nhà trường
2. 3. Các biện pháp đẩy mạnh dạy học thông qua các hình thức dự giờ:
3.1.Dự giờ thường xuyên: Là dự giờ nằm trong kế hoạch xây dựng từ đầu năm
học đó chính là hoạt động kiểm tra toàn diện.
*Ưu điểm
- Giáo viên có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt (đồ dùng DH, tiến trình lên lớp,
tâm thế sư phạm).
-CBQL qua việc dự giờ nắm bắt trình độ sư phạm của giáo viên, các hoạt động sư
phạm mà giáo viên đã làm được, chất lượng dạy và học , nền nếp của lớp
-Từ đó làm căn cứ để đánh giá chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học
-Làm căn cứ để tổ chức bộ máy sử dụng chuyên môn đúng người đúng việc phát
huy vai trò của mỗi giáo viên.
*Thông qua dự giờ kiểm tra toàn diện: CBQL đánh giá xếp loại tay nghề để GV
nhìn nhận đúng khả năng năng lực của mình từ đó có ý thức tu dưỡng chuyên môn.
Việc đánh giá tay nghề giáo viên còn được công khai trên hội đồng sư phạm nhà
trường nên mỗi giáo viên đều ý thức được danh dự nhà giáo mà có hướng phấn đấu ở
những giờ dạy tiếp theo.
*Như vậy qua việc dự giờ kiểm tra đánh giá toàn diện giáo viên đã góp phần thúc
đẩy sự phấn đấu nỗ lực của từng giáo viên.
3.2. Dự giờ đột xuất: là việc dự giờ không báo trước chỉ nằm trong mục tiêu cần
đạt của CBQL. Mỗi giáo viên lên lớp phải chấp hành việc dự giờ đột xuất bất kì mà
CBQL đề xuất.
*Ưu điểm:
- Kích thích hoạt động dạy của mỗi giáo viên.
- Đối với giáo viên: Luôn luôn chuẩn bị tâm thế đón kiểm tra dự giờ đột xuất bất
kì tiết nào từ đó giáo viên luôn có ý thức chuẩn bị tốt bài trước khi lên lớp
- Đối với CBQL: Tuy là dự giờ đột xuất song nó phải nằm trong chủ định của
CBQL. Dự ai?Dự khi nào? Dự tiết nào? Dự để nhằm mục đích gì? Muốn làm được
điều đó: CBQL phải căn cứ vào phân phối chương trình để dự giờ. Có thể là mở đầu
cho một dạng bài nào đó.VD: Khối 1 dạng bài chuyển từ âm sang vần-CBQL dự để
nắm bắt các bước lên lớp để tham gia uốn nắn, định hướng các hoạt dộng sư phạm của
giáo viên. Hay khối 2 môn toán chuyển từ dạng bài cộng , trừ không nhớ sang cộng ,
trừ có nhớ CBQL cần dự giờ để tham gia và nắm bắt quy trình lên lớp cách truyền thụ
kién thức của . Hay một tiết nào đó cho là khó dạy trong việc tổ chức lớp học hoặc
tháo gỡ về thời gian,phương pháp….để tham gia ý kiến cùng giáo viên thúc đẩy hoạt
động dạy trong nhà trường.
* Thông qua việc dự giờ đột xuất góp phần đẩy mạnh hoạt động dạy học trong
nhà trường là: mỗi giáo viên trước khi lên lớp luôn luôn phải chuẩn bị bài, chuẩn bị
tâm thế dự giờ, chuẩn bị đồ dùng dạy học
3.3 Dự giờ hội giảng: Là hoạt động sư phạm mang tính tập thể giáo viên trong
trường.
* Ưu điểm:
- Dấy lên phong trào dạy học trong nhà trường.
- Qua hội giảng giáo viên củng cố kiến thức các bước lên lớp mỗi môn, mỗi phân
môn.
- Qua hội giảng giáo viên học tập kinh nghiệm sư phạm: tri thức, phương pháp,
phong thái sư phạm, từ đó điều chỉnh hoạt động dạy học của mình mỗi ngày một vững
vàng về tri thức nhuần nhuyễn về phương pháp hơn.
* Thông qua việc dự giờ hội giảng CBQL cần mở chuyên đề đánh giá những ưu
điểm, những tồn tại trong hoạt động chuyên môn của một đợt hội giảng như vậy thúc
đẩy sự sáng tạo, sự đột phá, sự đổi mới trong việc linh hoạt sử dụng các phương pháp
dạy học. Khích lệ được những giáo viên có nhiều cố gắng trong chuyên môn, từ đó tạo
lên phong trào thi đua dạy tốt học tốt.
3.4 Dự giờ chuyên đề: Là hoạt động sư phạm cấp trường hoặc cấp tổ nhằm đi đến
thống nhất các bước lên lớp, hay tháo gỡ một dạng bài lí thuyêt hoặc thực hành nào đó
khó dạy.
* Ưu điểm:
- Qua dự giờ chuyên đề giáo viên nắm bắt được tiến trình, phương pháp dạy học
của một dạng bài nào đó
- Qua hoạt động chuyên đề đẩy mạnh hoạt động tổ chuyên môn
- Qua dự giờ chuyên đề tháo gỡ những khó khăn chuyên môn cấp khối tổ gặp
phải, làm chỗ dựa vững mắc cho giáo viên mới ra nghề học tập chuyên môn.
*Thông qua dự giờ chuyên đề thúc đẩy hoạt động chuyên môn bằng việc thực
hiện đúng tiến trình lên lớp, giáo viên trao đổi những kinh nghiệm dạy học, việc làm
đó tôn vinh những nhà giáo có nhiều kinh nghiệm và thúc đẩy việc dạy học và việc
đúc rút kinh nghiệm trong dạy học.
3.5 Dự giờ có sử dụng công nghệ thông tin: là hoạt động sư phạm ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy
* Ưu điểm :
- Những tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin khai thác được nhiều hình ảnh
sống động vào bài giảng làm cho bài giảng sinh động học sinh tiếp thu bằng cả kênh
hình và kênh chữ tốt hơn.
- Đối với GV tiết dạy nhẹ nhàng mà hiệu quả hơn.
- Đối với CBQL đã mở ra cho giáo viên một sân làm việc tri thức mà cập nhật
được nhiều thông tin.
* Để đẩy mạnh hoạt động chuyên môn trong nhà trường có ứng dụng công nghệ
thôn tin tôi làm từng bước như sau:
Bước 1:Khuyến khích giáo viên dạy học và soạn giảng có ứng dụng công nghệ
thông tin, có thể lúc đầu là những tiết dạy trong hội giảng được sự hỗ trợ của những
CBGV có tay nghề vi tính tốt.
Bước 2: Nhân điển hình bằng việc tuyên dương những tiết dạy có ứng dụng công
nghệ thông tin, tuyên dương những giáo viên đi đầu trong việc tiếp cận công nghệ
thông tin.
Bước 3:Trong hội giảng hoặc dự giờ toàn diện việc đánh giá của CBQL có cộng
điểm ưu tiên.
3.6 Dự giờ song song: là việc dự cùng một tiết nhưng dự hai giáo viên khác nhau.
* Ưu điểm :
- So sánh được cùng một nội dung kiến thức: mỗi giáo viên vận dụng phương
pháp dạy học, cách thức tổ chức khác nhau nên hiệu quả giờ dạy khác nhau
- Tìm được những sáng tạo của mỗi giáo viên để tháo gỡ kiến thức nội dung bài
giảng.
* Thông qua việc dự giờ: CBQL cho người dạy tiết 1 cùng dự để rút kinh nghiệm
cho việc dạy của mình và bổ sung cho đồng nghiệp. giáo viên dạy tiết thứ nhất học
được ở giáo viên dạy tiết sau những vấn đề gì? Người dạy tiết thứ nhất bổ sung cho
người dạy ở tiết dạy sau những vấn đề gì?
* Thông qua việc làm đó: Mỗi giáo viên thấy rõ nhất điểm mạnh của mình để phát
huy, để tự khẳng định mình và điểm hạn chế của mình của đồng nghiệp để rút kinh
nghiệm cho tiết dạy sau tốt hơn.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ TÍNH KHẢ THI CỦA ĐỀ TÀI
Sau nhiều năm thực hiện dự giờ kiểm tra đánh giá tôi rút ra kết quả như sau:
Cùng một giáo viên , cùng một tiết dạy đó ở hai năm học liền kề nhưng kết quả
khác nhau: Toán 5 trang112 luyện tập về diện tích xung quanh và diện tích toàn phần
hình lập phương:
Tiết dạy trước khi có sự
rút kinh nghiệm sau dự
giờ
Tiết dạy sau khi có sự
rút kinh nghiệm dự giờ
Bài học đạt được
1. KTBC: gọi HS lên
bảng tính Sxq và Stp hình
hộp lập phương có cạnh
là 7cm.
Hỏi lớp về cách tính Sxq
và Stp của HHCN và
HHLP
1. KTBC: gọi HS lên
bảng tính Sxq và Stp hình
hộp lập phương có cạnh
là 7cm.
Hỏi lớp về cách tính Sxq
và Stp của HHCN và
HHLP
Kiểm tra được nội dung
bài cũ, có sự vận dụng
kiến thức vào thực hành,
có sự phân biệt so sánh
hai dạng bài liền kề
2. Bài mới:
Bài1:Tính diện tích xung
quanh và diện tích toàn
phần của hình lập phương
có cạnh 2m5cm.
2. Bài mới:
Bài1:Tính diện tích xung
quanh và diện tích toàn
phần của hình lập phương
có cạnh 2m5cm.
Hệ thống câu hỏi đã đưa
HS vào tình huống có vấn
đề, bắt buộc HS muốn trả
lời câu hỏi phải tư duy
trước, HS phải định hình
được các
Bài toán cho biết gì? Bài
toán hỏi gì? Số đo cạnh
gồm mấy đơn vị đo?
Muốn làm bài ta cần đổi
về cùng một đơn vị đo?
Bài toán cho biết gì? bài
toán hỏi gì? Em có nhận
xét gì về số đo của cạnh?
Để giải bài toán này theo
em việc đầu tiên cần làm
gì? Em hãy nêu các bước
giải bài toán?
bước để giải bài toán
trước khi vào làm bài.
Bài 2: Mảnh bìa nào dưới
đây có thể gấp được một
hình lập phương?
(Hình1)
(Hình 2)
( Hình 3)
( Hình4)
GV đưa mô hình lên bảng
và yêu cầu HS dưới lớp
gấp trên bằng đồ dùng
Bài 2: Mảnh bìa nào dưới
đây có thể gấp được một
hình lập phương?
(Hình1)
(Hình 2)
( Hình 3)
( Hình4)
GV đưa mô hình lên bảng
và yêu cầu HS dưới lớp
gấp trên bằng đồ dùng
HS được thực hành kiến
thức vào thực tế, HS khắc
sâu kiến thức được kiến
thức bài cũ và so sánh
được
kiến thức các bài có liên
quan.
chuẩn bị của HS. chuẩn bị của HS.
GV hỏi củng cố về HLP
có mấy mặt? các mặt có
đặc điểm gì?
Bài 3: Đúng ghi Đ, sai
ghi S
10
cm
A
5cm
B
GV: Yêu cầu HS làm bài
trên giấy nháp, tính kết
quả Sxq và Stp của 2 hình
rồi so sánh và ghi nhận
xét đúng, sai.
a,Sxq của HLP A gấp 2
lần Sxq của HLP B
b,Sxq của HLP A gấp 4
lần Sxq của HLP B
c,Stp của HLP A gấp 2
Bài 3: Đúng ghi Đ, sai
ghi S
10
cm
A
5 cm
B
GV: Yêu cầu HS làm bài
trên giấy nháp, tính kết
quả Sxq và Stp của 2 hình
rồi so sánh và ghi nhận
xét đúng, sai.
a,Sxq của HLP A gấp 2
lần Sxq của HLP B
b,Sxq của HLP A gấp 4
lần Sxq của HLP B
c,Stp của HLP A gấp 2
Hệ thống câu hỏi đã đưa
HS vào tình huống. HS tự
nêu các bước làm, tự tìm
các cách làm. HS so sánh
được cách làm thứ 2 ngắn
gọn bám sát vào công
thức tính Sxq và Stp hình
lập phương.
lần Stp HLP B
d,Stp của HLP A gấp 4
lần Stp của HLP B
lần Stp HLP B
d,Stp của HLP A gấp 4
lần Stp của HLP B
Kết quả giờ daỵ của giáo viên tiết sau có tiến bộ hơn so với tiết dự trước, những
tồn tại mà giáo viên mắc phải trong giờ dạy, sau khi được tôi rút kinh nghiệm một
cách nghiêm túc, thẳng thắn, chỉ ra những chi tiết vướng mắc về nội dung của bài,
phương pháp giảng dạy, các hoạt động của giáo viên và học sinh thì những tiết sau gần
như giáo viên đó không mắc phải. Đó là dấu hiệu đáng mừng bởi những giáo viên đó
còn thiếu kinh nghiệm giảng dạy chứ không phải yếu kém về chuyên môn.
Kết quả dự giờ qua các năm như sau:
Năm Chuyên
môn
Đột
xuât
Chuyên
đề
Thao
giảng
Kiểm
tra toàn
diện
Ghi chủ
2009
-
2010
TS giờ dự 18 7 8 9 12
Tốt 11 3 8 6
Khá 5 2 1 5
Trung bình 4 2 0 2
2010
-
2011
TS giờ dự 26 12 7 12 14
Tốt 16 8 10 6
Khá 6 3 2 6
Trung bình 4 1 0 2
2011
-
2012
TS giờ dự 28 9 11 15 16 5 GV mới
tuyển
Tốt 18 7 13 10
Khá 5 2 2 6
Trung bình 3 0 0 0
Kết luận
1/ Như vậy tiết dạy sau khi rút kinh nghiệm dự giờ:
+ Về phương pháp có nhiều đổi mới giáo viên đã phát huy khả năng học tập của
HS, tạo cho HS một phương pháp độc lập, tự chủ, có ý thức tìm tòi nhiều phương pháp
giải cho một bài toán.
+ Về nội dung giáo viên đã khai thác được kiến thức ở nhiều mức độ khác nhau,
khắc sâu được kiến thức cơ bản, mở rộng cho HS nhiêu cách giải cho một bài toán. Hệ
thống câu hỏi đã đưa HS vào tình huống có vấn đề bắt HS phải tư duy trước khi trả lời,
bắt HS có cái nhìn tổng thể trước khi giải toán
+ Về phong thái: giáo viên tự tin, nhẹ nhàng gần gũi có điều kiện giúp đỡ được
HS yếu mà vẫn phát huy được khả năng của HS khá giỏi
+ Về kết quả học tập của HS: học sinh được làm việc nhiều hơn, học sinh có
nhiều ý tưởng trình bày, tự minhg làm chủ trong các hoạt động học tập của mình, được
khuyến khích trong việc tìm nhiều lời giải cho một bài toán.
2/ Về GV: Sau khi được dự giờ thăm lớp giáo viên đã chủ động nhiều trong tâm
thế lên lớp, giáo viên tự tin và vững vàng về kiến thức, nhuần nhuyễn về phương pháp.
Hạn chế tâm lí ngại đón CBQL dự giờ mà thay vào đó là sự sẵn sàng trao đổi chuyên
môn cùng CBQL.
3/ Về CBQL: Thúc đẩy việc hoạt động chuyên môn trong nhà trường, tạo ra một
phong trào thi đua dạy tốt học tốt, thi đua tiếp cận với cái mới trong công nghệ thông
tin, thi đua áp dụng đổi mới phương pháp dạy học, thi đua có những tiết dạy hay thúc
đẩy được các hoạt động của tổ chuyên môn, thúc đẩy được cá nhân tích cực trong hoạt
động chuyên môn của nhà trường.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
1. Nâng cao nhận thức của đội ngũ cốt cán và toàn bộ giáo viên:
- Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc kiểm tra- đánh giá giờ dạy trên
lớp cho tất cả giáo viên trong trường vì khi mỗi giáo viên có nhận thức tốt thì họ sẽ cố
gắng trong công tác giảng dạy và đi đến sự đánh giá chính công việc của bản thân
mình . Họ sẽ tự cảm thấy những phần còn hạn chế để khắc phục, những mặt mạnh để
phát huy. Do đó CBQL phải tuyên truyền vận động, các buổi học các văn bản của
ngành và các buổi hội thảo về đổi mới phương pháp.
- Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc đánh giá giờ dạy trên lớp cho
đội ngũ cốt cán, cho mọi giáo viên qua tuyên truyền, qua học tập các văn bản.
- Nâng cao chất lượng giáo viên bằng cách:
+ Tạo điều kiện tối đa về vật chất và tinh thần cho mọi giáo viên được làm việc
tốt nhất.
+ Tạo điều kiện cho giáo viên được đi học các lớp năng cao văn hoá, nghiệp vụ sư
phạm ngắn hạn và dài hạn tiến tới chuẩn hoá về trình độ Cao Đẳng, Đại Học Tiểu học.
+ Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cốt cán(Tổ trưởng, khối trưởng, phó hiệu trưởng,…) để họ làm
tốt việc đánh giá giờ dạy trên lớp.
2. Nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ của CBQL:
Trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang thay đổi chương trình sách giáo khoa
cho ngành giáo dục nói chung và bậc tiểu học nói riêng. Muốn thực hiện vấn đề trên
thì trước tiên người CBQL phải có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng có như vậy mới