Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng nói - viết đạt hiệu quả trong phân môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.71 KB, 10 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ RÈN KỸ NĂNG NÓI-VIẾT ĐẠT HIỆU QUẢ
TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 2
A. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đổi mới chương trình giáo dục từ lớp 1 đến lớp 5 quả là vấn đề rất quan trọng vì các
kiến thức được tích hợp, tinh giản chú trọng nhiều đến khả năng giao tiếp của học sinh.
Chương trình Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 gồm các bài học thuộc 6 phân môn: Tập đọc, Kể
chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn. Trong các phân môn nói trên,
Tập làm văn là phân môn có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học. Khi thực
hiện chương trình mới, tôi thấy tâm đắc nhất là phân môn "Tập làm văn" mà các giáo viên
đang trực tiếp giảng dạy. Vì phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc
hoàn thiện và nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, đặc biệt là kỹ năng sản sinh văn
học (văn bản nói và văn bản viết) cho học sinh Tiểu học. Như vậy, nói rằng phân môn Tập
làm văn góp phần to lớn trong việc hiện đại hoá mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy
và học Tiếng Việt ở Tiểu học là hình thành, phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt để học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng đắn, tự nhiên, tự tin
trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Là một cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn nên tôi rất quan tâm đến việc giúp các em tự
tin học tốt phân môn Tập làm văn. Chính vì thế mà tôi chọn nghiên cứu và thực nghiệm đề
tài “Một số biện pháp để rèn kỹ năng nói- viết đạt hiệu quả trong phân môn tập làm văn
lớp 2”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
1
Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này, nhằm:
- Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (như
nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi.
- Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc,
bồi dưỡng tình cảm lành mạnh, tốt đẹp thông qua nội dung bài dạy.
- Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy,
từ đó giúp học sinh chiếm lĩnh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.


- Góp phần nâng cao chất lượng dạy phân môn Tập làm văn.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. Cơ sở lý luận:
Phân môn Tập làm văn có tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, sử
dụng toàn bộ các kỹ năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác của môn
Tiếng Việt đảm nhiệm (kỹ năng đọc, nghe nói, viết chữ, viết chính tả, dùng từ đặt câu ).
Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động với kiến thức nhiều mặt (Từ hiểu biết về cuộc
sống đến tri thức về văn học, khoa học thường thức ) có liên quan đến đề bài.
Bài Tập làm văn là sản phẩm tổng hợp của vốn sống, vốn văn học, năng lực tư duy,
năng lực giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo của cá nhân học
sinh. Qua bài Tập làm văn (kết quả học tập phân môn Tập làm văn) ta sẽ thấy được trình độ
sử dụng Tiếng Việt, những tri thức và hiểu biết về cuộc sống của học sinh.
Là môn học công cụ, phân môn Tập làm văn lớp 2 giúp cho học sinh nắm vững đơn
vị tri thức cơ bản của khoa học Việt ngữ. Trên cơ sở hình thành kỹ năng: nghe, nói, đọc,
viết đạt đến trình độ đúng, tạo điều kiện học sinh nắm được tri thức khoa học mới. Vì vậy,
2
dạy học sinh tiếp thu được chương trình mới, kiến thức Tập làm văn là góp phần không nhỏ
vào việc hình thành mục tiêu giáo dục và đào tạo.
2. Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2012 – 2013, tôi được phân công phụ trách chuyên môn khối 1,2,3 trường
Tiểu học Biển Bạch Tây – Thới Bình – Cà Mau. Các khối lớp do tôi phụ trách có tổng số là
244 học sinh trong đó có 112 học sinh nữ. Trong năm học, tôi nhận thấy có những thuận lợi
và gặp những khó khăn như sau:
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và các cấp chính quyền địa phương.
- Các giáo viên giảng dạy đã nhiều năm nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ
nhiệm.Đồng thời cũng tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn.
- Cơ sở vật chất cũng như đồ dùng dạy học cũng được nhà trường trang bị tương đối
đầy đủ phục vụ cho việc dạy và học.
- Sách vở và đồ dùng học tập của học sinh được phụ huynh mua sắm đầy đủ.

* Khó khăn:
- Học sinh trường Tiểu học Biển Bạch Tây – Thới Bình – Cà Mau thuộc vùng sâu,
vùng xa của huyện Thới Bình ít nhiều còn khó khăn về điều kiện học tập.
- Phụ huynh đa số là nông dân ít có điều kiện quan tâm đến việc học tập sinh hoạt
của con em.
- Môi trường sống ở vùng sâu, xa ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu kiến thức
của trẻ .
- Là lớp đầu cấp (sau lớp 1) nên các em còn hạn chế khả năng giao tiếp, ngôn ngữ
còn hạn hẹp về vốn từ.
3
B. PHẦN THỨ HAI :GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI DẠY PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
1.Về phía học sinh :
* Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tòi sưu tầm những tài liệu phục vụ cho
kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có thể đưa
bài văn vào viết.
* Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh.
* Học sinh chỉ quan tâm đến những sở thích không phục vụ cho môn học như: đọc
sách báo, truyện tranh nhảm nhí, chơi điện tử, xem phim ảnh không phù hợp với lứa tuổi
nên vốn văn học rất hạn chế.
2/ Về phía giáo viên:
• Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập Làm Văn: Lập dàn bài
rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau về ý tưởng, nội dung.
• Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý hay,
tai hại thay một số giáo viên cho học sinh thuộc những bài văn mẫu điều đó đã làm mất đi
sự sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của học sinh.
• Giáo viên chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình thức tổ
chức dạy học đơn điệu: giáo viên hỏi - học sinh trả lời, chỉ những em khá giỏi mới có thể
tham gia trả lời còn những học sinh trung bình hoặc yếu thì cảm thấy lo sợ nếu bị gọi đến
tên! Từ đó, học sinh cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú học tập.

• Chưa xử lí kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên đánh giá
chưa đúng ý kiến của học sinh.
4
Trên đây là những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều giáo viên khi dạy Tập làm văn.
Thế thì làm thế nào để khắc phục hiện trạng trên. Bản thân tôi sau nhiều lần thực nghiệm tại
các lớp thấy rất khả thi.
II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1/ Đối với giáo viên;
a.Dạy học sinh nắm bắt được kiến thức được tốt, cần tìm hiểu kỹ nội dung chương
trình:
Lớp 2: Số tiết: 1 tiết/tuần; cả năm 31 bài, 31 tiết.
Nội dung:
- Thực hành về một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, như: viết
tự thuật, lập danh sách tổ, lập mục lục, lập thời gian biểu, gọi điện, viết nhắt tin, bưu thiếp
- Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu, như: Học sinh được học cách
chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, khẳng định, phủ định, mời, nhờ, đềnghị, chia
vui, chia buồn, an ủi, thể hiện sự đồng ý, không đồng ý, ngạc nhiên, thán phục, cáp đáp
lại lời chào, lời tự giới thiệu , lời cảm ơn, xin lỗi qua các hình thức đọc thoại và hội
thoại trong các tình huống giao tiếp đơn giản trong gia đình, trường học.
- Thực hành, rèn luyện về kỹ năng diễn đạt ( nói, viết ), như: kể về người thân
trong gia đình, sự vật hay sự việc được chứng kiến, tả sơ lược về người, vật xung quanh
theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi…
- Thực hành rèn luyện về kỹ năng nghe: dựa vào câu hỏi gợi ý để kể lại hoặc nêu
được ý chính của mẫu chuyện ngắn đã nghe.
b. Để thực hiện tốt những nội dung chương trình phân môn Tập làm văn lớp 2,
tôi đã thực hiện như sau:
5
Người giáo viên có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với học
sinh vì họ là những người chủ đạo tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, chính vì thế
bản thân người giáo viên cần phải :

- Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cao trình độ bản thân và nâng cao tay
nghề.
- Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp.
- Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng dạy
bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh khi các em phát biểu để tìm ra ưu khuyết
điểm chính của các em, sau đó nhận xét sửa chữa, góp ý đánh giá.
- Giáo viên cũng cần rèn cho học sinh kĩ năng nhận xét bài của bạn để từ đó nhận
biết được những chỗ hay hoặc chưa hay trong làm bài của mình Điều này vừa động viên
được những em làm bài hay, vừa khơi dậy cho học sinh những ý tưởng, sáng tạo mới. Học
sinh cảm thấy có thêm nguồn động lực để thi đua học tập, để bài của mình được cô và các
bạn đọc trước lớp. Bên cạnh đó những hạn chế trong bài làm của học sinh, giáo viên cũng
cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không dùng những câu đại loại: ý nghèo nàn quá, bài
chưa đủ ý, bài yếu hoặc em không có chuẩn bị bài sao Điều đó sẽ làm cho các em thiếu tự
tin khi phát biểu. Người giáo viên cần thận trọng, trước tiên cần tìm cho bằng được những
ưu điểm trong bài làm của học sinh dù chỉ nhỏ nhoi để tuyên dương trước lớp rồi từ từ cho
các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn hay hơn, hoàn chỉnh hơn.
-Người giáo viên cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều học
sinh cùng được tham gia trình bày ý kiến của mình, như: Tổ chức học chung toàn lớp; Tổ
chức học theo nhóm (tổ chức lớp thành viên nhiều nhóm, các nhóm cùng đóng vai, trao đổi
bàn bạc để thực hiện nội dung bài học); Tổ chức để từng cá nhân làm việc độc lập nhằm thực
hiện nhiệm vụ học tập.
6
2. Đối với học sinh:
- Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Cụ thể hố những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách tự lập
một hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với u cầu của chủ đề.
- Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình.
- Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thơng tin bổ sung
cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khn theo bài mẫu.
PHẦN THỨ BA : KẾT QUẢ VÀ VIỆC PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG VÀO

THỰC TIỄN
1. Kết quả:
Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho
học sinh, giáo viên tơi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân mơn này. Thành tích học tập
của các em cao hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn.
Bảng thống kê dưới đây đã chứng minh được điều đó:


Tổng số
học sinh
Giỏi
(9 – 10)
Khá
(7 – 8)
Trung bình
(5 – 6)
Dưới
Trung bình
(1 - 4)
Giữa HKI 82 22,0 34,1 32,9 11,0
Cuối HKI 81 24,7 42,0 29,6 3,7
Giữa HKI 81 39,5 40,7 17,3 2,5
Qua thời gian thực học, giáo viên và học sinh đã được rèn giũa và thực hành qua
các tiết dạy Tập làm văn. Tơi thấy kết quả đạt được rất khả quan, học sinh tự làm bài tập, tự
7
Thời
gian
Điểm
chiếm lĩnh tri thức qua hình thức tổ chức dạy học của giáo viên, các em làm việc rất hào
hứng, thành thạo với mỗi bài, mức độ yêu cầu khác nhau. Tôi đã nắm được vấn đề cơ bản

của chương trình về nội dung đổi mới phương pháp, kiến thức, kỹ năng trong giảng dạy
phân môn Tập làm văn. Chính vì thế kết quả học tập của các em không ngừng đi lên.
Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho đồng nghiệp
gỡ rối trong công tác giảng dạy của mình (nhất là với phân môn Tập làm văn).
2.Bài học kinh nghiệm:
Muốn đạt kết quả cao trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 nói
riêng và phân môn Tập làm văn các lớp khác nói chung không phải là khó song cũng
không đơn giản một chút nào. Trong quá trình đó, tôi đã rút ra được một vài kinh nghiệm
để dạy tốt phân môn Tập làm văn như sau:
- Giáo viên cần đặc biệt chú ý sử dụng phối hợp tốt phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học phù hợp với trình độ học sinh, phù hợp với yêu cầu từng loại bài sao cho tiết
học được tổ chức thành chuỗi hoạt động sôi nổi, nhẹ nhàng, nhằm lôi cuốn học sinh tham
gia thực hành luyện tập các kỹ năng.
- Giáo viên luôn học hỏi các đồng chí đồng nghiệp, đọc thêm tài liệu để nâng cao
chất lượng dạy và học theo phương pháp đổi mới.
- Người giáo viên phải là người mẫu mực trong mọi giao tiếp, cử chỉ là tiếng nói
chuẩn mực để học sinh học tập.
- Thường xuyên trao đổi phụ huynh để thông báo và cùng bàn bạc khắc phục những
nhược điểm của học sinh.
8
- Tập trung đầu tư nghiên cứu soạn giảng các tiết dạy, áp dụng những sáng kiến kinh
ngiệm của đồng chí, đồng nghiệp vào bài dạy, sử dụng các tài liệu, đồ dùng dạy học phù
hợp, sinh động nhằm kích thích học sinh học tập.
- Tạo mối quan hệ giữa thầy và trò, quan tâm, yêu thương, gần gũi với các em, hiểu
biết về tâm sinh lý trẻ, tận tình giúp đỡ, hướng dẫn các em nhằm tạo động lực giúp các em
hoàn thành mục tiêu của bài học (nhất là học sinh yếu kém).
- Dạy học phân môn Tập làm văn nên lồng ghép, tích hợp với các môn học khác để
mở rộng thế giới kiến thức cho học sinh và vừa có tính ôn tập vừa cung cấp thêm cho các
em vốn kiến thức để hỗ trợ đắc lực cho phân môn Tập làm văn.
3. Hướng phổ biến áp dụng của đề tài:

Qua việc áp dụng đề tài“Một số biện pháp để rèn kỹ năng nói- viết đạt hiệu quả trong
phân môn tập làm văn lớp 2” tôi thấy chất lượng tăng lên rõ rệt, chỉ còn một học sinh
yếu. Từ đó tôi thấy nội dung đề tài này có thể áp dụng cho tất cả học sinh khối 2,3 của
Trường Tiểu học Biển Bạch Tây.
Tôi đã mạnh dạn đề nghị các khối 2,3 mở chuyên đề để triển khai và áp dụng những
biện pháp trên và đã thu được kết quả khả thi.
4.Hướng nghiên cứu tiếp của đề tài:
Những năm tiếp theo tôi sẽ nghiên cứu tiếp đề tài này để giúp họcsinh học tốt hơn nữa.
Bên cạnh đó, tôi sẽ tích lũy, nghiên cứu tiếp một số kinh nghiệm mới không những giúp
học sinh nắm chắc kiến thức mà còn thành thạo hơn khi thực hiện nói - viết trong phân
môn tập làm văn.
Kinh nghiệm“Một số biện pháp để rèn kỹ năng nói- viết đạt hiệu quả trong phân
môn tập làm văn lớp 2” chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự
đóng góp chân thành của quý thầy cô.
9
Biển Bạch, ngày 15 tháng 03 năm 2012
Người viết
Phạm Thị Bích Huế
10

×