Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

skkn TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC TRUYỆN HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 9”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 48 trang )




PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN THANH OAI
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ PHƯƠNG TRUNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI:
“TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC
TRUYỆN HIỆN ĐẠI – NGỮ VĂN 9”
Môn: Ngữ văn

Tên tác giả : NguyễnThị Hoàn
Chức vụ : Giáo viên
Tổ chuyên môn : Khoa học Xã hội


NĂM HỌC: 2013 - 2014
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
PHÒNG GD & ĐT THANH OAI
TRƯỜNG THCS PHƯƠNG TRUNG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học 2013-2014
SƠ YẾU LÍ LỊCH
Họ và tên : Nguyễn Thị Hoàn
Ngày, tháng, năm sinh : 16 – 03 - 1976
Quê quán : Kim Thư - Thanh Oai – Hà Nội.
Trú quán : Bình Minh - Thanh Oai – Hà Nội.
Nghề nghiệp : Dạy học.
Chức vụ : Giáo viên.


Năm vào ngành : 1998
Đơn vị công tác : Trường THCS Phương Trung - Thanh Oai – Hà
Nội.
Trình độ chuyên môn : Đại học Ngữ Văn.

Hệ đào tạo : Từ xa
Bộ môn giảng dạy : Ngữ văn.
Công tác chủ nhiệm : Chủ nhiệm lớp 9A4.
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
2
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ
TÊN ĐỀ TÀI: “TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC
TRUYỆN HIỆN ĐẠI - NGỮ VĂN 9”
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1.1. Cơ sở lý luận:
Trong lĩnh vực giáo dục, một số vấn đề được quan tâm và bàn luận sôi nổi
từ nhiều thập niên qua là: Đổi mới phương pháp dạy học. Ở Nghị quyết IV, khóa
II năm 1993, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ: “Phải đổi mới phương pháp dạy học ở
tất cả các cấp học, bậc học” và đến Nghị quyết TWII, khóa VIII lại tiếp tục
khẳng định: “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền
thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học”. Định hướng trên
đây đã được pháp chế hóa trong Luật giáo dục tại điều 24.2 ghi rõ: “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo
của học sinh phù hợp đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương
pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống, tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, sự hứng thú học tập của học sinh.
Bước sang thế kỉ XXI, khi nền khoa học công nghệ phát triển như vũ bão
thì ngành Giáo dục có nhiệm vụ vô cùng nặng nề là phải làm sao đào tạo được
thế hệ tương lai phải là người biết hành động một cách năng động và sáng tạo.

Để thực hiện được nhiệm vụ đó thì ở tất cả các cấp học, ngành học đều phải áp
dụng phương pháp dạy học theo hướng “Phát huy tính tích cực của người học”
bởi đây là nhân tố mới có vai trò thúc đẩy nhà trường phát triển gắn kết, hòa
nhập với sự phát triển của công nghệ, tạo nguồn lực đem lại lợi ích to lớn cho
toàn xã hội.
1.2. Cơ sở thực tế:
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp trong công
tác giáo dục cũng như đối với yêu cầu chung của xã hội nên trong tất cả các giờ
dạy học nói chung và giờ dạy học văn nói riêng, người giáo viên đặc biệt quan
tâm đến việc phát huy tính tích cực của học sinh, giúp học sinh chủ động khám
phá nghệ thuật văn chương, phát huy ngôn ngữ, tạo lập văn bản.
Một nhà phê bình đã nói: “Cảm thụ đã khó mà làm cho học sinh cảm thụ
lại càng khó hơn”. Làm thế nào để học sinh hứng thú và yêu thích môn văn ? Đó
là câu hỏi không dễ trả lời bởi đặc trưng của môn văn là một loại hình nghệ
thuật tiêu biểu (Nghệ thuật ngôn từ). Ngoài việc cung cấp kiến thức như các
môn học khác, môn Ngữ văn còn góp phần to lớn trong việc bồi dưỡng tư tưởng,
tình cảm, nhân cách cho các em học sinh và bước đầu các em có năng lực cảm
thụ các tác phẩm có giá trị nhân văn.
Tuy nhiên học văn là cả một quá trình tích lũy lâu dài, không thể học qua
loa, đối phó hay miễn cưỡng mà phải cập nhật từng ngày, từng vấn đề, từng tác
phẩm. Để làm được điều này thì người dạy phải có phương pháp phù hợp và
người học phải có hứng thú tiếp nhận.
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
3
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
Truyện hiện đại Việt Nam ở lớp 9 chiếm một vị trí không nhỏ trong
chương trình Ngữ văn 9, với số lượng là năm tác phẩm và hơn nữa là một nội
dung lớn trong cấu trúc đề thi vào lớp 10.
Lứa tuổi học sinh lớp 9 là lứa tuổi mà các em có sự thay đổi lớn cả về tâm
và sinh lý, các em ít tập trung vào học tập, nhiều em không thích học, đặc biệt là

môn văn.
Hiện nay sách tham khảo cho bộ môn Ngữ văn lại rất nhiều nên càng khó
khăn cho việc học môn văn. Nhiều học sinh khi bị bắt buộc soạn bài hoặc làm
bài lại chọn đại một quyển ngữ văn tham khảo để làm qua loa, đối phó với thầy
cô cho có bài. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự tiếp thu cũng như phát huy
tính sáng tạo của học sinh.
Vậy làm thế nào cải thiện được tình trạng ấy, để chất lượng môn Ngữ văn
ngày một nâng cao ? Tôi thiết nghĩ, mỗi giáo viên phải đổi mới phương pháp
giảng văn để tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ học văn, kích thích sự tìm
tòi sáng tạo của các em, lôi cuốn các em trong mỗi giờ học.
2. Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm
Nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ có một mong muốn tạo
hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9, để nâng cao
chất lượng giờ dạy và đem lại hiệu quả học tập ở bộ môn này một cách cao nhất.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn.
- Phương pháp đọc tài liệu.
- Thống kê, lập bảng số liệu đối sánh.
- Rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 9A4 trường THCS Phương Trung
- Phạm vi nghiên cứu : Trong suốt năm học 2013-2014.
5. Kế hoạch nghiên cứu
Tháng 9-10 : Khảo sát thực tế
Tháng 11-12: Nghiên cứu tìm giải pháp cho phương pháp giảng dạy
truyện hiện đại để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ văn ở lớp 9.
Các tháng còn lại áp dụng những giải pháp đã tìm để nâng cao hiệu quả giờ dạy
truyện hiện đại.
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung

4
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
PHẦN B: NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
1.1 Giải thích các thuật ngữ khoa học
- Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó
có ý nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm trong quá trình
hoạt động.
Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung
hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt
động nhận thức, tăng sức làm việc.
- Truyện hiện đại: Ra đời vào đầu thế kỷ XX, được viết bằng tiếng Việt
hiện đại, đã có cốt truyện với nhiều hư cấu. Về nhân vật đã chú trọng miêu tả
ngoại hình, tính cách, kiểu nhân vật có tính cách phức tạp. Về nghệ thuật, hướng
vào khắc họa hình tượng, phát hiện bản chất.
1.2 Mục tiêu , ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu.
- Nâng cao chất lượng giảng dạy truyện hiện đại trong chương trình Ngữ
văn 9.
- Học sinh biết cách tóm tắt, phân tích tác phẩm, trả lời được những câu
hỏi xoay quanh tác phẩm.
1.3 Yêu cầu cần đạt của vấn đề nghiên cứu.
- Về kiến thức: Học sinh được trang bị những kiến thức về đặc trưng của
thể loại truyện hiện đại, cách phân tích, cảm thụ một tác phẩm truyện hiện đại,
những điểm cần lưu ý khi phân tích tác phẩm truyện hiện đại.
- Về kĩ năng: Học sinh vận dụng những kiến thức trên vào quá trình phân
tích, cảm thụ một tác phẩm truyện hiện đại trong giờ học Ngữ văn ở trên lớp và
viết bài nghị luận về tác phẩm.
- Về thái độ: Biết cách phân tích, cảm thụ một tác phẩm truyện hiện đại và
yêu hơn môn văn. Từ đó có thái độ nghiêm túc trong học tập.

2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu .
2.1 Đặc điểm nhà trường .
Trường THCS Phương Trung thuộc địa bàn xã Phương Trung, là trường
có số lượng học sinh khá đông, đứng thứ 3 trong huyện. Tổng số cán bộ, giáo
viên, nhân viên hiện tại là 62. Tổ Xã hội có 32 người, số giáo viên có chuyên
môn giảng dạy môn Ngữ văn là 12, trong số đó giáo viên hợp đồng là 06. Do
mức lương hợp đồng còn thấp nên một số giáo viên hợp đồng chưa thật sự yên
tâm công tác, đầu tư vào chuyên môn để nâng cao tay nghề. Điều này cũng có
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn.
Trường nằm trên địa bàn đông dân với nhiều thành phần kinh tế khác
nhau và khá phức tạp, do đó có ảnh hưởng đến nhận thức và học tập của học
sinh. Một số phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập của con em mình nhưng
một số vẫn còn thờ ơ, chưa có sự phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục ý
thức học cho các em.

Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
5
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
2.2 Những ưu điểm và bất cập khi thực hiện vấn đề nghiên cứu.
2.2.1 Những ưu điểm :
Việc đổi mới phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” đã và
đang được áp dụng trong nhà trường giúp học sinh phát huy được vai trò chủ
động của mình trong việc lĩnh hội kiến thức, kích thích khả năng sáng tạo của
học sinh trong quá trình học tập. Cùng với việc đổi mới về phương pháp, một số
phương tiện, kĩ thuật dạy học hiện đại cũng đã được áp dụng vào quá trình giảng
dạy của giáo viên trên lớp giúp giờ học sinh động và mang lại hiệu quả cho giờ
học.
Hàng năm, Sở giáo dục và Đào tạo Hà Nội, phòng giáo dục huyện Thanh
Oai đều tổ chức các chuyên đề tập huấn cho giáo viên môn Ngữ văn với mục
đích nâng cao chất lượng học tập ở bộ môn này.

2.2.2. Những bất cập
Chúng ta đã và đang thực hiện cuộc vận động “Hai không” với 4 nội
dung: nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, nói
không với việc học sinh ngồi nhầm lớp và vi phạm đạo đức nhà giáo. Song, một
thực tế đáng buồn là còn nhiều thầy cô giáo chưa thật quan tâm đến cải tiến
phương pháp giảng dạy cho phù hợp đối tượng và đặc trưng bộ môn, nhất là đối
với môn Ngữ văn. Giờ học văn diễn ra rất tẻ nhạt. Văn bản không được phân
tích theo thông điệp nghệ thuật vốn có, ngược lại nó bị băm nát, gán ghép, mổ
xẻ theo một loạt những câu hỏi rời rạc, trò thay nhau đọc, thầy giải thích ý nghĩa
nội dung, nghệ thuật, rồi rút ra bài học. Nhiều thầy cô quên mất đặc trưng của
văn học, dạy văn mà cứ như dạy chính trị, Giáo dục công dân hay Lịch sử, Địa
lí Các văn bản truyện hiện đại ở lớp 9 nhìn chung nội dung kiến thức hơi nhiều
dẫn đến tình trạng giáo viên dạy luôn có tâm lí sợ cháy giáo án nên nhiều giáo
viên chỉ cung cấp ý cho học sinh mà bỏ qua lời bình…Một số giáo viên còn loay
hoay với giáo án điện tử, chỉ chú trọng đến hình ảnh không khai thác được điểm
sáng thẩm mĩ của văn bản . Học sinh chưa cảm, hiểu truyện sâu sắc qua cách
giải mã nghệ thuật xây dựng truyện, không nắm được đặc trưng nghệ thuật
truyện ngắn như: cốt truyện, nhân vật, lời kể, kết cấu, tình huống, ngôn ngữ
Nhiều giáo viên không trang bị cho học sinh lí luận, không chú ý phát triển tư
duy cho học sinh mà chỉ rèn trí nhớ, một trí nhớ máy móc, rập khuôn đến mức
sao chép. Cách ra đề thi cũng chưa buộc giáo viên phải đổi mới cách dạy, học
sinh phải đổi mới cách học. Học sinh chưa có thói quen tự học, tự làm, chưa biết
vận dụng sáng tạo kiến thức đã học để giải quyết vấn đề có liên quan… Nhiều
em không phân biệt được các ý chính, ý phụ. Nhiều thầy cô giáo quá lo đối phó
với thi cử nên cứ đọc cho học sinh chép bài văn mẫu đã soạn theo ý thầy mà đa
phần là ghi lại các ý của sách giáo viên. Điều này dẫn đến tình trạng các em ít
mặn mà với môn Văn, vì không cảm được nó hay ở chỗ nào. Hậu quả là bài viết
của học khi phân tích, cảm nhận…về nhân vật hoặc tác phẩm thường không làm
rõ được đặc điểm, tính cách, tâm trạng, hay tình huống của truyện để làm nổi bật
vẻ đẹp phẩm chất, số phận nhân vật cũng như những đặc trưng cơ bản của mỗi

truyện ngắn. Nhiều học sinh khi yêu cầu phân tích tác phẩm lại sa vào tóm tắt,
hay kể lại đơn điệu nội dung câu chuyện.
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
6
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
2.3. Khảo sát thực trạng khi chưa thực hiện đề tài.
Hiện nay, phần lớn giáo viên đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học
văn nhưng việc thực hiện còn rất hạn chế, chưa đem lại kết quả như mong muốn.
Một số thầy cô giáo vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức
một chiều: giáo viên giảng bài, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và nhắc lại những
điều đã được truyền đạt. Giáo viên còn áp đặt, vì vậy chưa tạo được một giờ học
lôi cuốn, nhiều giờ học văn còn rất trầm, học sinh mệt mỏi, chán nản, không
hứng thú.
Học sinh nhiều em học theo thói thụ động, nghe, chép, ghi nhớ và tái hiện
một cách máy móc, rập khuôn những kiến thức của thầy cô đã giảng. Nhiều học
sinh lười suy nghĩ, lười học bài và làm bài tập. Trong giờ học chưa hào hứng, về
nhà không học và soạn bài trước khi đến lớp.
Khi học tác phẩm truyện phần lớn học sinh không biết tóm tắt tác phẩm,
nhiều em còn nhầm lẫn ngôi kể. Các em khó cảm thụ và phân tích tác phẩm, khả
năng vận dụng kiến thức về tác giả, tác phẩm vào kĩ năng xây dựng đoạn văn,
làm bài văn nghị luận còn hạn chế.
Từ đó học sinh ngại học, ngại đọc tác phẩm văn học dẫn đến chất lượng
bài viết chưa cao.
Khi được phân công dạy môn Ngữ văn tại lớp 9A4, ngay từ đầu năm tôi
đã tiến hành khảo sát thực tế, kết quả như sau:
* Số liệu điều tra trước khi thực hiện:
a. Điều tra, khảo sát về tâm lý, sở thích:
Lớp 9a4: Tổng số 42 học sinh. Tôi đưa ra câu hỏi khảo sát như sau: “Môn
học em yêu thích ? ”
Kết quả:

Không thích Bình thường Thích
27/42 10/42 5/42
(64%) (24%) (12%)
Nhận xét:
Ta thấy tỉ lệ học sinh yêu thích học văn quả là rất thấp, tỉ lệ học sinh
không thích học môn văn là rất cao.
b. Điều tra qua vở soạn của học sinh:
Tôi thu và kiểm tra 42 vở soạn của học sinh.
Kết quả:
Không soạn bài Soạn bài qua loa, đối phó Soạn bài
32/42 5/42 5/42
(76%) (12%) (12%)
Nhận xét:
Tỉ lệ học sinh soạn bài trước khi đến lớp cũng rất thấp, học sinh không
soạn bài chiếm tỉ lệ rất cao.
c. Điều tra qua thực tế giờ dạy:
* Kiểm tra phần đọc- tóm tắt văn bản.
- Kiểm tra việc đọc của học sinh, tôi hỏi: “ Truyện có những nhân vật
nào?”
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
7
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
Kết quả:
Học sinh không biết Học sinh biết
37/42 5/42
(88%) (12%)
- Kiểm tra tóm tắt tác phẩm, tôi yêu cầu học sinh: “ Em hãy tóm tắt tác
phẩm “Làng” của Kim Lân ?”
Kết quả:
Học sinh không biết tóm tắt Học sinh biết tóm tắt

37/42 5/42
(88%) (12%)
* Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm:
Lớp
TS
HS
TB
(%)
Phân loại (%)
G % KH % TB % Y % K %
9A
4
42 0 0 6 14 15 36 16 38 5 12
Từ đó có thể kết luận: Nhiều em không chuẩn bị bài trước khi đến lớp,
thậm chí không đọc qua văn bản dù chỉ một lần.Vì vậy kết quả khảo sát chất
lượng đầu năm của các em cũng rất thấp.
3. Những giải pháp:
3.1 Học sinh nắm được đặc điểm cơ bản về truyện hiện đại.
Theo phân phối chương trình môn Ngữ văn 9, về văn bản tự sự thì học
sinh phải học hai mảng kiến thức đó là truyện trung đại và truyện hiện đại. Phần
đầu các em đã được học truyện trung đại Việt Nam qua hai tác phẩm văn xuôi:
Chuyện người con gái Nam Xương( Nguyễn Dữ), Hoàng Lê nhất thống
chí( Ngô Gia văn phái) và hai tác phẩm truyện thơ Nôm: Truyện Kiều( Nguyễn
Du), Truyện Lục Vân Tiên( Nguyễn Đình Chiểu). Ở những tác phẩm này các em
đã nắm được những đặc điểm cơ bản của truyện trung đại. Song đến với mảng
kiến thức truyện hiện đại Việt Nam thì số lượng tác phẩm đã tăng lên( 5 tác
phẩm). Vậy việc đầu tiên khi học mảng kiến thức này thì giáo viên cần cho học
sinh nắm được đặc điểm cơ bản của truyện ngắn hiện đại, từ đó học sinh có thể
nhận diện, so sánh hai thể loại này và tiếp nhận tác phẩm một cách dễ dàng hơn.
3.1.1 Đặc điểm cơ bản của truyện ngắn hiện đại:

- Truyện ngắn là một thể loại văn học. Nó thường là các câu chuyện kể
bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, xúc tích và hàm nghĩa.
- Truyện ngắn có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp.
- Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ
xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.
- Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không
gian, hạn chế, chức năng của nó là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và
tình người.
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
8
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
- Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều tuyến mà
thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng.
- Truyện ngắn thường tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất
định. Tình huống của truyện ngắn là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng
một tình thế bất thường của quan hệ đời sống. Tình huống có vai trò đặc biệt
quan trọng, nó là hạt nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn. Nghĩa là nó quyết
định đến sự sống còn của một truyện ngắn. Đọc truyện ngắn, phân tích truyện
ngắn mà chưa nắm được tình huống thì coi như chưa nắm được chiếc chìa khóa
vàng để mở vào thế giới bí ẩn của truyện ngắn ấy.
- Người kể chuyện có vai trò không thể thiếu trong truyện ngắn. Người kể
chuyện luôn ẩn mình ngay cả những truyện ngắn với người kể xưng tôi, nhà văn
cũng muốn làm mất cái tôi cá nhân để có cái tôi nghệ thuật.
3.1.2 So sánh khái quát truyện trung đại và truyện ngắn hiện đại:
Về các mặt Truyện trung đại Truyện ngắn hiện đại
- Thời gian xuất hiện
- Về chữ viết
- Về cốt truyện
- Về nhân vật
- Về dụng ý nghệ thuật

- Vào thời kì trung đại
- Viết bằng chữ Hán và
chữ Nôm
- Cốt truyện đơn giản
- Kể người thật, việc thật
- Mục đích giáo huấn đạo
đức.
- Đầu thế kỉ XX
- Viết bằng văn xuôi
tiếng Việt hiện đại
- Cốt truyện phức tạp
- Có tính chất hư cấu
- Khắc họa hình tượng,
phát hiện bản chất trong
quan hệ nhân sinh hay
đời sống con người.
3.2 Giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo.
Trước khi lên lớp, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo về bài giảng, về các
tình huống có thể xảy ra, để có thể chủ động trong giờ học, làm tròn vai trò dẫn
dắt học sinh vào bài học.
Để có phương pháp giảng dạy truyện hiện đại phù hợp, lôi cuốn, tạo hứng
thú cho học sinh trong giờ học văn nói chung và giờ học một tác phẩm truyện
hiện đại ở lớp 9 nói riêng, giáo viên phải nắm chắc mục tiêu của bài giảng, nắm
chắc kiến thức về nội dung, nghệ thuật, hiểu sâu sắc về tác giả, hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm và phải đưa được bài văn vào mạch sống chung của xã hội, của
thời đại.
Không chỉ chuẩn bị chu đáo về chuyên môn, giáo viên phải chuẩn bị cả
tâm thế cho học sinh, phải tạo được mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò,
tránh những áp lực, căng thẳng. Phải coi học sinh là chủ thể cảm thụ sáng tạo, là
trung tâm, là khởi đầu, là xuất phát điểm cho mọi hoạt động của tiến trình dạy và

học.
3.3 Tổ chức giờ học khoa học, lôi cuốn.
3.3.1 Giới thiệu bài – tiền đề cho sự tiếp nhận.
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
9
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
Như chúng ta đã biết, tiếp nhận tác phẩm là một hoạt động nhằm chiếm
lĩnh giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Để học sinh có thể
tiếp nhận tác phẩm văn học một cách hào hứng, có hiệu quả thì giáo viên phải
chuẩn bị tốt lời giới thiệu bài để khêu gợi tâm lí cảm thụ bài văn, tạo dần tâm
thế văn học cho học sinh.
Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Làng” của Kim Lân, giáo viên tạo tâm thế cho
học sinh bằng cách đặt câu hỏi: “Kể tên các bài các bài thơ, ca dao viết về đề
tài: Tình yêu quê hương , đất nước mà em biết?” Từ đó giới thiệu vào bài mới:
Mỗi người dân Việt Nam đều rất yêu và gắn bó với làng quê của mình. Đã
có biết bao những câu ca dao, bài thơ hay viết về tình cảm này như: “Anh đi anh
nhớ quê nhà – Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”(Ca dao) hay “Quê
hương tôi có con sông xanh biếc – Nước gương trong soi tóc những hàng
tre”(Nhớ con sông quê hương – Tế Hanh), thật dung dị mà ngọt ngào sâu sắc.
Với tác phẩm “Làng”, nhà văn Kim Lân cũng sẽ cho ta thấy và cảm nhận được
tình yêu làng quê, yêu đất nước sâu sắc của người nông dân trong những năm
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp qua nhân vật ông Hai.
Ví dụ 2. Khi giới thiệu bài “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang
Sáng, giáo viên giới thiệu bằng cách đi thẳng vào đề tài:
Tình cảm gia đình là một tình cảm thân thuộc đối với mỗi người dân Việt
Nam. Tình cảm ấy không chỉ đi vào thơ ca mà cả truyện ngắn một cách tự nhiên.
Đến với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tình cảm này lại càng trở nên đặc biệt và
sâu sắc hơn. Vậy điều đặc biệt ấy là gì? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu truyện
ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn nhé!
Ví dụ 3: Khi giới thiệu bài “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê,

giáo viên có thể giới thiệu bằng cách trích dẫn một câu thơ:
Nhà thơ Tố Hữu viết :
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Đó là khí thế hào hùng của dân tộc Việt Nam thời đánh Mĩ. Và trong cuộc
kháng chiến trường kì ấy, có biết bao tấm gương đã âm thầm cống hiến tuổi
xuân của mình để góp phần bảo vệ tổ quốc như mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc,
hay những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn…Họ đã
làm những công việc gì, ở họ có những nét tính cách nào đáng quý? Qua truyện
ngắn “Những ngôi sao xa xôi”, nhà văn Lê Minh Khuê sẽ giúp chúng ta hiểu
được điều ấy.
3.3.2 Phân tích tác phẩm – hoạt động trọng tâm của giờ học.
* Đọc văn bản.
Để giúp học sinh bước đầu cảm thụ tác phẩm, đi vào thế giới nghệ thuật
thì khâu đọc tác phẩm có vai trò không thể thiếu trong mỗi giờ học văn, đặc biệt
là giờ học truyện hiện đại. Nhà văn Gor-ki từng nói, đây là giai đoạn người đọc
thấy được nhân vật đi đứng, nói năng, khóc cười, cuộc sống đang vận động,
đang chuyển động trước mắt. Hơn nữa, đọc còn để hòa nhập vào thế giới cảm
xúc, để phát hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Đọc để nhìn ra thế giới cuộc sống
trong tác phẩm. Đọc để tiếng nói nội tâm người đọc hòa vào tiếng nói nội tâm
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
10
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
của tác giả. Đọc có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: đọc diễn cảm,
đọc thầm, đọc to, đọc phân vai hay tường thuật theo văn bản (chi tiết, cốt truyện,
hành động, tâm trạng nhân vật) Trong các hình thức ấy thì đọc diễn cảm
đã trở thành phương pháp truyền thống trong các nhà trường, đặc biệt là trong
môn Ngữ văn, đọc diễn cảm có tác dụng phát triển trí tuệ cho học sinh, thông
qua việc đọc diễn cảm giúp học sinh khám phá tác phẩm văn chương, giúp học
sinh hiểu rõ được giá trị đích thực của tác phẩm, bởi con đường đi vào tác phẩm

nhất thiết phải từ đọc. Âm vang của lời đọc sẽ kích thích quá trình tri giác, tưởng
tượng và tái hiện hình ảnh. Cảm xúc bắt đầu từ đọc và được tư duy phát triển
trong quá trình đọc. Nhập thân vào tác phẩm chỉ có thể bắt đầu bằng đọc diễn
cảm. Đọc kích thích quá trình tâm lý cảm thụ, tri giác tưởng tượng, xúc cảm.
Đọc diễn cảm còn là phương tiện giáo dục bồi dưỡng đạo đức, thẩm mỹ
cho các em học sinh, giúp các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn học làm
cho các em yêu thích văn học từ đó có ý thức rèn luyện đọc diễn cảm.
Khi đọc diễn cảm tác phẩm truyện, bắt đúng giọng nhân vật là bắt đúng cái
tình của nhân vật, chỉ cần một câu thôi là tức khắc người đọc đặt được mình vào
tâm trạng nhân vật, hiểu được tiếng nói nhà văn. Từ đó giờ giảng văn trở thành
một công việc tâm tình, một cuộc trao đổi thật sự cho cuộc sống không còn là
một giờ bàn luận về chính trị, luân lý nặng nề.
Bằng sức mạnh riêng của đọc diễn cảm, người giáo viên dẫn dắt học sinh
đi vào thế giới của tác phẩm một cách dễ dàng, phù hợp với qui luật cảm thụ văn
học. Để làm được điều đó, giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm
trước khi đi vào phân tích tác phẩm truyện hiện đại ở lớp 9. Song, tùy yêu cầu,
tùy từng bài cụ thể mà giáo viên có thể hướng dẫn đọc dưới nhiều hình thức và
với những mức độ khác nhau: đọc cả bài, đọc từng đoạn, đọc để gây không khí,
đọc để sáng tỏ lời bình, đọc để chứng minh cho lời giảng, đọc đầu giờ và đọc ở
phần kết thúc bài giảng.
Ví dụ: Khi học văn bản “Chiếc lược ngà”, giáo viên hướng dẫn cách đọc:
đọc to, rõ ràng, chú ý giọng kể của tác giả (nhân vật anh Ba xưng tôi ở ngôi thứ
nhất) trầm tĩnh, cảm động, hơi buồn, những đoạn miêu tả tâm trạng của bé Thu,
ông Sáu cần phân biệt và đọc giọng phù hợp.
Sau khi hướng dẫn học sinh đọc, giáo viên đọc mẫu, gọi học sinh đọc và
nhận xét, điều chỉnh cách đọc cho phù hợp để đạt hiệu quả cho việc tiếp nhận
tác phẩm của học sinh. Trên cơ sở học sinh đã chuẩn bị bài ở nhà, giáo viên có
thể cho học sinh tường thuật văn bản hoặc tóm tắt văn bản.
* Tóm tắt văn bản – một khâu không thể thiếu trong giờ học truyện hiện
đại.

Như chúng ta đã biết, văn học là một bộ môn khoa học trừu tượng. Giá trị
nội dung và ý nghĩa của văn bản được thể hiện thông qua ngôn ngữ nghệ thuật.
Muốn học tốt một tác phẩm truyện nói chung và một tác phẩm truyện hiện đại
nói riêng, học sinh không chỉ biết đọc mà còn phải biết tóm tắt văn bản. Bởi vì
việc tóm tắt vừa giúp học sinh nắm được nội dung văn bản, vừa phục vụ hiệu
quả, thiết thực cho các hoạt động đọc - hiểu văn bản.
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
11
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
Làm thế nào để học sinh dễ dàng tóm tắt được văn bản? Qua thực tế điều
tra nhiều học sinh không biết tóm tắt văn bản, một số em được gọi lên tóm tắt lại
kể lại truyện theo trí nhớ của mình hoặc không thể nhớ được toàn bộ câu
chuyện. Điều này đã khiến nhiều em chán nản và dần mất đi sự hào hứng trong
giờ học.
Để thu hút và làm cho học sinh không còn cảm thấy khó khăn khi tóm tắt
văn bản thì giáo viên phải có cách hướng dẫn cụ thể rõ ràng cho học sinh:
- Đọc kĩ văn bản, xác định nhân vật chính, ghi nhớ các đặc điểm nổi bật
của nhân vật chính.
- Chọn các sự việc cơ bản xảy ra với nhân vật chính và diễn biến của các
sự việc đó.
- Tóm tắt các hành động, lời nói, tâm trạng của nhân vật chính theo diễn
biến của các sự việc đó.
Lưu ý: Tóm tắt phải ngắn gọn, rõ ràng bằng lời văn của mình và phải
trung thành với văn bản gốc (Có thể kết hợp với việc dẫn nguyên văn một số từ
ngữ, câu văn trong văn bản gốc).
Ví dụ: Tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt văn bản “Làng” của Kim Lân qua
hệ thống câu hỏi:
- Nhân vật chính trong truyện là ai?
- Đặc điểm chính của nhân vật này là gì?
- Ở nơi tản cư tâm trạng của ông Hai như thế nào?

- Khi nghe tin làng theo Tây tâm trạng của ông ra sao?
- Khi nghe tin cải chính ông có hành động và tâm trạng gì?
Cụ thể HS cần tóm tắt được văn bản :
Truyện kể về nhân vật ông Hai- người làng Chợ Dầu ở Bắc Ninh.Ông là
người luôn tự hào, kiêu hãnh về làng Chợ Dầu và “mắc tật” khoe làng với mọi
người. Kháng chiến bùng nổ, ông Hai phải đưa vợ con đi tản cư. Ở nơi tản cư,
ông luôn nhớ làng , mong muốn được trở về cùng du kích kháng chiến. Nghe
tin làng Chợ Dầu làm “Việt gian” theo giặc, ông Hai đau đớn, phẫn nộ và tủi
nhục, không dám gặp ai, nhìn ai. Ông rơi vào tâm trạng đầy mâu thuẫn: vừa yêu
thương, vừa căm giận, vừa tin tưởng, vừa ngờ vực. Nghe tin cải chính về làng
Chợ Dầu không theo giặc, ông Hai vui mừng khôn xiết, lại hớn hở đi khắp nơi
khoe nhà mình bị Tây đốt.
Với cách tóm tắt ngắn gọn văn bản, học sinh không còn sợ “dài lắm, em
không tóm tắt được” từ đó học sinh có ý thức hơn khi tóm tắt văn bản và sẽ hào
hứng hơn khi xung phong tóm tắt để lấy điểm và nhận lời khen gợi của cô giáo.
* Sử dụng hệ thống câu hỏi linh hoạt – yếu tố tạo nên thành công cho mỗi
bài giảng.
Trong giờ học văn, câu hỏi có thể dùng ở tất cả các giai đoạn dẫn dắt học
sinh chiếm lĩnh tác phẩm, song hỏi như thế nào, hỏi vào lúc nào và ra sao, thì
lại là điều trăn trở, suy nghĩ của người giáo viên. Bởi trong giờ học văn, không
phải học sinh nào cũng cảm thụ tốt tác phẩm. Để kích thích và phát huy tính
tích cực của học sinh, giáo viên phải dùng hệ thống câu hỏi linh hoạt đối với
mỗi tác phẩm, mỗi nội dung tác phẩm và với mỗi đối tượng học sinh. Câu hỏi
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
12
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
phải vừa sức và có tính chất phân loại đối tượng học sinh. Câu hỏi phải xây
dựng theo cấp độ từ dễ đến khó. Có như vậy, giờ học văn mới đảm bảo sự sáng
tạo và hứng thú cho các em.
a. Câu hỏi phân loại đối tượng học sinh:

Ví dụ: Dạy văn bản “Chiếc lược ngà”
- Câu hỏi ở hoạt động Tìm hiểu chung: Hướng đến xác định nhân vật
chính, nhân vật phụ, có các dạng cho mỗi nhóm đối tượng sau:
+ Dạng 1: (Dành cho học sinh yếu) Hãy chỉ ra nhân vậy chính của truyện?
+ Dạng 2: (Dành cho học sinh trung bình, khá) Vì sao em xác định được
nhân vật chính?
+ Dạng 3:( Dành cho học sinh giỏi) Xác định hai tình huống của truyện?
Hai tình huống ấy xoay quanh nhân vật nào? Các tình huống ấy có ý nghĩa gì
đối với việc xây dựng nhân vật và phát triển chủ đề câu chuyện?
- Câu hỏi Đọc - tìm hiểu chi tiết :
+ Dạng 1:(Dành cho học sinh yếu) Khi chưa nhận ra anh Sáu là cha mình
bé Thu đã có phản ứng và hành động gì đối với anh Sáu? ( nói trổng, hất trứng
cá)
+ Dạng 2: (Dành cho học sinh trung bình, khá)Theo em những phản ứng,
hành động của bé Thu có phải là dấu hiệu của đứa trẻ hư không ? Vì sao?
+ Dạng 3: (Học sinh giỏi) Nêu đánh giá của em về hành động, phản ứng
của bé Thu với ông Sáu?
Sau khi ba nhóm đại diện trả lời, giáo viên chốt: Phản ứng của bé Thu
không phải là của đứa trẻ hư. Em còn quá nhỏ không hiểu tình cảnh khắc
nghiệt của chiến tranh, chưa hiểu nguyên nhân dẫn đến vết sẹo của ba. Hơn
nữa, người lớn chưa chuẩn bị tâm lí cho em nên phản ứng của bé Thu thể hiện
cá tính mạnh mẽ và tình yêu sâu sắc mãnh liệt em dành cho ba- người đàn ông
chụp ảnh chung với má.
- Ở câu hỏi tổng kết, củng cố:
+ Dạng 1: (Dành cho học sinh yếu) Câu hỏi trắc nghiệm:
Truyện đã thành công ở những biện pháp nghệ thuật nào?
A. Cốt truyện. B. Xây dựng nhân vật.
D. Tình huống truyện. E. Tất cả các đáp án trên.
(Cả bốn đáp án trên)
+ Dạng 2: (Học sinh tung bình khá) Nội dung truyện ngắn Chiếc lược ngà

toát lên ý nghĩa gì? (Ca ngợi tình phụ tử sâu sắc, thiêng liêng, lên án chiến
tranh xâm lược)
+ Dạng 3: (Học sinh giỏi) Được sống trong hòa bình, em mong ước điều
gì cho những người như cha con ông Sáu? Hãy bình về hình ảnh chiếc lược
ngà?
( Học sinh thể hiện mong ước)
Giáo viên chốt: Không có chiến tranh, đó là mong ước không chỉ của
riêng các em mà là của tất cả mọi người. Chúng ta mong ước mỗi gia đình đều
có cuộc sống sum vầy hạnh phúc, cha con không bị xa cách, không phải sống
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
13
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
trong nhớ nhung, mong đợi… Chiếc lược ngà là kỉ vật thiêng liêng, chiếc lược
ngà là tình cha ấm áp, yêu thương, chiếc lược của hi vọng, của niềm tin.
b. Kết hợp linh hoạt các dạng câu hỏi .
- Câu hỏi tái hiện: Ở dạng câu hỏi này, giáo viên đặt những câu hỏi yêu
cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy
luận. Loại câu hỏi này giúp học sinh tái hiện thế giới nghệ thuật của tác phẩm
như: các hình ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật, nhân vật…Các câu hỏi này có
khả năng khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng trong quá trình tếp nhận ở học sinh.
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, giáo
viên có thể hỏi: “Không gian mặt đường được nhà văn miêu tả qua các chi tiết
nào trong tác phẩm? Hãy tái hiện lại không gian đó? Sau khi học sinh điểm qua
một vài chi tiết như: Con đường bị đánh lở loét, máy bay rít, phản lực gầm gào,
bom nổ…xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu. Giáo viên hướng dẫn học
sinh phân tích cái hiện thực của các chi tiết trên và cho các em liên hệ một số tác
phẩm khác để tái hiện lại không gian cuộc chiến tranh tàn khốc( Ví dụ: “Bài thơ
về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật)
- Câu hỏi tìm tòi: (Vấn đáp, phát hiện) Đây là câu hỏi trọng tâm trong
giờ học văn. Sự cảm thụ tác phẩm của học sinh qua con đường nhận thức, để

học sinh nắm bắt chính sác tác phẩm, giáo viên phải đặt những câu hỏi khơi dậy
tư duy ở các em. Hệ thống câu hỏi phải được sắp đặt hợp lí nhằm phát hiện, đặt
ra và giải quyết một vấn đề xác định buộc học sinh phải liên tục cố gắng, tìm lời
giải đáp. Giáo viên giữ vai trò chỉ đạo, tổ chức sự tìm tòi còn học sinh phát hiện
kiến thức để kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có niềm vui của sự khám phá,
vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được cách thức đi tới kiến thức và trình
độ tư duy của các em cũng được củng cố hơn.
Ví dụ: Khi phân tích về nhân vật Phương Định trong truyện ngắn “Những
ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, giáo viên đặt câu hỏi: “Truyện có những
nhân vật nào? Ai là nhân vật chính? (Phương Định) Tìm những chi tiết giới
thiệu về Phương Định?
Với những câu hỏi khó, giáo viên cần gợi mở, để học sinh tìm tòi và phải
kích thích sự cảm thụ của học sinh. Ví dụ: “Phương Định được giới thiệu trên
những phương diện nào?”
Không nên đặt những dạng câu hỏi mà chỉ yêu cầu học sinh trả lời có
hoặc không. Ví dụ: Khi giảng tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long, giáo viên không nên đặt những câu hỏi như: “Đọc xong tác phẩm, em
thấy anh thanh niên có phải là người mang nhiều phẩm chất tốt đẹp không? Mà
giáo viên phải đặt những câu hỏi giúp học sinh tìm những chi tiết cho thấy
những phẩm chất tốt đẹp của anh thanh niên, những phẩm chất ấy được thể hiện
cụ thể như thế nào?
Kết thúc đàm thoại, giáo viên cần tổng hợp ý kiến của học sinh để kết
luận vấn đề đặt ra( có bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết). Làm được như vậy, học
sinh càng hứng thú, tự tin và thấy trong kết luận của cô có phần đóng góp ý kiến
của mình. Để lôi cuốn và tạo hứng thú cho học sinh hơn, sau mỗi đoạn, mỗi
vấn đề, giáo viên chốt lại bằng các lời bình hay, thuyết phục.
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
14
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
- Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề tiềm ẩn trong

tác phẩm, phải gây hứng thú cho học sinh và phải động viên, khuyến khích học
sinh giải quyết vấn đề đã nêu.
Ví dụ: Khi dạy bài “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng,
giáo viên có thể hỏi: “Có ý kiến cho rằng: “Bé Thu có tình yêu cha sâu sắc,
mãnh liệt”, có ý kiến lại cho rằng: “Bé Thu là đứa trẻ ngang ngạnh, cứng
đầu”,có ý kiến cho rằng: “Bé Thu ngang ngạnh cứng đầu như vậy vì em rất yêu
thương cha”. Câu hỏi này đặt ra khi phân tích nhân vật bé Thu. Để giúp học sinh
giải quyết được câu hỏi trên, giáo viên có thể gợi mở? Vì sao bé Thu nhất định
không gọi ông Sáu là ba?(Vì ông Sáu có vết thẹo dài trên má- không giống
người cha em đã thấy trong ảnh) Vậy vết thẹo ở đây- chi tiết nghệ thuật đặc sắc,
gây kịch tính là thắt nút của vấn đề khiến bé Thu không nhận cha.Việc bé nhất
định không gọi ông Sáu là cha và có hành động “hất tung cái trứng cá” không
phải là bé Thu ngang ngạnh, cứng đầu mà vì bé muốn dành tình yêu cho người
cha đích thực của mình.
- Câu hỏi phân tích, nhận xét, đánh giá: Sau khi nêu ra các câu hỏi tái
hiện, giáo viên nên đặt những câu hỏi để tìm ra những lí do: Tại sao lại xây
dựng, sử dụng những hình ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật đó? Ý nghĩa của
vấn đề? Loại câu hỏi này giúp học sinh phân tích, đánh giá và khái quát vấn đề
về hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác phẩm. Ví dụ: Khi giảng bài
“Làng” của Kim Lân, giáo viên có thể hỏi: “Tại sao tác giả không mở đầu tác
phẩm của mình bằng sự việc ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây? Phân
tích tình huống ấy? Đối với loại câu hỏi này, giáo viên hướng dẫn học sinh vào
nghệ thuật tạo dựng tình huống của tác giả. Nếu để cho ông Hai nghe tin làng
Chợ Dầu theo giặc ở đầu câu chuyện thì truyện ngắn của Kim Lân không tạo
được tình huống gay cấn – một nghệ thuật đặc sắc, để bộc lộ sâu sắc tình yêu
làng, yêu nước của nhân vật ông Hai.
- Câu hỏi khái quát, tổng hợp: Đây là loại câu hỏi nhằm khái quát, tổng
hợp lại vấn đề sau mỗi mục, mỗi phần để học sinh có thể thâu tóm được toàn bộ
nội dung và nghệ thuật của mỗi mục, mỗi phần đó.Ví dụ: Khi giảng bài “Những
ngôi sao xa xôi”, để chốt lại phần phân tích nhân vật Phương Định, giáo viên có

thể hỏi: Qua những chi tiết vừa tìm hiểu, em thấy Phương Định là một cô gái
như thế nào? Nhận xét của em về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả?
* Sử dụng các phương pháp theo đặc trưng bộ môn
- Giảng bình – một phương pháp tạo nên thành công trong giờ giảng
văn.
Giảng bình là một phương pháp quen thuộc trong giờ giảng văn và nó trở
thành bí quyết cho sự thành công của giáo viên. Giáo viên có “chất văn” sẽ thể
hiện qua lời bình và giờ giảng văn sẽ hứng thú, lôi cuốn hơn. Để có lời bình tốt,
giáo viên phải am hiểu, cảm sâu sắc tác phẩm tới mức nhuần nhuyễn đến độ
biến thành rung động cảm xúc, tình cảm chủ quan, mới có khả năng gây cảm và
truyền cảm. Song, giờ giảng văn sẽ không thành công nếu giáo viên lạm dụng
lời bình. Phạm vi bình trong một tác phẩm là rất rộng, có thể là đề tài, chủ đề,
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
15
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
kết cấu, ý nghĩa Giáo viên phải biết chọn lựa, lời bình cho hợp lí và “đắt giá”
nhất.
Ví dụ: Khi giảng tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân, giáo viên có thể
bình về tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc: “Ông Hai –
một người nông dân có tình yêu làng quê thật đặc biệt. Ông yêu cái làng của
mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên
như đứa trẻ thơ. Thế mà, đùng một cái ông nghe được cái tin làng Chợ Dầu của
ông theo Tây làm việt gian – cái tin như sét đánh ngang tai khiến ông bàng
hoàng, sững sờ. Mọi thứ trước mắt ông như đổ sụp, tăm tối. Càng yêu làng, hãnh
diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông lại đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà
văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện
sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến
tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai”.
Có khi giáo viên bình về một nét đẹp của nhân vật, khi giảng tác phẩm
“Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long: “Công việc vất vả và có những đóng

góp quan trọng cho đất nước như thế nhưng anh thanh niên hiếu khách, sôi nổi
ấy lại rất khiêm tốn. Anh luôn cảm thấy mình bình thường như bao người khác.
Anh hiểu được ý nghĩa công việc mình làm là lớn lao nhưng lại cho những đóng
góp của mình là vô cùng nhỏ bé so với bao nhiêu người khác. Khi ông họa sĩ
phác họa bức chân dung anh nhưng anh đã khẩn khoản từ chối và cho rằng còn
có rất nhiều người đáng vẽ hơn anh Có thể nói, qua cuộc gặp gỡ và trò chuyện
ngắn ngủi giữa ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ, ta thấy người thanh niên ấy thật
đáng yêu biết bao”.
Phân tích tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm truyện hiện đại ở lớp
9 nói riêng, giáo viên phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa giảng và bình. Nhờ bình
mà lời giảng thêm sâu nhưng bình phải dựa trên giảng. Để đi đến lời bình này,
giáo viên phải giảng cho học sinh hiểu công việc của anh thanh niên và những
đóng góp của những người lao động đang âm thầm cống hiến hết mình cho đất
nước. Cũng từ đó học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn về con người, đặc biệt là thế
hệ trẻ Việt Nam.
- So sánh trong phân tích tác phẩm truyện hiện đại.
So sánh trong phân tích tác phẩm truyện hiện đại là phương pháp đối
chiếu giữa các hiện tượng có ý tương đồng hoặc tương phản thuộc một tác phẩm
hoặc những tác phẩm của cùng tác giả hay khác tác giả, giữa tác phẩm với thời
đại mục đích là để làm sáng tỏ tác phẩm.
Vận dụng phương pháp này sẽ giúp cho việc phân tích tác phẩm được sâu
hơn. Giờ học sẽ trở nên sinh động, phát huy được tính tích cực của học sinh.
Để phương pháp này đạt được hiệu quả cao, giáo viên phải biết lựa chọn
nội dung (đối tượng) so sánh. Bởi không phải tác phẩm nào khi giảng dạy cũng
cần áp dụng phương pháp so sánh; mặt khác, ngay cả những tác phẩm có vấn đề
cần so sánh thì cũng không thể so sánh tùy tiện các chi tiết, hay hiện tượng nghệ
thuật nào.
Ví dụ: Khi giảng dạy tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh
Khuê, giáo viên có thể áp dụng phương pháp so sánh để làm nổi bật những giá
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung

16
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, giáo viên phải chọn lựa nội dung so
sánh hợp lí như hình ảnh Những cô gái thanh niên xung phong hay đề tài viết về
người lính, chiến tranh làm nội dung so sánh vì đây là một trong những hình
ảnh, đề tài tiêu biểu của tác phẩm và học sinh cũng đã được tiếp cận qua một số
tác phẩm trong chương trình.
Sau khi đã chọn nội dung cần so sánh, giáo viên phải xác định nội dung
ấy được so sánh trong phạm vi nào và đối tượng cụ thể được dùng để so sánh ở
đây là gì? Và phải đặt câu hỏi cho mỗi nội dung so sánh. Để thực hiện tốt
phương pháp so sánh, giáo viên cần căn cứ vào những phạm vi sau:
- So sánh tác phẩm này với tác phẩm khác cùng đề tài:
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, giáo
viên có thể so sánh lòng dũng cảm của ba cô gái thanh niên xung phong với thái
độ ngang tàng bất chấp hiểm nguy của những người lính lái xe trong Bài thơ về
tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Câu hỏi cụ thể: “Em hãy so sánh
những điểm giống nhau và khác nhau giữa hình ảnh những cô gái thanh niên
xung phong trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê và
hình ảnh những người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của
Phạm Tiến Duật?”
- So sánh tác phẩm với những yếu tố ngoài tác phẩm:
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, giáo
viên có thể so sánh nhân vật anh thanh niên với những tấm gương thanh niên
đang sống và cống hiến hết mình cho đất nước.
- So sánh những yếu tố trong bản thân tác phẩm:
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Làng” của nhà văn Kim Lân, có thể so sánh tâm
trạng của ông Hai trước khi và sau khi nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây để thấy
được điểm nổi bật của nhân vật này là lòng yêu làng, yêu nước sâu sắc.
- Nêu vấn đề:
Dạy học nêu vấn đề là hoạt động dạy học sáng tạo dựa vào những qui luật

của tư duy, đặc biệt là tư duy sáng tạo. Theo Rubinxten “yếu tố đầu tiên của quá
trình tư duy thường là tình huống có vấn đề. Con người bắt đầu tư duy khi có
nhu cầu hiểu biết một cái gì”, vì vậy, để học sinh có thể tiếp nhận, lĩnh hội vững
chắc kiến thức trong mỗi giờ học, giáo viên phải xây dựng được tình huống có
vấn đề và hệ thống câu hỏi nêu vấn. Hơn nữa, tình huống có vấn đề sẽ có tác
dụng lôi cuốn học sinh vào quá trình tư duy. Một bài văn, một tác phẩm văn
chương, số phận nhân vật chỉ trở thành đối tượng suy tư của mỗi người khi
chính người đó nhận ra trong đó một tình huống, một vấn đề, một tâm trạng có
liên quan với tầm suy nghĩ hay rung động của mình. Tác phẩm nào cũng có vấn
đề, nhưng không phải vấn đề nào cũng trở thành tình huống có vấn đề. Sự khéo
léo của người giáo viên là phải tạo ra được những tình huống ấy.
Ví dụ: Khi dạy tác phẩm “Làng” của Kim Lân, giáo viên có thể đặt câu
hỏi: Vì sao khi xây dựng hình tượng nhân vật chính luôn hướng về làng Chợ
Dầu nhưng Kim Lân lại đặt tên truyện ngắn của mình là “Làng” mà không phải
là “Làng Chợ Dầu”?
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
17
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
Câu hỏi phải sát với tác phẩm và khêu gợi hứng thú của học sinh. Giáo
viên phải tính toán để xây dựng câu hỏi vừa phản ánh bản chất của tác phẩm vừa
nằm trong tầm cảm nghĩ của học sinh.
3.3.3. Sử dụng đa dạng các phương tiện – kĩ thuật dạy học.
Trong giờ học truyện hiện đại, việc góp phần không nhỏ tạo nên thành
công là giáo viên sử dụng đa dạng các phương tiện – kĩ thuật dạy học.
* Ứng dụng công nghệ thông tin :
Công nghệ thông tin là một công cụ hỗ trợ vô cùng tích cực và hiệu quả
trong dạy học, đặc biệt là môn Ngữ văn. Nó mang lại cho cả thầy và trò không
gian mới nhiều hứng thú trong giờ học, tạo sự sinh động, hấp đẫn, lôi cuốn.
Song ứng dụng công nghệ thông tin như thế nào để đem lại hiệu quả thì lại là
việc không hề đơn giản đối với nhiều giáo viên.

Trước khi ứng dụng công nghệ thông tin vào giờ học, giáo viên phải
chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu( hình ảnh, clip, bảng đồ…). Sau đó thiết kế bài
giảng điện tử trên PowerPiont. Để phát huy tính tích cực của học sinh thì giáo
viên phải sử dụng công nghệ thông tin phù hợp với yêu cầu bài giảng và đặc
trưng của phương pháp dạy học tích cực. Nội dung bài giảng điện tử cần cô
đọng, ngắn gọn, xúc tích, các mô phỏng cần sát chủ đề( chỉ nên dùng màn chiếu
như một giáo cụ trực quan). Các hiệu ứng cần đơn giản, nhẹ nhàng, tránh gây
mất tập trung vào nội dung bài giảng. Từ đó các em dễ dàng phát huy sự sáng
tạo của mình trong khám phá, tìm hiểu và cảm thụ về giá trị của tác phẩm văn
học và có khả năng vận dụng kiến thức linh hoạt.
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, để
học sinh có thể nắm chắc hơn về tác giả, tác phẩm.
Slide1 : Giáo viên cho học sinh quan sát: Chân dung nhà văn.


Slide2 : GV giới thiệu bổ sung một số nét về tác giả Lê Minh Khuê.

Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
18
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
Slide3 : GV giới thiệu một số tác phẩm chính của Lê Minh Khuê



Để cho học sinh hiểu rõ hơn hoàn cảnh sống và chiến đấu của các cô gái
thanh niên xung phong giáo viên minh họa bằng hình ảnh trong các Slide4,
Slide5




Tùy theo từng nội dung bài học mà giáo viên có thể đưa hình minh họa hoặc
đoạn băng hình sao cho hợp lí, có hiệu quả. Điều này có tác dụng rất lớn đến quá
trình nhận thức của học sinh trong mỗi tác phẩm và bài học càng trở nên sinh
động hấp dẫn, lôi cuốn hơn.
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
19
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
* Kĩ thuật dạy học.
Ngoài việc ứng dụng công nghệ thông tin, để kích thích tinh thần sáng tạo
và làm việc theo nhóm, giáo viên có thể sử dụng các kĩ thuật dạy học như kĩ
thuật khăn phủ bàn hay lập sơ đồ tư duy sau mỗi bài học.
- Kĩ thuật khăn phủ bàn:
Với kĩ thuật khăn phủ này, giáo viên có thể áp dụng linh hoạt vào các
phần của bài giảng sao cho hợp lí. Cụ thể khi thực hiện phần tổng kết bài
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, giáo viên cho học sinh làm việc
theo nhóm trong ba phút với câu hỏi: “ Khái quát lại toàn bộ nội dung và nghệ
thuật chính trong bài Những ngôi sao xa xôi?” Để thực hiên tốt kĩ thuật này,
giáo viên chia lớp thành bốn nhóm( tùy thuộc số lượng học sinh trong một lớp
có thể chia nhiều hơn hoặc ít hơn bốn nhóm) và phải hướng dẫn cụ thể cho các
em và yêu cầu chuẩn bị:
- Dụng cụ: hai tờ giấy A0 cắt làm bốn phần( mỗi nhóm ½ tờ), bút dạ.
- Cách thức: Các nhóm cùng trao đổi, thảo luận, và đưa ra ý kiến cụ thể
của từng thành viên, các em ghi lại ý kiến của mình ở bốn góc xung quanh tờ
giấy đã chuẩn bị câu hỏi. Sau khi các thành viên trong nhóm trả lời xong câu
hỏi, nhóm trưởng tổng hợp lại vào ô trung tâm.
Mô hình cụ thể cho kĩ thuật này:
Cuối cùng giáo viên nhận xét và khái quát lại trên màn hình phần tổng kết như
sau:

Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung


Ý kiến 1
Ý kiến 4 Ý kiến 2
Ý kiến 3
Ý kiến chung
20
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
* Nghệ thuật:
- Kể chuyện ở ngôi thứ nhất.
- Miêu tả tâm lí nhân vật xen lẫn hồi ức, giọng điệu ngôn ngữ tự nhiên.
- Sử dụng nhiều câu văn ngắn.
* Nội dung: Tâm hồn trong sáng, tinh thần lạc quan, dũng cảm của thế hệ trẻ
Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Sau khi nhận xét khái quát, nhóm nào thực hiện tốt nội dung thảo luận
giáo viên khen ngợi, động viên và khích lệ tinh thần các em bằng điểm số, nhóm
nào làm việc chưa tốt có thể nhắc nhở và yêu cầu các em tập trung làm việc tốt
hơn ở các câu hỏi sau.
- Sơ đồ tư duy: là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở
rộng và đào sâu các ý tưởng. SĐTD giúp học sinh học tập tích cực, chủ động,
huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh vẽ SĐTD có ưu điểm là
phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc
( xanh, đỏ, tím, vàng…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong ), các em tự “ sáng
tác” nên trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng
học sinh và SĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác
phẩm” của mình, đồng thời các em có hứng thú hơn với môn học.
SĐTD giúp học sinh ghi chép và khắc sâu kiến thức rất hiệu quả. Do đặc
điểm của SĐTD nên người thiết kế SĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp
xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng SĐTD sẽ
giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả.
Giáo viên có thể sử dụng SĐTD trong các phần của giờ học:

Ví dụ: Sau khi học xong văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, giáo
viên có thể cho học sinh khái quát lại kiến thức bằng sơ đồ tư duy sau:
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
21
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
- Dùng SĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, bài học và hệ thống
kiến thức sau mỗi chương, phần… Giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự
hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ
SĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
22
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách
nhanh chóng, dễ dàng.
Ví dụ: Để củng cố kiến thức sau khi học xong văn bản “Chiếc lược ngà”, giáo
viên cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy:
Ông Sáu về phép thăm nhà.
Bé Thu không nhận ông Sáu là cha. Tình yêu thương ba
mãnh
Ngày ông Sáu lên đường, bé Thu mới nhận liệt của bé Thu.
ra cha.



Tình huống Nội dung Tình yêu thương con thắm
Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết thiết, sâu nặng của ông Sáu
tình yêu thương vào làm chiếc
lược nhưng chưa kịp trao cho
con thì ông đã hi sinh.
Thứ nhất

Ngôi kể Tình huống éo le
Bác Ba, bạn ông Sáu

Cốt truyện có
Câu chuyện cảm động về tình cha con yếu tố bất ngờ
Ý nghĩa Nghệ thuật
Miêu tả tâm lí
Những mất mát của chiến tranh
mà dân ta phải gánh chịu
Lời kể giản dị,
đậm màu sắc
Nam Bộ
- Trò chơi tiếp sức.
Sau mỗi tiết học văn, các em thường mệt mỏi, thiếu năng động, để tạo
hứng thú và khơi dậy tinh thần cho các em cuối giờ học, giáo viên có thể tổ chức
cho các em chơi các trò chơi như Tiếp sức.
Ví dụ: Giáo viên có thể thực hiện trong phần tổng kết hoặc phần củng cố
bài học. Cách chơi cụ thể như sau: Giáo viên chọn sáu học sinh, chia làm hai
đội, mỗi đội ba em thực hiện yêu cầu: “Ghi lại những sự việc chính trong truyện
ngắn “Chiếc lược ngà”, thời gian chơi ba phút, thời gian tính bắt đầu bằng hiệu
lệnh của giáo viên, mỗi lượt chơi chỉ cho phép một thành viên trong đội tham
gia, mỗi lượt chơi là một sự việc, cứ như vậy các em tiếp sức cho nhau đến hết
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
23
CHIẾC
LƯỢC NGÀ
CHIẾC
LƯỢC NGÀ
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
cuộc chơi, đội chơi nào chiến thắng sẽ được nhận phần thưởng bằng điểm số và

lời khen ngợi của giáo viên.
Với trò chơi này, các em sẽ không còn cảm thấy mệt mỏi hay nhàm chán,
mà trái lại, các em vô cùng hào hứng và thích thú.
3.3.4 Hướng dẫn học sinh chuẩn bị tốt bài ở nhà – khâu then chốt giúp học
sinh chủ động tiếp nhận tác phẩm.
Như trên đã nói, học sinh thường rất coi nhẹ việc chuẩn bị bài ở nhà, thậm
chí là không học và soạn bài. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tiếp
nhận tác phẩm của học sinh trên lớp. Vì vậy, để học sinh hứng thú với giờ học
văn, giáo viên phải làm tốt khâu: Hướng dẫn về nhà. Làm thế nào để học sinh
không cảm thấy bị ép buộc mà coi đó là công việc cần làm trước khi đến lớp?
Giáo viên phải linh hoạt, khéo léo trong cách hướng dẫn:
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài theo nhóm:
Ví dụ: Khi tìm hiểu về tác giả Kim Lân (Văn bản Làng), giáo viên giao
nhiệm vụ cho học sinh: “Về nhà tìm hiểu những thông tin đầy đủ về tác giả Kim
Lân và tác phẩm Làng?”
Giáo viên yêu cầu cả bốn nhóm cùng thực hiện một câu hỏi. Nhóm nào có
kết quả đầy đủ và đúng nhất về tác giả sẽ được khen thưởng như cho điểm theo
nhóm, nếu học sinh nào không cộng tác sẽ bị phê bình và chịu khuyết điểm.
- Hướng dẫn học sinh soạn bài bằng các câu hỏi trọng tâm:
Để khơi gợi hứng thú của học sinh, câu hỏi chuẩn bị tuyệt đối không được
tùy tiện. Mỗi câu hỏi cho học sinh vừa có tác dụng khêu gợi hứng thú, vừa
hướng dẫn đi vào thế giới trung tâm cảm hứng của tác giả, vừa có tác dụng
chuẩn bị cho hoạt động khám phá của giáo viên và học sinh trên lớp.
Ví dụ 1: Khi hướng dẫn học sinh soạn bài “Lặng lẽ Sa pa” của Nguyễn
Thành Long, giáo viên định hướng cho học sinh bằng những câu hỏi trọng tâm
sau:
+ Truyện kể về điều gì? Ai là nhân vật chính? Nhân vật này có những đặc
điểm và phẩm chất tốt đẹp nào?
+ Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Nhân vật chính hiện lên qua điểm
nhìn của nhân vật nào?

+ Cách gọi tên nhân vật có gì đặc biệt? Dụng ý của nhà văn là gì?
+ Nhan đề của truyện gợi cho em suy nghĩ gì?
Ví dụ 2: Khi hướng dẫn soạn bài Làng của Kim Lân, giáo viên định
hướng:
+ Chỉ ra các tình huống trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân?
Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai qua các tình huống?
+ Ông Hai là nhân vật khá thành công của nhà văn Kim Lân. Hãy chỉ ra
những nghệ thuật tiêu biểu để tạo nên thành công đó?
- Giáo viên dành thời gian để hướng dẫn cụ thể:
Ví dụ: Khi hướng dẫn soạn bài Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn
Quang Sáng:
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
24
Đề tài SKKN:Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học truyện hiện đại – Ngữ văn 9
+ Đọc kĩ tác phẩm, tác giả, chú thích từ khó, gạch chân, ghi lại những
đoạn hay của tác phẩm, ghi nhớ, suy ngẫm những câu, đoạn mà mình tâm đắc
nhất.
+ Tóm tắt nội dung chính của đoạn trích.
+ Trả lời các câu hỏi phần đọc – hiểu trong sách giáo khoa.
+ Cảm nhận được tình cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến
tranh.
+ Nắm được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt là tâm lí trẻ thơ,
nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ và tự nhiên của tác giả.
- Đến lớp giáo viên phải kiểm tra công việc chuẩn bị ở nhà của học sinh
(Chấm vở soạn bài). Đây không chỉ đơn thuần là bước kiểm tra mà nó còn giúp
giáo viên nắm được tâm trạng của học sinh trước khi vào học bài. Qua đó giáo
dục ý thức chuẩn bị bài cũng như học bài của học sinh để từ đó các em đi vào
nề nếp, tạo thành thói quen trong mỗi giờ học văn. Tâm lí bị “ép buộc” soạn bài
sẽ không còn mà thay vào đó là hứng thú nhận điểm và lời khen của cô giáo khi
chuẩn bị tốt bài ở nhà.

Phần minh họa cụ thể :
Tiết 141 NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI (Trích)
- Lê Minh Khuê -

I. Mức độ cần đạt:
Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những cô gái thanh niên xung phong trong
truyện và nét đặc sắc trong cách miêu tả nhân vật và nghệ thuật kể chuyện của
Lê Minh Khuê.
1. Kiến thức:
- Vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, tính cách dũng cảm, hồn nhiên trong cuộc sống
chiến đấu nhiều gian khổ, hi sinh nhưng vẫn lạc quan của những cô gái thanh
niên xung phong trong truyện.
- Thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật, lựa chọn ngôi kể, ngôn ngữ kể
hấp dẫn.
2. Kĩ năng:
- Đọc - hiểu một tác phẩm tự sự sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ
cứu nước.
- Phân tích tác dụng của việc sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng “tôi”.
- Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng nhân vật trong tác phẩm.
3. Thái độ:
- Biết ơn những người đã hi sinh vì đất nước, ca ngợi sự can đảm của các cô gái
thanh niên xung phong thời chống Mĩ cứu nước
II. Chuẩn bị
- GV: Tư liệu, tranh về tác giả, tác phẩm.
- HS: Soạn bài theo yêu cầu.
III. Phương pháp:
- Đàm thoại, gợi mở, nêu vấn đề, phân tích, thảo luận nhóm, giảng bình…
Giáo viên : Nguyễn Thị Hoàn Trường: THCS Phương Trung
25

×