SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
" BIỆN PHÁP SỬA LỖI CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH LỚP
4"
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục hiện nay là đào tạo nên những con người mới,
con người phát triển toàn diện. Cơ sở nền móng của sự phát triển này là học
sinh cấp Tiểu học. Việc giáo dục học sinh Tiểu học được thực hiện chủ yếu
thông qua các môn học trong nhà trường, trong đó môn Chính tả giữ một vị trí
quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu trên.
Môn chính tả lại là một môn học có tầm quan trọng trong việc dạy học Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Môn
Chính tả còn là môn học công cụ giúp cho học sinh học tốt những môn học khác. Muốn viết đúng chính tả
Tiếng Việt ta phải tuân theo những quy định, quy tắc đã được xác lập thành một quy luật chung của ngôn ngữ
viết .
Tuy nhiên trong thực tế, đa số học sinh lớp 4 còn viết sai chính tả rất nhiều. Có những học sinh trong một bài
chính tả viết sai hơn 10 lỗi. Khi chấm bài tập làm văn của một số em tôi không thể hiểu các em muốn diễn đạt
điều gì vì bài viết quá nhiều lỗi chính tả. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập môn Tiếng Việt
cũng như những môn học khác và quá trình hình thành nhân cách của học sinh.
Từ những lí do trên, tôi suy nghĩ, tìm tòi tài liệu và đưa ra đề tài “Biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho sinh
lớp 4”.Nhằm giúp các em viết đúng chính tả, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp, nhằm mục tiêu
đào tạo những chủ nhân tương lai năng động, sáng tạo phù hợp với xu thế phát triển hiện nay.
II/ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu thực trạng và tình hình viết chính tả của học sinh ở lớp 4E, ở
trường Tiểu học Mỹ Lộc. Tổng hợp, phân tích, kết luận, đề xuất một số giải
pháp trong việc rèn viết chính tả cho học sinh tiểu học trong giai đoạn hiện
nay.
III/ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
2
Tiến hành nghiên cứu tình hình học sinh ở lớp, ở trường, tham khảo tài liệu
có liên quan, tiếp cận học sinh, thống kê số liệu, phân tích đối chứng từ thực
tế… để tiến hành nghiên cứu.
IV. CƠ SỞ VÀ THỜI GIAN TIẾN HÀNH:
a) Cơ sở: Qua nhiều năm giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm, tập hợp kinh
nghiệm ở đồng chí, đồng nghiệp trong việc rèn viết chính tả, khắc phục lỗi cho
học sinh.
b) Thời gian: Đề tài này được tôi đầu tư tiến hành nghiên cứu từ tháng 8 năm
2011 đến nay.
PHẦN II: NỘI DUNG
I/ TÌNH TRẠNG SỰ VIỆC HIỆN TẠI:
Qua thời gian thực hiện chương trình đổi mới phương pháp dạy học của Bộ
GD - ĐT, cùng với sự chỉ đạo của trường, giáo viên đã vận dụng phương pháp
mới và đã gặt hái được những thành công thiết thực. Song trong những năm
qua tôi thấy rằng dạy môn Tiếng Việt gặp rất nhiều khó khăn nhất là viết chính
tả của phân môn. Do đó chất lượng viết chính tả của học sinh chưa cao,
nguyên nhân đó là:
1.Về học sinh:
- Học sinh chưa nhận thức được việc học là quan trọng. Đại đa số học sinh ở
vùng thôn quê còn nhút nhác dẫn đến tiếp thu môn học còn rất nhiều hạn chế.
3
- Các em học sinh tiểu học còn nhỏ nên việc tự học hình như không có. Một số
em đi học mà chưa chú ý đến việc học. Hầu hết các em học ở lớp, còn về nhà
các em ít xem lại bài. Có một số ít em học đọc còn yếu không chuyên cần,
không phân biệt được tiếng đồng âm, viết chậm do đó rất khó khăn trong việc
luyện tập cho các em viết đúng.
- Học sinh phát âm nặng tiếng địa phương mà đọc sao viết vậy cho nên việc
sửa chữa hết sức khó khăn. Đặc biệt, các em hay phát âm lẫn lộn ở các âm cuối
t – c, n – ng, các phụ âm đầu x – s, qu – v, các vần có nguyên âm đôi uô, ươ,
iê, âm đệm o, u, thanh hỏi – thanh ngã, quy tắc viết hoa, dẫn đến sai nhiều lỗi
trong một bài là điều không tránh khỏi.
2. Về giáo viên:
- Giảng dạy thiếu nhiệt tình, chưa chịu khó sửa chữa triệt để cho học sinh viết
sai, dẫn đến trở thành thói quen. Từ đó làm cho học sinh viết chính tả chưa
chuẩn mắc khá nhiều lỗi.
- Giáo viên phối hợp các phương pháp dạy học chưa linh hoạt, không sát với
từng đối tượng học sinh, chưa nắm bắt được hết tâm sinh lí của trẻ. Chưa
chuyển biến kịp thời với việc vận dụng phương pháp dạy học thích hợp. Giáo
viên còn hướng dẫn chung chung mang nặng tính hình thức, áp đặt.
- Lên lớp ít sử dụng những đồ dùng trực quan gây sự hứng thú, tìm tòi, sáng
tạo cho học sinh. Chưa động viên, khuyến khích kịp thời để khích lệ tinh thần
học sinh.
4
- Giáo viên còn ít quan tâm đến đối tượng học sinh yếu, uốn nắn chưa kĩ còn
mang tính chung chung. Giáo viên chủ yếu hướng dẫn, sửa chữa trong tiết
Chính tả, hầu như ở các môn học khác chưa có sự quan tâm gì nhiều lắm.
3. Về phụ huynh:
- Phụ huynh đa số ở nông thôn, công việc nhà nông bận rộn nên rất ít có thời
gian quan tâm đến việc học của con em. Chủ yếu các em chỉ học trên lớp,
trong khi đối với học sinh các em không được nhắc nhở thường xuyên sẽ
không tự giác học tập dẫn đến kết quả thấp.
Với những lí do nêu trên, vận dụng kinh nghiệm thực tế từ những năm học
trước đề ra một số giải pháp áp dụng vào việc nâng cao chất lượng môn Chính
tả cho học sinh đạt hiệu quả cao ở tại lớp 4E do tôi chủ nhiệm.
II/ NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP MỚI:
1. Tích cực luyện phát âm đúng:
- Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho
học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc
ngữ là chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.
- Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tập đọc mà được thực
hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả,
Luyện từ và câu, Tập làm văn… Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm ( nói ngọng, nói
lắp…) giáo viên lưu ý học sinh chú ý nghe phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo viên phải cố gắng phát âm rõ
ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng được.
5
2. Giải nghĩa từ:
- Biện pháp thứ hai để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ.
Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc,
Tập làm văn… nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết Chính tả, khi mà học sinh
không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.
- Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh
đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật
thật, mô hình, tranh ảnh,…
Ví dụ: Phân biệt chiêng và chiên
+ Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh cái chiêng hoặc miêu tả đặc điểm
(chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình tròn, đánh bằng dùi, âm thanh vang dội).
+ Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên hoặc giải thích bằng định nghĩa (chiên
là làm chín thức ăn bằng cách cho thức ăn vào chảo dầu, mỡ, đun trực tiếp trên bếp lửa).
- Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.
3. Ghi nhớ mẹo luật chính tả:
- Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng
loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu
hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như:
các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp
thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn,
sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên,
sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…
6
+ Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng
(ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh
thuộc 2 câu thơ:
Em Huyền mang nặng, ngã đau
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ
mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc
ngược lại).
Ví dụ:
* Bổng
Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…
Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…
Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ r
* Trầm:
Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã
Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…
Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh
đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh…
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng,
đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, ăng ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng
7
pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, đùng
đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ tượng hình: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ
xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
4. Phân tích, so sánh:
- Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so
sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh
ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “muống” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “muốn”, giáo viên
yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- Muống = M + uông + thanh sắc
- Muốn = M + uôn + thanh sắc.
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “muống” có âm cuối là “ng”, tiếng
“muốn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ
không viết sai.
5. Làm các bài tập chính tả:
Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã
học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy
tắc chính tả để các em ghi nhớ.
Ví dụ: * Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
Cháu bé đang uống ……… (sửa, sữa)
Học sinh … mũ chào thầy giáo. (ngả, ngã).
8
Đôi …… này đế rất …… (giày, dày)
Sau khi ……. con, chị ấy trông thật …… (xinh, sinh)
Ngoài ra, việc kiểm tra “viết đúng chính tả” của giáo viên đối với học sinh không chỉ ở môn Chính tả mà cũng
cần lưu ý nhắc nhở học sinh trong tất cả các môn học khác trong chương trình, đặc biệt là môn Tập làm văn.
Việc này phải được tiến hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kỹ năng “viết đúng” trong
mọi tình huống.
Trong quá trình đứng lớp, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy học sinh đã có tiến bộ khá rõ rệt. Bản
thân các em cũng ý thức hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em trước kia thường sai 9, 10
lỗi thì nay chỉ còn 3, 4 lỗi, những em trước kia sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi… Tuy rằng đây mới chỉ là kết
quả hết sức khiêm tốn và việc “giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả” là một quá trình lâu dài song tôi vẫn cảm
thấy rất vui vì công việc mình làm đã bước đầu có hiệu quả.
III. KẾT QUẢ CỤ THỂ:
Để nâng cao chất lượng về khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 4, tôi luôn
lắng nghe và uốn nắn cho từng học sinh, đặc biệt quan tâm học sinh yếu kém
bằng nhiều hình thức. Phối hợp hài hoà giữa các phương pháp dạy – học phát
huy cao nhất tính tích cực, tự giác của học sinh. Giúp học sinh tự tin và hứng
thú trong học tập, đồng thời chúng ta cần thể hiện hết sự nhiệt tình, ý thức
trách nhiệm và lương tâm của người giáo viên trong giảng dạy. Tôi tin chắc
rằng sẽ mang lại kết quả như mong muốn, học sinh sẽ viết đúng, phát âm
chuẩn và các em viết chính tả một cách thành thạo có chất lượng cao.
Nhờ vận dụng những giải pháp vừa nêu trên vào thực tế lớp mình giảng dạy,
năm học 2011 – 2012 chất lượng của lớp đã đem lại kết quả khả quan. Kết quả
học tập tăng lên rõ rệt. Cụ thể:
9
Chất lượng Giỏi Khá Trung bình Yếu
Đầu năm 15 12 4 2
Giữa kì I 20 10 2 1
PHẦN III: KẾT LUẬN
1.Kết luận:
- Tổng số học sinh của lớp là 33 em. Qua thực trạng giảng dạy, qua nghiên cứu
kĩ mục đích, yêu cầu môn học bản thân tôi rút ra một số kết luận sau:
Việc dạy học là một nghệ thuật đầy tính sáng tạo, đòi hỏi người giáo viên phải
biết sử dụng linh hoạt các phương pháp, các kĩ thuật dạy học.
Để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh, giáo viên cần phải luyện cho học sinh
phát âm chuẩn, biết vận dụng kết hợp mẹo luật chính tả để viết đúng, thành
thạo; biết sử dụng đồ dùng trực quan linh hoạt, đúng lúc; động viên khích lệ
học sinh tự tìm ra kiến thức mới; giáo viên phải có cách nêu vấn đề hấp dẫn để
gây sự tập trung chú ý của học sinh; tổ chức các trò chơi; rèn cho học sinh biết
kết hợp kĩ năng nghe với kĩ năng viết; nâng cao kĩ năng về chính tả thông qua
các môn học khác. Đặc biệt là phải quan tâm đều các đối tượng học sinh và
động viên khuyến khích kịp thời để học sinh phát huy hết khả năng của mình.
Việc đề ra các biện pháp có thực hiện được hay không còn tuỳ thuộc vào
những điều kiện khách quan và chủ quan của giáo viên. Song với lương tâm và
10
trách nhiệm của nhà giáo biết kết hợp với những biện pháp tôi đã nêu trên,
chắc chắn học sinh sẽ đạt kết quả tốt hơn trong quá trình khắc phục và viết
chính tả của mình. Nhưng nhiệm vụ của người giáo viên được đặt lên hàng
đầu là sự tiến bộ chung của cả lớp chứ không kì vọng vào một cá nhân nào.
Người giáo viên phải tổ chức linh hoạt các phương pháp dạy học để học sinh
tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, dễ tiếp thu để viết bài tốt
hơn. Đồng thời làm cho Tiếng Việt ngày càng trong sáng hơn, học sinh
giao tiếp tốt hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống. Để đạt được những điều
trên đòi hỏi giáo viên phải có lòng yêu nghề, nhiệt tình, không ngừng học tập
để nâng cao hiểu biết, đầu tư đúng mức cho các môn học để nâng cao chất
lượng toàn diện và đặc biệt chú trọng việc khắc phục lỗi chính tả của các em.
2. Lợi ích và khả năng vận dụng:
a) Lợi ích:
Vận dụng đề tài này giúp cho học sinh ít mắc lỗi, tiến bộ hơn không chỉ bộ
môn Chính tả mà còn giúp cho việc viết tốt ở những môn học khác. Làm cho
học sinh học tập tiến bộ hơn, giúp người giáo viên ít mất thời gian hơn. Góp
phần phát triển tư duy của học sinh, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt trong
giao tiếp.
b) Khả năng vận dụng:
Đề tài này tôi đã vận dụng thành công ở lớp tôi chủ nhiệm đạt kết quả cao và
có thể vận dụng tốt đối với tất cả các lớp 4 trong nhà trường Tiểu học, mọi
11
giáo viên có thể áp dụng một cách dễ dàng. Tuy nhiên, mỗi lớp có một đặc
điểm riêng, mỗi giáo viên có cách truyền đạt khác nhau. Chính vì vậy, người
thực hiện cần biết chọn lọc để vận dụng đạt hiệu quả cao.
3. Đề xuất – kiến nghị:
- Về phía giáo viên: Phải chủ động phối hợp các phương pháp giảng dạy và có
sự chuẩn bị thật kĩ để khi lên lớp đạt kết quả tốt hơn, chuyên sâu hơn về nội
dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đối với tiết dạy.
- Về BGH nhà trường nên thường xuyên tổ chức hội thảo chuyên đề về
phương pháp giúp học sinh lớp 4 khắc phục lỗi chính tả để giáo viên học hỏi
lẫn nhau và tìm ra giải pháp tối ưu nhất cho việc rèn viết chính tả đối với học
sinh lớp 4.
Trong thời gian vừa dạy, vừa nghiên cứu đề tài không sao tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được sự góp ý kiến xây dựng của quý thầy
cô giáo, lãnh đạo trường để đề tài này có tính khả thi hơn.
Xin chân thành cảm cảm ơn !
12