Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ kể chuyện qua việc tổ chức cho học sinh sắm vai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.38 KB, 25 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ KỂ CHUYỆN
QUA VIỆC TỔ CHỨC CHO HỌC SINH SẮM VAI”
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Nhiều nhà chuyên môn cho rằng bậc Tiểu học là bậc học kĩ năng và bậc Tiểu học ở
bất cứ quốc gia nào cũng vậy, cũng phải hình thành cho sinh kĩ năng cơ bản tối thiểu và
đặc trưng nhất, đó là kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ; nghe, nói, đọc, viết, những kĩ năng
được hình thành trên cơ sở tư duy phát triển, và ngược lại nhờ có kĩ năng cơ bản đó mà
học sinh tiếp tục học tập tốt hơn, tạo được bước phát triển cao hơn.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Nhà trường Tiểu học là cái nôi cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học, kĩ năng,
kĩ xảo cần thiết, giúp các em hình thành và phát triển nhân cách.
Ở trường Tiểu học, Kể chuyện là một môn học lý thú, hấp dẫn đối với học sinh.
Tiết Kể chuyện thường được các em chờ đón và tiếp thu bằng một tâm trạng hào hứng.
Khác hẳn với những tiết học khác, ở tiết học kể chuyện, giáo viên và các em học sinh hầu
như thoát li hẳn sách vở, giao hoà tình cảm một cách hồn nhiên thông qua những nội
dung câu chuyện được kể, thông qua lời kể của giáo viên và lời kể lại của học sinh. Gần
như mối quan hệ thầy trò mới được xác lập giữa một không khí mới, không khí của lòng
vị tha và nhân ái.
Mục đích của phân môn kể chuyện là đem lại niềm vui cho học sinh, giáo dục cho
các em tư tưởng, tình cảm lành mạnh, cung cấp cho các em vốn hiểu biết về Văn, Tiếng
Việt. Kể chuyện còn có mục đích luyện ngôn ngữ nói và kể trước đám đông một cách có
nghệ thuật, góp phần khêu gợi tư duy hình tượng cho trẻ.
Phân môn Kể chuyện cung cấp cho học sinh những tri thức về tự nhiên và xã hội,
rèn cho các em một số kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc học tập cũng như cho cuộc
sống, hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức cao đẹp.
Kể chuyện có sức hấp dẫn, có vai trò quan trọng như vậy nhưng rất tiếc,thực tế hiện
nay một số không ít giáo viên vẫn còn coi nhẹ, chưa dành thời gian xứng đáng cho tiết
dạy kể chuyện. Một số giáo viên cho rằng kể chuyện phụ thuộc nhiều vào năng khiếu. Ai
có năng khiếu, người đó sẽ dạy giỏi. Ai không có năng khiếu thì có cố gắng mấy cũng


không thể thành công Từ những nhận thức đó của giáo viên đã dẫn đến chất lượng giờ
Kể chuyện còn hạn chế.
Với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển nhân cách cho
các em học sinh, đồng thời nâng cao năng lực sư phạm của bản thân, tôi đã mạnh dạn
chọn phân môn Kể chuyện để nghiên cứu. Đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài “Tạo
hứng thú cho học sinh Tiểu học trong giờ Kể chuyện qua việc tổ chức cho học sinh sắm
vai”.
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi :
- Hiện nay đã có nhiều nguồn thông tin, sách báo để GV tham khảo, nghiên cứu, tự
học để nâng cao tay nghề. Nội dung chương trình đã được lựa chọn biên soạn phù hợp
với HS lớp năm giúp các em dễ dàng tiếp cận và ham thích phân môn kể chuyện.
- Luôn được sự quan tâm của BGH nhà trường, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho GV
và HS về cơ sở vật chất. Đồ dùng dạy học cũng được trang bị tương đối đầy đủ.
- Luôn được sự ủng hộ giúp đỡ của đồng nghiệp, nhất là anh chị em trong khối 5
- Bản thân đã dạy lớp năm nhiều năm cũng có chút ít kinh nghiệm trong giảng dạy.
- Học sinh là lớp học hai buổi vì thế việc đưa hoạt động thực hành sắm vai kể chuyện
là một thuận lợi, từ đó giúp các em học tập tốt hơn.
- Học sinh đã có ý thức học tập, ham học hỏi, chuyên cần.
2. Khó khăn :
- Thực tế hiện nay còn có một số giáo viên chưa xem trọng giờ kể chuyện trên lớp,
nên chưa có sự đầu tư đúng mức cho tiết dạy.Trong giờ kể chuyện nhiều giáo viên chỉ
chú trọng cho học sinh tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của câu chuyện, mới chỉ dừng lại ở
mức yêu cầu học sinh đọc thuộc lòng truyện mà ít chú ý đến việc rèn luyện cho học sinh
kỹ năng kể chuyện bằng ngôn ngữ của mình.
- Sỉ số HS ở lớp tương đối đông, một số học sinh là người dân tộc Hoa nên việc kể
chuyện bằng ngôn ngữ của mình cũng như cách diễn đạt qua từng vai của nhân vật trong
truyện vẫn còn hạn chế.
- Thư viện chưa có nhiều sách báo để tham khảo làm tốt đề tài nghiên cứu.Thời gian
chưa nhiều để nghiên cứu kỹ và tốt hơn.

3. Số liệu thống kê:
- Thực trạng cho thấy, đầu năm học khi tôi nhận lớp, chỉ có hơn một nửa học sinh
(khoảng 60 % học sinh) hứng thú thích được kể chuyện cho thầy cô giáo và các bạn nghe
và sắm vai trong giờ kể chuyện. Số còn lại không thích tự mình kể chuyện mà chỉ thích
nghe người khác kể chuyện cho nghe.
- Trước khi thực hiện đề tài này, trong lớp có:
+ 25 /43 HS hứng thú thích kể chuyện và kể lại được toàn câu chuyện có thể hiện cảm
xúc. ( 58,1% )
+ 12 /43 HS thích nghe kể và kể được vài đoạn trong câu chuyện ( 27,9%)
+ 6/43 HS kể lại được vài chi tiết trong câu chuyện ( 14%)
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1. Kể chuyện là gì?
- Kể chuyện là cách dùng ngôn ngữ biểu cảm sinh động của người kể làm sống
lại câu chuyện. Cần phân biệt hai hình thức đọc truyện và kể chuyện.
- Đọc truyện: Yêu cầu người đọc trung thành với văn bản, dùng giọng đọc của
mình truyền đạt chính xác đến người nghe từ nội dung đến ngôn từ của một tác phẩm
truyện.
- Kể chuyện là cách người kể dùng lời nói, ngôn từ của mình để truyền tới người
nghe nội dung của một tác phẩm truyện. Kể chuyện không yêu cầu người kể phải trung
thành tuyệt đối với văn bản mà trong quá trình kể, người kể có thể thêm bớt sàng lọc
cũng như thể hiện thái độ, tình cảm của bản thân.
Trong phạm vi đề tài này, Kể chuyện còn là tên gọi của một phân môn Tiếng Việt
ở tiểu học.
1.2. Vai trò của kể chuyện trong cuộc sống.
Nhờ có tiếng nói và lao động mà con người đã thoát hẳn đời sống loài vật, vươn
lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Dưới thời kỳ nguyên thuỷ, bầy
người nguyên thuỷ quây quanh đám lửa nướng thịt thú rừng, nướng quả hạt, thường kể
những câu chuyện săn bắn, hái lượm cho nhau nghe. Đó cũng là khởi đầu của sự tích luỹ
tri thức khoa học và kể chuyện ở đây mang chức năng thông tin. Khi ngôn ngữ ngày càng

phát triển, khối lượng từ ngày càng tăng thêm, đời sống vật chất và tinh thần ngày một
phong phú thì kể chuyện không chỉ dừng ở mức độ thông tin nữa mà mang thêm chức
năng giải trí hay cao hơn nữa là chức năng nghệ thuật. Nhờ vậy mà kho tàng truyện cổ
dân gian hết sức giàu có và đa dạng được truyền lại đến ngày nay băng hình thức kể
chuyện. Trải qua 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam sở dĩ bảo toàn được bản lĩnh và
bản sắc dân tộc độc đáo, không bị phong kiến phương Bắc xâm lược đồng hoá, thôn tính,
một phần là nhờ ở hùng khí của những câu chuyện cổ
Trong một thời gian lịch sử lâu dài khi chưa có văn tự để ghi chép thì kể chuyện là
một hình thức chiếm địa vị độc tôn. Khi đã có văn tự ghi chép, in ấn rồi thì kể chuyện vẫn
tồn tại và phát triển song song với sự phát triển của văn tự. Trong xã hội hiện đại ngày
nay, kể chuyện và nghe kể chuyện vẫn là một nhu cầu không thể thiếu của mỗi người nói
riêng và của cuộc sống nói chung.
2. Vị trí, nhiệm vụ của việc dạy kể chuyện ở Tiểu học.
2.1. Vị trí.
Phân môn Kể chuyện có một vị trí quan trọng được xếp liền ngay sau phân môn
Tập đọc, Học thuộc lòng của bộ môn Tiếng Việt. Do ranh giới nằm giữa Tiếng Việt và
Văn học nên kể chuyện vừa thuộc phạm trù ngôn ngữ Tiếng Việt, vừa thuộc phạm trù
hình tượng nghệ thuật văn chương.Theo quy định của chương trình Tiểu học, mỗi tuần có
một tiết Kể chuyện, thời gian mỗi tiết là 40 phút.Về nội dung chương trình từng lớp đều
xác định rõ yêu cầu về nội dung truyện, yêu cầu về phương pháp thể hiện, yêu cầu về rèn
luyện kỹ năng.
Với vị trí này, phân môn Kể chuyện đã có chỗ đứng xứng đáng trong chương trình
các lớp Tiểu học.
2.2. Nhiệm vụ.
a. Giờ Kể chuyện có liên quan đến nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ em, góp phần
hình thành nhân cách, đem lại những cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh cho tâm hồn học sinh.
Thích nghe kể chuyện là một đặc điểm của trẻ em. Từ thủa hai, ba tuổi trẻ em đã
say mê nghe kể chuyện. Nhiều người không bao giờ quên những kỷ niệm về các buổi tối
nghe kể chuyệm. Puskin từng tâm sự: “Buổi tối, tôi nghe kể chuyện cổ tích và lấy việc đó
bù đắp những thiếu sót trong sự giáo dục đáng nguyền rủa của mình. Mỗi truyện cổ tích

ấy mới đẹp làm sao, mỗi truyện là một bài ca”. Lớn lên các em đi học, biết chữ, có thể
đọc được truyện nhưng vẫn không giảm hứng thú nghe kể chuyện. Phân môn Kể chuyện
trong chương trình Tiểu học trước tiên đáp ứng yêu cầu trên của trẻ.
Kể chuyện có sức mạnh riêng trong việc giáo dục trẻ. Sức mạnh này bắt nguồn từ
sức mạnh của công cụ mà phân môn kể chuyện sử dụng, đó là tác phẩm văn học nghệ
thuật giáo viên dùng để kể trong lớp. Các tác phẩm văn học có tác dụng lớn đến tâm hồn
và cảm xúc của trẻ em, đem lại những cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh.
b. Giờ kể chuyện góp phần tích luỹ vốn văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ em.
Giờ kể chuyện giúp cho trẻ sớm tiếp xúc với tác phẩm văn học. Suốt 5 năm ở bậc
Tiểu học, học sinh được nghe và tham gia kể hàng trăm câu chuyện với đủ thể loại, gồm
tác phẩm có giá trị của Việt Nam và thế giới, từ truyện cổ tích đến hiện đại. Do đó vốn
văn học của học sinh được tích luỹ dần. Đây là những hành trang quý sẽ theo nhiều em
trong suốt cuộc đời mình.
Giờ Kể chuyện còn mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng cho các em.
Qua từng câu chuyện, thế giới muôn màu sắc mở rộng trước các em. Các em gặp trong đó
từ phong tục tập quán đến cảnh sắc thiên nhiên, từ cách phục trang đến kiến trúc nhà ở,
và đặc biệt là cách cư xử của con người trong muôn vàn trường hợp khác nhau Nói
cách khác, các truyện kể đã làm tăng thêm cho học sinh vốn hiểu biết về thế giới và xã
hội loài người xưa và nay.
Các truyện kể còn chắp cánh cho trí tưởng tượng của học sinh bay bổng. Cùng với
lí tưởng, óc tưởng tượng là bệ phóng cho những hoài bão, ước mơ cao đẹp khi các em
bước vào cuộc sống, bệ phóng cho sự sáng tạo. Lê Nin cho rằng, “Thật là bất công nếu
nghĩ rằng óc tưởng tượng chỉ cần thiết cho người làm thơ, ngay cả trong toán học cũng
cần có tưởng tượng, ngay cả việc phát minh ra phép tính vi phân và tích phân cũng sẽ
không thể nào có được nếu thiếu óc tưởng tượng. Óc tưởng tượng là phẩm chất quí giá vô
cùng”.
2.3. Giờ kể chuyện góp phần rèn luyện và phát triển kỹ năng nói và kể trước đám đông
một cách có nghệ thuật, góp phần khêu gợi tư duy của trẻ.
Sống với các nhân vật trong truyện, tư duy hình tượng của trẻ được khêu gợi và có
điều kiện phát triển cùng với cảm xúc thẩm mỹ. Qua từng câu chuyện, các em biết giá trị

của từng chi tiết, thấm thía với từng hình ảnh nghệ thuật, từng nhân vật Do đó kể
chuyện là miếng đất màu mỡ để trên đó tư duy hình tượng học sinh phát triển.
Mặt khác giờ Kể chuyện phát triển ngôn ngữ nói của học sinh. Điều đáng chú ý,
đây là cách nói trước đám đông một cách nghệ thuật. Cần phải rèn luyện để nắm được thủ
pháp hấp dẫn người nghe, để có thể điều khiển được giọng kể hợp với diễn biến từng
loại truyện khác nhau. Có thể nói, ngôn ngữ nói được rèn luyện trong giờ kể chuyện
hướng tới phong cách nghệ thuật.
3.Cơ sở thực tiễn
- Những quan điểm của giáo viên và học sinh về phân môn Kể chuyện.
3.1. Học sinh:
Học sinh lớp tôi phụ trách là lớp hai buổi. Với điều kiện và môi trường học tập ở
lớp hai buổi thì việc đưa hoạt động sắm vai kể chuyện là một thuận lợi. Hầu hết các em
HS đều được cha mẹ quan tâm, các em được tiếp xúc với môi trường học tập khá tốt; từ
gia đình đến lớp học cũng như việc tham gia các hoạt động của nhà trường- Đội TNTP,
lứa tuổi các em cũng rất hiếu động, thích tìm hiểu, thích khám phá.Và người giáo viên
với phương pháp dạy học tích cực hiện nay cũng là một phương tiện giúp học sinh thực
hành sắm vai khi kể chuyện. Hội tụ những yếu tố này, tôi nghĩ là các em rất thích được
sắm vai để thể hiện câu chuyện, thể hiện mình.Nếu có hoạt động thực hành sắm vai kể
chuyện, học sinh có thể nắm nội dung, thuộc lời kể và ghi nhớ một cách dễ dàng câu
chuyện đã được nghe.
Bằng phương pháp điều tra, tiếp xúc với các em học sinh tôi đã phần nào nắm được
cái nhìn và thái độ của học sinh hiện nay về phân môn kể chuyện.
Khi được hỏi “Em có thích phân môn kể chuyện không?”Đa số học sinh rất ưa thích phân
môn Kể chuyện.
- Tìm hiểu lý do học sinh yêu thích phân môn này, tôi nắm được một số lý do sau:
- Phần lớn học sinh Tiểu học thích phân môn Kể chuyện vì trong các truyện có
nhiều điều lý thú, phù hợp với tâm lý lứa tuổi, có tác dụng giáo dục đối với các em.
- Ngoài ra, các em học sinh còn yêu thích phân môn Kể chuyện vì các lý do khác
như: Trong truyện có những nhân vật em thích, những nhân vật quen thuộc với các em từ
nhỏ, truyện giúp các em giải trí.

Như vậy học sinh Tiểu học nhìn chung đã nhận thức đúng tác dụng của phân môn
Kể chuyện đối với bản thân. Đa số học sinh đều nắm được những điều tốt đẹp mà các câu
chuyện muốn gửi gắm tới các em.
Khi được hỏi: “Em thích nghe thầy cô giáo kể chuyện hay nghe thầy cô giáo đọc
truyện” 100% học sinh đều trả lời: “ Em thích nghe thầy cô giáo kể chuyện”. Điều này
chứng tỏ học sinh Tiểu học rất hứng thú nghe thầy cô giáo kể chuyện hơn là nghe thầy cô
giáo cầm sách đọc laị truyện.
Một điều đáng chú ý là khi điều tra về nhu cầu, hứng thú kể chuyện và hoạt động
sắm vai trong giờ Kể chuyện thì phần đa số học sinh được điều tra thích được kể chuyện
cho thầy cô giáo và các bạn nghe và cũng thích sắm vai kể chuyện. Số còn lại không
thích tự mình kể chuyện mà chỉ thích nghe người khác kể chuyện cho nghe mà thôi.
3.2. Giáo viên.
Khi đã tiến hành thăm dò ý kiến một số giáo viên ở trường Tiểu học Trưng Vương,
tôi đã thu được những kết quả sau:
- Đa số giáo viên được điều tra trả lời phân môn Kể chuyện có vai trò giáo dục rất
quan trọng đối với học sinh tiểu học.
- Không có giáo viên nào cho rằng phân môn Kể chuyện không có tác dụng đối với
học sinh tiểu học.
- 100% giáo viên được phỏng vấn đều cho rằng hoạt động sắm vai gây được hứng
thú cho học sinh trong giờ học kể chuyên, giúp các em nhanh chóng nắm được nội dung
truyện (nhưng khó áp dụng đại trà trên diện rộng ở tất cả các khối lớp)
Tuy nhiên đây không phải là phân môn được đưa vào để thi như các phân môn: Tập
đọc, Luyện từ & câu, Tập làm văn, nên ít được giáo viên chú trọng đầu tư giảng dạy.
4. Thực trạng việc giảng dạy và kể chuyện ở trường Tiểu học.
4.1. Nội dung chương trình và yêu cầu cần đạt khi dạy phân môn kể chuyện lớp 5
- Nội dung chương trình: 1tiết/1tuần, cả năm gồm 35 tiết, trong đó có 31 tiết kể chuyện
và 4 tiết ôn tập.
Như vậy chương trình kể chuyện lớp 5 có 31 câu chuyện được chia ra thành 3 kiểu
bài tập:
a.Bài tập nghe- kể gồm 10 câu chuyện.

Đó là các truyện:
+ Lý Tự Trọng.
+ Tiếng Vĩ Cầm ở Mỹ Lai.
+ Cây cỏ nước Nam.
+ Pa- Xtơ và em Bé.
+ Chiếc đồng hồ.
+ Ông Nguyễn Khoa Đăng.
+ Người đi săn và con nai.
+ Vì muôn dân.
+ Lớp trưởng lớp tôi.
+ Nhà vô địch.
- Nội dung cần đạt: GV kể -HS nghe- HS kể lại.
- Mục đích: Rèn kĩ năng nói và kĩ năng nghe.
b.Bài tập kể chuyện đã nghe, đã đọc gồm 11 câu chuyện.
Đó là các đề bài:
+ Kể về các anh hùng, danh nhân của nước ta.
+ Kể về một câu chuyện ca ngợi hoà bình, chống chiến tranh.
+ Kể một câu chuyện nói về quan hệ giữa con người với thiên nhiên.
+ Kể một câu chuyện có nội dung bảo vệ môi trường.
+ Kể một câu chuyện nói về những người đã góp sức mình chống lại đói nghèo, lạc
hậu, vì hạnh phúc của nhân dân.
+ Kể về những ngời biết sống đẹp, biết mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho
những người xung quanh.
+ Kể về những tấm gương sống, làm việc theo pháp luật, theo nếp sống văn minh.
+ Kể về những người đã góp sức mình bảo vệ trật tự, an ninh.
+ Kể về truyền thống hiếu học hoặc truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
+ Kể về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài.
+ Kể về gia đình, nhà trường và xã hội chăm sóc, giáo dục trẻ em hoặc trẻ em thực
hiện bổn phận với gia đình, nhà trường và xã hội.
c.Bài tập kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia gồm 10 câu chuyện.

Đó là các đề bài:
+ Kể việc làm tốt góp phần xây dựng quê hương đất nước.
+ Kể một câu chuyện em đã chứng kiến hoặc một việc em đã làm thể hiện tình hữu
nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
+ Kể chuyện về một lần em được đi thăm cảnh đẹp ở địa phương em hoặc ở nơi
khác.
+ Kể một việc làm tốt của em hoặc của những người xung quanh để bảo vệ môi
trường.
+ Kể về một buổi sum họp đầm ấm trong gia đình.
+ Kể một câu chuyện thể hiện ý thức bảo vệ các công trình công cộng, di tích lịch
sử- văn hoá, ý thức chấp hành Luật Giao thông hoặc một việc làm thể hiện lòng biết ơn
các thương binh liệt sĩ.
+ Kể một việc làm tốt của bạn em.
+ Kể một việc làm tốt góp phần bảo vệ trật tự, an toàn nơi làng xóm, phố phường.
+ Kể một chuyện nói lên truyền thống tôn sư trọng đạo của người Việt Nam hoặc
một kĩ niệm về thầy giáo, cô giáo.
+ Kể một chuyện về việc gia đình, nhà trường hoặc xã hội chăm sóc, bảo vệ thiếu
nhi hoặc em cùng các bạn làm công tác xã hội.
4.2. Quy trình dạy học phân môn kể chuyện hiện nay.
- Có hai quy trình cho 3 dạng bài tập kể chuyện trên
* Dạy bài nghe- kể
a. Kiểm tra bài cũ
b. Định hướng chú ý của HS vào bài mới: GV giới thiệu chuyện bằng lời hoặc bằng lời
kết hợp đồ dùng trực quan hoặc băng hình.
c. HS nghe kể chuyện
- GV kể lần 1, HS nghe.
- GV kể lần 2, vừa kể vừa chỉ vào tranh, HS kết hợp nhìn hình minh hoạ.
d. HS tập kể chuyện
- Kể từng đoạn nối tiếp nhau trong nhóm.
- Kể toàn bộ câu chuyện trong nhóm.

- Thi kể từng đoạn nối tiếp nhau trước lớp.
- Thi kể toàn bộ câu chuyện trước lớp.
e. HS tìm hiểu nội dung, ý nghĩa câu chuyện
- Nói về nhân vật chính.
- Nói về ý nghĩa câu chuyện.
g. Củng cố, dặn dò
* Dạy bài kể chuyện đã nghe, đã đọc; đã chứng kiến hoặc tham gia
a. Kiểm tra bài cũ
b. Định hướng chú ý của HS vào bài mới.
- GV giới thiệu yêu cầu kể chuyện của tiết học
c. HS tìm những ví dụ phù hợp với yêu cầu của tiết học ( theo gợi ý trong SGK)
d. HS tập kể chuyện
- Kể trong nhóm.
- Thi kể trước lớp.
e. HS trao đổi với nhau về nội dung, ý nghĩa câu chuyện
- Nói về nhân vật chính
- Nói về ý nghĩa câu chuyện.
g. Củng cố, dặn dò
Căn cứ vào nội dung chương trình, yêu cầu cần đạt, cũng như quy trình dạy bài kể
chuyện trên, tôi chọn dạng BT a để đưa hoạt động động thực hành sắm vai của HS vào
cuối khâu d của quy trình:
1. kể trong nhóm
1. từ 3- 4 nhóm kể
d. HS tập kể chuyện
2. kể trước lớp 2. Một nhóm thực hành sắm vai
Vì ở dạng BT a HS đã được nghe kể rồi, tiếp theo đó lại được kể trong nhóm vì thế sẽ
dễ dàng thực hành sắm vai kể lại. Còn dạng BT b và c thì hoạt động sắm vai kể lại
chuyện khó có thể thực hiện được vì cá nhân học sinh tự sưu tầm, kể lại hay cá nhân
được chứng kiến câu chuyện kể lại thì việc em sắm vai một mình là yêu cầu quá cao
 Phương pháp dạy kể chuyện:

Ngoài các phương pháp đàm thoại, giảng giải,… dạy kể chuyện theo sách giáo
khoa mới còn rất coi trọng các phương pháp sau:
+ Phương pháp trực quan, phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp đóng
vai…
- Đóng vai là phương pháp ở đó GV cho HS thực hành“ làm thử” một số hoạt động
nào đó mô phỏng nội dung câu chuyện. Phương pháp này rất cần thiết cho việc dạy học ở
Tiểu học.
* Theo quy định về điều chỉnh nội dung học tập dành cho học sinh Tiểu học (do Bộ
Giáo dục và Đào tạo phát hành) thì: Một số tiết học có câu chuyện dài, giáo viên có thể
tóm tắt một lượt, sau đó cho học sinh đọc (hoặc giáo viên đọc) từng đoạn rồi giáo viên
hướng dẫn gợi ý học sinh nắm được ý chính và tập kể lại bằng lời của bản thân một cách
tự nhiên, nhẹ nhàng không nhất thiết phải dạy đủ và chi tiết toàn bộ câu chuyện.
Thiết kế dạy như vậy, người đóng vai trò chủ đạo là giáo viên. Giáo viên kể chuyện
còn học sinh nghe, ghi nhớ và tập kể lại chuyện. Cách dạy này, thực tế vẫn có tác dụng
tốt và đang được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên cách dạy này nếu áp dụng vào tất cả các
bài dạy thì sẽ gây sự nhàm chán, không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học
sinh.
III. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Nguyên nhân của những tồn tại trên.
Qua việc tìm hiểu giáo án, dự giờ của một số đồng nghiệp tôi thấy nhiều giáo viên
chưa chú trọng đến phương pháp dạy kể chuyện. Tuy nhiên đây không phải là môn được
đưa vào để thi như các phân môn: Tập đoc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, nên ít được
giáo viên chú trọng đầu tư giảng dạy.
Một số giáo viên cũng cho rằng Kể chuyện là phải trung thành với văn bản truyện,
không được sai lệch một câu, một từ. Bởi vậy, lời kể của giáo viên không được tự do,
giọng điệu kể không phong phú, làm giảm sự chú ý của học sinh vào câu chuyện mà giáo
viên đang kể.
Khâu chuẩn bị của giáo viên không được chu đáo. Giáo viên không đọc kỹ câu
chuyện, không suy nghĩ lựa chọn cách thể hiện các hành động của nhân vật, chưa thực sự
đồng cảm với tác giả Thậm chí một số giáo viên còn chưa thuộc truyện, khi kể mắt

không rời khỏi quyển sách.
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng tới chất lượng giờ Kể chuyện ở Tiểu học,
không kích thích được hứng thú học tập của học sinh.
2. Biện pháp thực hiện
Để giúp học sinh có hứng thú học tập trong giờ Kể chuyện, góp phần nâng cao chất
lượng giờ học Kể chuyện ở Tiểu học, tôi đã xác định mục đích công việc sắm vai của HS
và tiến hành hoạt động sắm vai của HS để kể lại câu chuyện như sau:
* Mục đích của hoạt động sắm vai: Thông qua thực hành sắm vai, HS sẽ hứng thú
kể lại chuyện một cách tự nhiên, giúp lớp học sinh động, nó còn giúp cho HS tìm được ý
nghĩa câu chuyện dễ dàng hơn.
* Chuẩn bị:
- Giáo viên:
+Dự kiến và chọn ngay một nhóm HS khá, giỏi đã nắm vững nội dung cốt truyện.
+ Đạo cụ ( mặt nạ, con rối)
+ lời thoại
+ Địa điểm nhóm sẽ sắm vai
- Học sinh:
+ Nhóm khá, giỏi đã nắm và kể được nội dung chuyện.
+ Thử sắm vai.
- Thời gian thử sắm vai bằng thời gian kể trong nhóm
* Trình tự tiến hành:
- Đối với HS khá giỏi, GV chủ động chọn trước, kiểm tra xem HS kể thế nào, sau
đó mới chọn.
- GV đã chuẩn bị đạo cụ, nhóm được phân công sẽ được GV gợi ý bằng cách dùng
một số lời thoại (có phiếu lời thoại gợi ý)
- HS tìm địa điểm riêng để tiến hành tập sắm vai thử.
- Thời gian sắm vai thử bằng thời gian các bạn các nhóm khác tập kể trong nhóm
và kể trước lớp, sau khi kết thúc phần này thì nhóm sắm vai sẽ tiến hành sắm vai kể lại
chuyện.
* Các yêu cầu về kịch bản ( lời thoại), gợi ý sắm vai, phân vai, hướng dẫn HS thuộc

lời thoại và nhập vai, chuẩn bị đạo cụ.
 Soạn kịch bản.
Ở dạng BT a có 10 câu chuyện, để đảm bảo thời lượng cũng như đảm bảo tính vừa
sức cho HS, tôi chọn phần nội dung sắm vai của các em có thể là toàn bộ truyện nếu là
truyện ngắn, một phần trọng tâm của truyện nếu là truyện dài.
Sau khi đã tìm hiểu kỹ, nắm vững cốt truyện nhớ các tình tiết, hiểu thấu đáo nội
dung và nghệ thuật của truyện, tôi tiến hành soạn kịch bản dựa trên cốt truyện và lời kể
trong truyện. Kịch bản cho sắm vai phải phân định rõ lời dẫn truyện và lời thoại. Lời
thoại cần ngắn gọn, đủ ý, tránh rườm rà không cần thiết để học sinh mau thuộc dễ nhớ.
Từ ngữ sử dụng trong lời thoại cần phù hợp với không gian, thời gian, hoàn cảnh xảy ra
câu chuyện. Trong truyện, thỉnh thoảng có xen vào lời nói có vần điệu, những câu cố
định, thì trong lời thoại phải giữ nguyên văn.
Trong kịch bản nên gợi ý cụ thể về cử chỉ, nét mặt, điệu bộ và ngữ điệu dựa theo
kịch bản, để học sinh dễ hình dung về vai mình sẽ đóng.
Nhưng cần lưu ý kịch bản cho sắm vai không chỉ là kịch bản sân khấu hay điện
ảnh, nó chỉ nhằm giúp cho các em tổ chức hoạt động, sắm vai phục vụ cho tiết học kể
chuyện làm cho tiết học trở nên sinh động, mang tính nghệ thuật.
 Chuẩn bị đạo cụ.
Đạo cụ là những đồ vật nhằm hỗ trợ cho vai diễn thêm sinh động, góp phần minh
hoạ, dẫn dắt câu chuyện, chắp cánh cho trí tưởng tượng của các em bay bổng. Đạo cụ
dùng cho hoạt động sắm vai cần đạt được một số yêu cầu sau:
- Đạo cụ phải phù hợp với từng vai diễn, có tác dụng hỗ trợ cho vai diễn sinh động,
góp phần lột tả tính cách nhân vật, giúp các em dễ theo dõi truyện.
- Đạo cụ cần dễ kiếm, dễ làm, dễ sử dụng không nên quá cầu kỳ, đắt tiền. Vì nhiều
khi đạo cụ quá cầu kỳ lại làm cho các em tham gia đóng vai bị lúng túng khi sử dụng và
làm mất sự chú ý vào nội dung diễn biến của câu chuyện đối với các em khác.
- Đạo cụ có thể do giáo viên làm hoặc do học sinh tự chuẩn bị. Việc cho học sinh tự
chuẩn bị sẽ góp phần phát huy sự sáng tạo, kích thích trí tưởng tượng của các em học
sinh, giúp các em hiểu sâu hơn về vai diễn của mình.
 Phân vai.

Giáo viên nên để các em tự chọn các vai mà các em yêu thích, sau đó để các em
trong nhóm thảo luận rồi chủ động phân vai hay phân công nhau. Như vậy các em sẽ hào
hứng và đóng tốt vai của mình.
Ngoài ra giáo viên cũng có thể chủ động chọn một nhóm học sinh khá, giao vai cụ
thể cho từng em. Đây sẽ là nhóm được giáo viên xây dựng làm mẫu trong giờ học. Để các
em đóng vai được thuận lợi, giáo viên căn cứ vào tính cách, giọng nói, đặc điểm ngoại
hình của từng em mà phân vai cho thích hợp.
Trong giờ học, giáo viên có thể chỉ định một nhóm bất kỳ, không được chuẩn bị để
các em sắm vai nhằm mục đích rèn luyện cho các em tính tự tin, đồng thời cũng là cách
ta kiểm tra việc nắm bài cũng như việc rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, Kể chuyện của
các em một cách thực chất. Căn cứ vào trình độ của lớp mà giáo viên có thể lựa chọn
hình thức phân vai phù hợp, sao cho em nào trong lớp cũng có thể tham gia.
 Gợi ý sắm vai.
Để giúp học sinh nhớ được nội dung, ý nghĩa của truyện, các tình tiết trong truyện
xảy ra như thế nào, tính cách của nhân vật ra sao, giáo viên sẽ chuẩn bị một hệ thống câu
hỏi gợi ý cho các em.
Ngoài hệ thống câu hỏi trong sách giao khoa, giáo viên có thể đưa ra một số câu
hỏi.
- Truyện xảy ra bao giờ và ở đâu?
- Truyện có mấy nhân vật, tính cách của từng nhân vật như thế nào?
- Vậy nên chọn giọng điệu, cử chỉ như thế nào để phù hợp với tính cách của nhân
vật đó?
- Em có suy nghĩ, tình cảm như thế nào đối với mỗi nhân vật trong truyện.
- Qua câu chuyện em rút ra bài học gì?
 Hướng dẫn học sinh thuộc lời thoại và nhập vai.
+ Đưa kịch bản vào phiếu học tập cho một nhóm thảo luận ngay tại lớp.
+ Học sinh luyện đọc giọng vai của mình để thuộc lời thoại.
+ Giáo viên gợi ý cho nhóm khá nhận xét lựa chọn nét mặt, cử chỉ, không nên quá
cường điệu mà chỉ là sự phối hợp tự nhiên với ngữ kể chuyện.
 Các yếu tố khác.

Ngoài các yếu tố cần chuẩn bị như đã nêu ở trên, để giờ học kể chuyện có sắm vai
được thành công, tôi có thể chuẩn bị thêm:
- Về địa điểm: Có thể tổ chức giờ học ở trong lớp hay ngoài trời. Nếu tổ chức ở trong
lớp, giáo viên có thể sắp xếp lại bàn ghế để thầy trò ngồi quây quần bên nhau, tạo được
không khí thân mật, ấm cúng trong tiết học đồng thời có đủ khoảng không gian cần thiết
cho các em sắm vai.
- Chuẩn bị, hướng dẫn các em nếp học, cách học giờ Kể chuyện để giờ học diễn ra sôi
nổi, hào hứng mang tính nghệ thuật nhưng cũng có kỷ luật.
Như trên đã nói: Dạy Kể chuyện góp phần thỏa mãn nhu cầu Kể chuyện của trẻ em,
đồng thời là một phương tiện giáo dục hữu ích.
Dạy Kể chuyện góp phần giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng, mở rộng tầm hiểu
biết, rèn luyện khả năng tư duy, phát triển trí tưởng tượng
Giờ Kể chuyện đem đến cho các em học sinh những xúc cảm thẩm mỹ lành mạnh,
giáo dục cho các em những tình cảm, phẩm chất đạo đức cao đẹp, giúp các em có một
nhân cách phát triển toàn diện.
Giờ Kể chuyện có hoạt động sắm vai đem đến những tác dụng sau:
- Hoạt động sắm vai gây hứng thú cho cho học sinh, giúp học sinh nắm nhanh cốt
truyện, hiểu sâu nội dung cũng như tính cách của từng nhân vật trong truyện.
- Việc thể hiện tính cách nhân vật giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, khả
năng tư duy và phát huy trí tưởng tưởng phong phú.
- Câu chuyện nêu vấn đề gì? Xảy ra bao giờ và ở đâu.
- Truyện có mấy nhân vật, đại diện cho tầng lớp người nào trong cuộc sống? Cuộc đời,
cuộc sống của từng nhân vật ra sao?
- Thông qua câu chuyện có thể rút ra ý nghĩa gì cho cuộc sống hiện tại?
3. Kịch bản sắm vai
Truyện: Người đi săn và con nai
* Nhân vật:
+ Người đi săn
+ Suối
+ Cây trám

+ Vầng trăng
* Người dẫn truyện:
Từ chập tối, người đi săn đã lôi cái súng kíp trên gác bếp xuống, xếp đạn vào chiếc
túi vải chàm, rồi đeo cái đèn ló trước trán, vào rừng. Mùa trám chín, chắc nai về nhiều
rồi, đi săn thôi!
* Người đi săn bước đến con suối.
- Suối róc rách hỏi:
- Đi đâu tối thế?
- Người đi săn: - Đi săn con nai.
- Suối bảo: - Con nai hay đến soi gương xuống mặt suối. Đừng bắn con nai!
* Người đi săn lùi lùi bước đi tới gốc cây trám, anh ngồi xuống, hạ chiếc đèn ló.
- Cây trám hỏi: - Đến chơi với tôi à?
- Người đi săn: - Không phải.
- Cây trám: - Thế đi đâu? Ở đây vắng quá! Chẳng có ai đến chơi. Đến mùa quả chín
mới được nhìn thấy con nai về. Sắp đến lúc nai về đấy!
- Người đi săn: - Tớ chỉ đợi lúc ấy. Cho nó một phát!
- Cây trám: - Sao?
- Người đi săn: - Cái đèn ló này… để rọi cho con nai chói mắt, không biết đường chạy,
cái súng này… để bắn.
- Cây trám: - Ác thế!
- Người đi săn: - Thịt nai ngon lắm.
- Cây trám rưng rưng nước mắt:
- Thế thì cút đi!
* Người đi săn không để ý đến những tiếng rì rào tức tưởi trên cây trám. Anh đợi.
* Thế rồi, trên lưng đồi sẫm đen dưới ánh trăng, bóng con nai hiện rõ dần. Ánh đèn ló
trên trán người đi săn vụt rực lên. Hai con mắt nai đỏ như hổ phách bối rối trong làn sáng
đèn. Con nai ngây ra đẹp quá. Người đi săn quên mất thịt nai ngon. Người đi săn quên hai
tay đã giơ súng. Người đi săn lại nhớ ra lời suối, lời đồi, lời cây: Muôn thú và cây cỏ
trong rừng là bạn, sao ta lại thèm ăn thịt bạn!
Con nai lặng yên, trắng muốt trong ánh sáng.

Người đi săn mãi ngắm con nai, mồ hôi đầm trên trán, cái dây da tụt xuống, ánh
đèn ló lệch vào bóng tối, mất bóng con nai. Con nai chạy biến. Người đi săn luống cuống
giơ tay đẩy chiếc dây da lên. Nhưng trong làn sáng đèn không thấy con nai đâu.
* Người đi săn ngơ ngẩn xuống đồi.
- Vầng trăng đã nhìn thấy tất cả, mỉm cười:
- Ngủ ngon được đấy! chúc ngủ ngon!
* Lát sau, người đi săn đã ngồi trước bếp lửa. Khẩu súng, bao đạn lại treo lên hốc cột gác
bếp. Đêm ấy, trong giấc dìu dịu, anh chiêm bao thấy con nai. Chưa bao giờ anh thấy một
con nai đáng yêu như thế.
4. Giáo án minh hoạ
Kể chuyện - lớp 5
Bài: Người đi săn và con nai
Đề: Dựa vào lời kể của cô giáo (thầy giáo), kể lại từng đoạn câu chuyện
“ Người đi săn và con nai” theo tranh minh họa.
A. Mục đích, yêu cầu:
1. Rèn kĩ năng nói:
- Dựa vào lời kể của thầy (cô), kể lại được từng đoạn câu chuyện theo tranh minh họa
và lời gợi ý dưới tranh, phỏng đoán được kết thúc của câu chuyện; cuối cùng kể lại được
cả câu chuyện. Cách diễn đạt qua từng vai của nhân vật trong truyện.
- Hiểu ý nghĩa câu chuyện: Giáo dục ý thức bảo vệ thiên nhiên, không giết hại thú
rừng.
- Tập cho học sinh có giọng kể thích hợp với từng nhân vật trong từng đoạn đối thoại.
2. Rèn kĩ năng nghe:
- Nghe thầy ( cô) kể chuyện, ghi nhớ chuyện.
- Nghe bạn kể chuyện, nhận xét đúng lời kể của bạn, kể tiếp được lời bạn.
3. Rèn kĩ năng đóng vai:
- HS có thể dựng lại cả câu chuyện sau khi đã nghe giáo viên và các bạn kể.( qua từng
vai của nhân vật)
B. Chuẩn bị.
- Học sinh: + Đọc kĩ truyện, tìm hiểu nội dung truyện thông qua hệ thống câu hỏi trong

sách giáo khoa.
+ Một nhóm học sinh tập đóng vai và chuẩn bị đạo cụ.
- Giáo viên: + Đọc kỹ truyện, tập kể cho sinh động, hấp dẫn.
+ Vẽ tranh minh hoạ.
+ Soạn kịch bản.
+ Phiếu lời thoại
+ Chuẩn bị đạo cụ
+ Hướng dẫn HS phân vai.
C. Các hoạt động trên lớp:
Các bước Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
I. Kiểm tra
bài cũ.
- KT 2 học sinh.
GV: Em hãy kể chuyện về một lần đi thăm
- 2 HS lần lượt lên kể.
II. Bài mới
cảnh đẹp ở quê hương em hoặc nơi khác.
- GV nhận xét.
-Giới thiệu bài: Người đi săn và con nai.
Hoạt động 1
 GV kể mẫu lần 1 ( không dùng tranh)
GV kể mẫu lần 2 kết hợp tranh
- Tranh 1: Từ chập tối, người đi săn đã
chuẩn bị súng, đạn, đèn để chuẩn bị đi săn.
Người đi săn nghĩ: “ Mùa trám chín, chắc
nai về nhiều. Mai ta phải đi săn thôi”. Thế
là anh chuẩn bị súng và đồ dùng cho buổi
săn hôm sau.
- Tranh 2: Người đi săn đến bên con suối.
Con suối khuyên người đi săn đừng bắn

con nai.
- Tranh 3: Người đi săn đến bên một cây
trám, ngồi xuống gốc cây. Biết anh đi săn
nai, Trám nói là anh ác quá.
- Tranh 4: Con nai xuất hiện dưới ánh
trăng. Hai con mắt nai đỏ như hổ phách.
Con nai lặng yên, trắng muốt trong ánh
trăng. Người đi săn mãi ngắm vẻ đẹp của
con nai đã hạ súng không bắn nai và ngơ
ngẩn xuống đồi.
Hoạt động 2: Hướng dẫn thực hành kể.
a. GV hướng dẫn học sinh kể lại từng đoạn
của câu chuyện.( theo từng tranh)
- Đọc lời chú thích dưới tranh.
- HS lắng nghe.
- HS lắng nghe ghi nhớ nội
dung truyện.
- 1 HS đọc lời chú thích dưới
tranh.
- Truyện có những nhân vật nào?
- Kể được nội dung chính của mỗi tranh.
- Lưu ý học sinh phân biệt giọng các nhân
vật.
- Cho học sinh làm việc.
- Cho học sinh kể lại nội dung từng tranh.
( tranh 1 –> tranh 4)
+ Giáo viên và học sinh nhận xét, góp ý về
cách kể.
b. GV cho học sinh đoán xem câu chuyện
kết thúc thế nào và kể tiếp câu chuyện theo

phỏng đoán.
- GV lưu ý học sinh đoán xem: Thấy con
nai đẹp quá, người đi săn có bắn nó
không? Chuyện gì sẽ xảy ra sau đó?
- GV kể tiếp đoạn 5 của câu chuyện
c. GV cho học sinh kể lại toàn bộ câu
chuyện và trao đổi về ý nghĩa của câu
chuyện
- Hỏi: Vì sao người đi săn không bắn con
nai?
- HS nêu:
- Người đi săn
- Suối
- Cây trám
-Vầng trăng
- HS làm việc theo cặp - kể
cho nhau nghe về nội dung
chính của từng tranh – sau đó
kể trước lớp.
- Nhiều HS tiếp nối nhau kể
từng tranh.
- Đại diện các nhóm lên thi
kể.
- Lớp nhận xét.
-HS phỏng đoán phần kết
thúc câu chuyện
- 2 Học sinh dựa vào tranh kể
lại toàn bộ truyện.
- HS nêu:
+ Vì người đi săn thấy con

nai rất đẹp, rất đáng yêu dưới
ánh trăng, nên không nỡ bắn
nó.
III.Đóng
vai
- Câu chuyện muốn nói với chúng ta điều
gì?
 Hoạt động 3: Phân vai dựng lại câu
chuyện
- GV chia lớp thành 4 nhóm, phát kịch bản
cho từng nhóm, yêu cầu các em đọc, phân
công các bạn lên thể hiện, thi xem nhóm
nào đóng hay.
- Trong khi các nhóm thảo luận, xây dựng
kịch bản, GV đến từng nhóm quan sát,
lắng nghe, kịp thời phát hiện những khó
khăn của HS để có sự hỗ trợ, giúp đỡ kịp
thời.
- GV theo dõi ghi chép nhận xét những
mặt đã đạt được và chưa đạt.
- Gọi HS nhận xét cách đóng.
- GV cho HS thi dựng lại câu chuyện trước
lớp.
- GV cùng học sinh nhận xét.
-Nêu câu hỏi để học sinh rút ra bài học
+Câu chuyện muốn nói với
chúng ta: Hãy yêu quý và bảo
vệ thiên nhiên, bảo vệ các
loài vật quý. Đừng phá hủy
vẻ đẹp của thiên nhiên!

- 1 Học sinh dẫn truyện.
- Học sinh từng tổ (nhóm) lần
lượt thảo luận, xây dựng kịch
bản và phân công đóng vai tái
hiện nội dung truyện (mỗi tổ
đóng một đoạn)
- HS đọc, chọn vai sẽ đóng.
- Trưởng nhóm lên giới thiệu
vai rồi thể hiện.
- Cả lớp theo dõi, nhận xét
cho bạn về: + Nội dung đã đủ
ý, đúng trình tự? Giọng điệu,
điệu bộ, cử chỉ…?
IV.Củng cố

5. PHẦN DẠY THỰC NGHIỆM
Để kiểm tra kết quả nghiên cứu, tôi tiến hành dạy thử nghiệm trên 2 lớp 5 của
Trường Tiểu học Trưng Vương
Tiết 1
Bài dạy thử nghiệm: Người đi săn và con nai
Lớp dạy thử nghiệm: Lớp 5
1
và lớp 5
2
* Kết quả dạy thực nghiệm:
Ở hoạt động HS thực hành sắm vai Lớp 5
1
Lớp 5
2
Số HS cho ý kiến cảm nhận:

+Ý kiến cho là các bạn sắm vai hay 30em
(69,8%)
35em
(81,4%)
+Ý kiến cho là còn vài chỗ nhóm sắm vai cần khắc phục
( giọng nói diễn cảm hơn, vị trí đứng sắm vai hợp lí hơn,
vài động tác cần phải phù hợp hơn)
13 em
(30,2%)
8
( 18,6%)
Số nhóm đóng vai hay 1 2
- Số HS thích giờ kể chuyện lúc nào cũng có sắm vai 43 em
( 100%)
43 em
( 100%)
IV. KẾT QUẢ
Sau gần một năm học áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy
tôi đã tự tin hơn rất nhiều khi thực hiện giờ dạy kể chuyện qua hoạt động sắm vai cho học
sinh trên lớp.Với sự tạo hứng thú cho học sinh trong tiết kể chuyện qua sắm vai ít nhiều
đã thu hút học sinh học tập hơn, làm cho các em say mê hơn khi học phân môn kể
chuyện. Các em rất sôi nổi và mạnh dạn khi được kể chuyện theo lối phân vai hay đóng
vai. Từ sự tự tin, năng lực chủ động, phát huy tính tích cực của mình trong giờ học kể
chuyện, các em đã coi mỗi tiết kể chuyện là một ngày hội, một cuộc thi thố tài năng nho
nhỏ. Một số em tiếp thu chậm cũng đã mạnh dạn nêu được vài tình tiết trong câu chuyện.
Kết quả sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm được ghi bằng các số liệu
Mức độ đạt được của học sinh Trước khi thực
hiện
( Số lượng HS - tị
lệ)

Sau khi thực hiện
( Số lượng HS - tị
lệ)
- HS hứng thú thích kể chuyện và kể
lại được toàn câu chuyện có thể hiện
cảm xúc.
25 /43 ( 58,1% ) 34/43 (79 %)
- HS thích nghe kể và kể được vài
đoạn trong câu chuyện
12 /43 ( 27,9%) 7/43 ( 16,3%)
- HS kể lại được vài chi tiết trong câu
chuyện
6/43 ( 14%) 2/43 ( 4,7% )
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua nghiên cứu thử nghiệm, bản thân tôi đã có rút ra được một số kinh nghiệm sau:
1. Tính sáng tạo:
Học sinh học sôi nổi, nhanh chóng nắm được cốt truyện. Học sinh tự tin, kể lại
truyện bằng ngôn ngữ của mình. Nhiều em hào hứng tham gia vào hoạt động sắm vai và
có nhiều sáng tạo trong quá trình thể hiện tính cách nhân vật mình đóng.
2. Tính phổ biến:
- Để phục vụ cho tiết dạy không cần nhiều đồ dùng dạy học mà giờ học vẫn đạt kết
quả cao.
- Phương pháp này đã được trao đổi và áp dụng ở khối 5 của Trường Tiểu học
Trưng Vương.
* Hạn chế: Để tiết dạy thành công, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian
soạn bài, soạn kịch bản, hướng dẫn học sinh luyện tập.
VI. KẾT LUẬN
Dạy học đối với giáo viên chính là một sự rèn luyện toàn diện. Kể chuyện cũng là
một phân môn đòi hỏi một trình độ hiểu biết và năng lực thực hành toàn diện. Cho nên
mỗi giáo viên cần phải tự bồi dưỡng tiềm lực, tự tìm tòi, nghiên cứu để cập nhật cho

mình những kiến thức về nội dung chương trình, về đổi mới phương pháp dạy học là điều
hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên Tiểu học hiện nay. Nhu cầu phát triển của xã hội
nói chung và của ngành Giáo dục nói riêng đòi hỏi chúng ta không ngừng học tập vươn
lên, nâng cao tri thức để hoàn thành sứ mệnh “ trồng người” cho đất nước trong mai sau
Trên đây là một số suy nghĩ, tìm tòi của tôi trong quá trình dạy phân môn Kể
chuyện. Do trình độ và kinh nghiệm còn hạn hẹp nên vấn đề tôi trình bày không tránh
khỏi những sai sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp, phê bình từ các thầy cô, các
bạn đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh nghiệm và vận dụng vào giảng dạy ngày càng tốt
hơn!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
* Đề xuất và kiến nghị:
- Để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên đạt được hiệu quả trong các tiết dạy kể
chuyện tôi xin đề xuất với các cấp quản lí một vài ý kiến sau:
+ Cần trang bị cho nhà trường đầy đủ các bộ tranh ảnh kể chuyện, có sách tham
khảo, các loại băng hình kể chuyện cho giáo viên.
+ Thường xuyên mở lớp BD, chuyên đề để GV trao đổi kinh nghiệm học hỏi lẫn
nhau, nhằm nâng cao tay nghề & chất lượng GD đạt hiệu quả cao.
VII.TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tiếng Việt và phương pháp dạy Tiếng Việt ở Tiểu học ( Bộ Giáo dục và Đào tạo - Dự
án phát triển Giáo Viên Tiểu học)- Tập thể nhiều tác giả-Nhà xuất bản Giáo dục
- Tài liệu bồi dưỡng Giáo Viên dạy các môn học lớp 5 ( Bộ Giáo dục & Đào tạo - Vụ
Giáo dục Tiểu học) Tập thể nhiều tác giả - Nhà xuất bản Giáo dục-
- Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt 2 ( Nhà xuất bản Đại học sư phạm - Hà
Nội)- PGS.TS. Lê phương Nga- PGS.TS. Nguyễn Trí

×