Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Khoá luận tốt nghiệp Lịch sử Một số làng thủ công truyền thống ven sông Gianh tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.53 KB, 91 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến cô giáo Th.s Lại Thị Hương – người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và
động viên em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Em cũng xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo ở Khoa
Khoa học – Xã hội trường Đại học Quảng Bình, trung tâm Học liệu trường Đại
học Quảng Bình, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Bình, Sở Công thương
tỉnh Quảng Bình, Phòng Công thương UBND huyện Quảng Trạch, Phòng Văn
hóa thông tin huyện Bố Trạch, UBND xã Quảng Thuận, UBND xã Quảng Thanh,
UBND xã Quảng Thọ. Cảm ơn các cụ, các bà, các bác tại địa bàn nghiên cứu đã
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm khóa luận.
Trong quá trình thực hiện, do bước đầu làm quen với đề tài nghiên cứu,
kinh nghiệm và thời gian còn có nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn.
Đồng Hới, tháng 5 năm 2014
Sinh viên: Nguyễn Thị Mỹ Trinh
BẢN CHỮ VIẾT TẮT
CNH : Công nghiệp hóa
HĐH : Hiện đại hóa
HTX : Hợp tác xã
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
NNNT : Ngành nghề nông thôn
UBND : Ủy ban nhân dân

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử biết đến dòng sông Gianh như là một đường biên giới ở đồng bằng
và là ranh giới chia cách đất nước trong thời kỳ chiến tranh Trịnh – Nguyễn.
Mảnh đất ven sông Gianh còn có tầng văn hóa lâu đời, mà một trong những biểu
hiện của nó là các làng nghề truyền thống: làng nghề mộc, nghề rèn, nghề chạm,
nghề đan lát, làm nón


Sông Gianh là một trong năm con sông lớn nhất ở Quảng Bình, dài hơn
150km, chảy vắt ngang từ Tây sang Đông, được hội tụ từ bốn nguồn chính:
nguồn Nậy, nguồn Trổ, nguồn Nan và nguồn Son. Thế kỷ XV, đề cập đến đặc
điểm thiên nhiên của vùng Thuận Hóa (tức Bình Trị Thiên ngày nay), Nguyễn
Trãi nói đến Nam Hải và sông Linh Giang (tên gọi sông Gianh lúc đó) như một
vùng đất chiến lược, có núi cao biển rộng, địa thế hiểm trở. Sông Gianh đã từng
là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành cho đến khi được sáp nhập vào Đại
Việt từ thế kỷ XI. Sau đó nối tiếp nhau các vương triều phong kiến Đại Việt thi
hành chính sách di dân, đưa người Việt vào khai hoang lập ấp, sinh sống ở đó.
Đến thời Trịnh - Nguyễn phân tranh cũng chọn ngay sông Gianh làm ranh giới về
mặt hành chính, mặc dù trong thực tế chiến sự hầu như không diễn ra ở đó mà lùi
mãi về phía kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là đầu mối của những mũi
giao thông thủy bộ lợi hại: một ngã qua sông Son lên phà Xuân Sơn tiếp xúc với
đường Trường Sơn, một ngã ra biển Đông theo con đường Hồ Chí Minh trên
biển, một ngã đường bộ vào Nam theo Quốc lộ 1A Cảng sông Gianh trở thành
“tọa độ lửa” - trọng điểm địch tập trung bắn phá, còn với ta là nơi tập kết lực
lượng, hàng hóa trước khi ra chiến trường, cần được bảo vệ bằng mọi giá.
Với lịch sử lâu đời, những làng xã ở lưu vực sông Gianh có nền văn hóa đặc
sắc, không chỉ nổi tiếng với truyền thống khoa cử, có bốn làng trong “bát danh
hương” Quảng Bình: Sơn, Hà, Cảnh, Thổ (Lệ Sơn, La Hà, Cảnh Dương, Thổ
Ngọa), ngoài ra còn có những làng nghề cổ truyền với những sản phẩm đã trở
nên quen thuộc với người dân trong và ngoài tỉnh. Những làng nghề đó có từ rất
lâu, mà đến hôm nay con cháu cũng không rõ xuất xứ. Có những làng được hình
thành do nhu cầu sinh hoạt của người dân trong quá trình khai khẩn đất đai, như
1
nghề đan lát, làm nón, trồng bông dệt vải Lại có những làng nghề ra đời do
điều kiện lịch sử như nghề mộc, nghề rèn, nghề chạm. Ví như nghề rèn, đúc ở
làng Hòa Ninh, xã Quảng Hòa được hình thành từ thời chiến tranh Trịnh -
Nguyễn để cung cấp vũ khí, đáp ứng yêu cầu chiến sự lúc đó. Sản phẩm truyền
thống của các làng nghề đã đi vào thơ ca, hò vè dân gian:

Đồ đan Thọ Đơn
Hàng may Pháp Kệ
Hành chiếu Thanh Sơn
Ngọa Cương làng gốm
Giấy bổn Diên Trường
Nón Kinh chợ Ngọa
Mắm cá Cảnh Dương
Hà Khương thao lụa
Thanh Lạng tre nứa
Dao búa Hòa Ninh
Bánh tráng Lộc Điền
Lệ Sơn ngô lạc
Hàng quạt Trung Thuần
Thuận Bài vải sợi
Lối sống tốt đẹp đó cho đến nay vẫn còn được những người nông dân mộc
mạc trân trọng gìn giữ. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là sự phát triển các làng
nghề vùng ven bờ sông Gianh có nhiều bước thăng trầm, có những làng nghề đã
tồn tại và phát triển khá mạnh, đồng thời còn có mở rộng lan tỏa sang các khu
vực lân cận, tạo nên một cụm các làng nghề. Ngược lại có những làng nghề phát
triển cầm chừng, không ổn định, gặp nhiều khó khăn. Thậm chí, có những làng
nghề đã và đang bị mai một, dần suy vong và có khả năng bị mất đi. Các nghề
truyền thống ở đây hiện nay đang dần bị thất truyền, do sự cạnh tranh của những
đồ gia dụng hiện đại.
Không thể giới thiệu được hết các làng nghề truyền thống ở ven sông
Gianh, trong phạm vi khóa luận, tác giả chỉ xin điểm qua vài làng nghề nổi bật
2
nhất như làng Thọ Đơn với nghề đan lát, Thuận Bài, Thổ Ngọa với nghề làm
nón, nghề bánh đa ở Lộc Điền, nghề đóng thuyền ở Thanh Trạch.
Trong sự phát triển và chuyển hóa của các làng nghề, nhất là các làng nghề
trong tiến trình công nghiệp hóa ở nông thôn Việt Nam hiện nay thì những làng

nghề truyền thống vùng ven sông Gianh tỉnh Quảng Bình sẽ diễn ra như thế nào?
Vấn đề giữ gìn và khôi phục các làng nghề truyền thống đang là vấn đề khó khăn,
phức tạp cần được quan tâm nghiên cứu để trên cơ sở đó đi đến những giải pháp
thích hợp nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của các làng nghề. Đồng thời, thông
qua việc tìm hiểu đề tài sẽ cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh với những điểm
mạnh, yếu của các làng nghề nhằm có kế hoạch phục hồi, quy hoạch hợp lý.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ
bé tình yêu quê hương Quảng Bình và đồng thời cũng muốn qua đó sẽ có đóng
góp rất nhỏ bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu làng xã Quảng Bình, tạo cơ
sở và mở ra một hướng đi mới cho bản thân sau này. Trên cơ sở tham khảo và kế
thừa các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước. Với ý tưởng đó, tác giả
đã chọn vấn đề “Một số làng thủ công truyền thống ven sông Gianh tỉnh
Quảng Bình” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Trước đây, nghề và làng nghề thủ công truyền thống ở Quảng Bình nói
chung ít được chú ý trong giới nghiên cứu. Từ sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5
Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa VII về việc tiếp tục đổi mới và phát triển
kinh tế - xã hội nông thôn của Đảng ta đề ra, việc nghiên cứu về làng xã và kinh
tế nông thôn được đẩy mạnh hơn. Nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu chú ý đến vấn
đề làng xã trong đó có làng nghề ở Quảng Bình. Có các công trình như: “Làng xã
văn hóa Quảng Bình” của nhà báo Tạ Đình Nam, Luận án tiến sĩ của T.S Nguyễn
Thế Hoàn: “Cấu trúc và văn hóa làng xã người Việt ở Quảng Bình nửa đầu thế
kỷ XIX” đã giới thiệu khá đầy đủ những làng văn vật, làng nghề nổi tiếng ở
Quảng Bình nhưng vị trí của các làng nghề truyền thống ven sông Gianh rất
khiêm tốn. Năm 2007, với “Nghề và làng nghề truyền thống ở Quảng Bình” tác
giả Đỗ Huy Văn đã cung cấp cho bạn đọc một cách khái quát đầy đủ các làng
nghề truyền thống ở Quảng Bình nhưng chủ yếu là những làng nghề ở Lệ Thủy,
3
Quảng Ninh. Ngoài ra rải rác một số tạp chí, các bài viết trên internet cũng có
viết về làng thủ công ven sông Gianh với các làng thủ công như làm nón, làng

đan lát, chạm gỗ, làm bánh đa… nhưng chỉ mang tính giới thiệu.
Năm 2011, có Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hậu với đề tài
“Một số làng thủ công truyền thống ven sông Gianh tỉnh Quảng Bình” đã đề đến
một số làng thủ công truyền thống ven sông Gianh như nghề làm nón ở làng Thổ
Ngọa, làm bánh đa ở Tân An, rèn đúc Hòa Ninh, đóng thuyền truyền thống
Thanh Trạch.
Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu diện rộng, tập hợp nhiều
nguồn tư liệu để trình bày về quá trình hình thành, phát triển, các nhân tố ảnh
hưởng đến sự hình thành và phát triển của các làng nghề, tác động của các làng
nghề truyền thống với vai trò của nó trên nhiều mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về những làng nghề thủ công truyền thống ven sông Gianh,
mục đích của tác giả nhằm giới thiệu một số làng thủ công truyền thống nổi tiếng
ở đây.
Qua tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của các làng nghề, tác giả cố
gắng tái hiện lại một phần lịch sử, văn hóa của cư dân vùng sông nước Linh
Giang trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Đề tài cũng nhằm làm nổi bật đặc trưng
của các làng nghề ở đây so với các làng nghề thủ công truyền thống ở những nơi
khác trong cả nước.
Với việc phân tích mang tính định lượng thực trạng phát triển của các làng
nghề tác giả cố gắng đưa ra những giải pháp góp phần giữ gìn, thúc đẩy sự phát
triển của các làng nghề tại địa bàn nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu lịch sử, văn
hóa làng nghề, đề tài nhằm khơi dậy những nét đẹp văn hóa dân tộc ở các làng
xã, góp phần củng cố tình yêu quê hương đất nước cũng như góp thêm một số cơ
sở khoa học cho việc quản lý, phục hồi và quy hoạch phát triển ngành nghề nông
thôn ở vùng lưu vực sông Gianh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số làng thủ công nổi tiếng vùng lưu vực sông Gianh bao gồm: Thanh
Trạch, Lộc Điền, Thọ Đơn, Thổ Ngọa.

4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đây là một đề tài tương đối rộng, đa dạng và khá phức
tạp. Tác giả không có tham vọng đi hết tất cả các làng vùng lưu vực sông Gianh
mà chỉ tập trung nghiên cứu những nghề thủ công truyền thống nổi tiếng gắn với
tên tuổi của các làng, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho địa phương, đặc biệt là
những làng nghề có bề dày lịch sử văn hóa mang tính đặc thù của quê hương
vùng ven sông Gianh. Đó là các làng thủ công ven sông Gianh thuộc huyện
Quảng Trạch, Bố Trạch tỉnh Quảng Bình
Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu các làng thủ công vùng ven sông
Gianh từ khi mới hình thành cho đến nay. Tuy nhiên do nguồn tư liệu cổ xưa tại
các làng còn rất ít, vì thế chúng tôi chỉ có thể tập trung tìm hiểu, giới thiệu về
nghề và làng nghề từ cuối thế kỷ XIX đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp của chuyên ngành lịch sử: phương pháp logic, phương pháp
lịch sử và phương pháp điền dã. Ngoài ra tác giả còn sử dụng các phương pháp
của các chuyên ngành: Dân tộc học, Khảo cổ học, Xã hội học…
6. Đóng góp của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp thêm một số tư liệu
làm cơ sở cho việc tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của vùng lưu vực sông Gianh.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu giúp các nhà quản lý, hoạch định chính sách có
cơ sở để nhìn nhận đánh giá đúng thực trạng, vai trò của kinh tế thủ công nghiệp
ven sông Gianh, hiểu quy luật phát triển của nó để từ đó có chính sách phát triển
phù hợp. Ngoài ra, đề tài cũng góp phần rất nhỏ bổ sung vào tư liệu nghiên cứu
làng xã miền Trung và mở ra một hướng nghiên cứu mới cho bản thân sau này.
Ý nghĩa thực tiễn: Phát triển thủ công nghiệp là một chủ trương quan trọng
trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay. Trong
những năm qua, tỉnh Quảng Bình đã đề ra các chương trình, các đề án nhằm thúc
đẩy phát triển các ngành nghề nông thôn trong đó chú trọng đến các làng nghề.

Vùng ven sông Gianh là nơi hội tụ khá nhiều nghề thủ công truyền thống, nơi
bảo lưu những nét đẹp văn hóa của quê hương, do đó việc nghiên cứu còn có ý
5
nghĩa khơi dậy tình cảm gắn bó quê hương, giữ gìn những nét đẹp văn hóa truyền
thống trong mỗi người dân.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương chính:
Chương 1: Khái quát về làng xã và sự phát triển thủ công nghiệp ven sông
Gianh tỉnh Quảng Bình
Chương 2: Sự hình thành và phát triển một số làng nghề thủ công truyền
thống ven sông Gianh
Chương 3: Thực trạng và giải pháp phát triển của các làng nghề thủ công
truyền thống ven sông Gianh.
6
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ LÀNG XÃ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
THỦ CÔNG NGHIỆP VEN SÔNG GIANH TỈNH QUẢNG BÌNH
1.1. Khái quát về làng xã ven sông Gianh tỉnh Quảng Bình
1.1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên và nguồn gốc dân cư
1.1.1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên
Sông Gianh chảy qua địa phận tỉnh Quảng Bình, bắt nguồn từ khu vực ven
núi Phu Cô Pi cao 2.017m thuộc dãy Trường Sơn, chảy qua địa phận các huyện
Minh Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Trạch và một phần của huyện Bố Trạch để đổ ra
biển Đông ở cửa biển cùng tên – cửa Gianh. Sông Gianh dài khoảng 160km, cắt
qua quốc lộ 1 ở tây bắc cửa Gianh 5km. Tổng diện tích lưu vực 4.680km, độ cao
trung bình 360m, độ dốc trung bình 19,2%, lượng nước năm 7,95km
3
ứng với lưu
lượng nước trung bình năm 252m

3
/s, môđun dòng chảy năm 53,8 1/s.km
2
. Mùa lũ
từ tháng 9 đến tháng 11, chiếm khoảng 60 – 75% lượng dòng chảy hằng năm.
Dòng cát bùn khoảng 1,93x10
5
tấn/năm, ứng với độ đục trung bình năm 192g/m
3
và hệ số xâm thực 168 tấn/km
2
năm. Tàu thuyền có thể qua lại đoạn sông ở hạ
lưu, từ cửa Gianh đến Ba Đồn 6km, đến thị trấn Đồng Lê huyện Tuyên Hóa là
47km.
Sông Gianh khởi nguyên từ 3 nguồn khác nhau: nguồn Nậy, nguồn Nan và
nguồn Son (tính theo thứ tự từ Bắc vào Nam).
Nguồn Nậy (sông lớn, tiếng địa phương) bắt nguồn từ các khe suối ở triền
đông đèo Mụ Giạ trên dãy Trường Sơn và các sông lạch ở triền nam núi đồi
Hương Khê (Hà Tĩnh) đổ về Hòa Duyệt, kết hợp với sông Thanh Lãng ở Tân Ấp
chảy đến Cổ Cảng, Minh Cầm thì tiếp thêm dòng nước Nạc Thủy từ núi Mồng
Gà ở phía bắc mà hình thành “Rào Nậy”, chảy qua Xuân Mai, Cương Gián rồi
vòng qua các cồn như: cồn Quan, cồn Cưỡi, cồn Niệt tiếp nhận thêm nước sông
Tiên Lương từ Trại Sim đổ về rồi tiếp tục vòng qua cồn Ngựa, cồn Lội, cồn Sẽ,
vượt đò Phú Trạch đến kết hợp với sông Kinh Kịa (ở Ba Đồn) từ Khe Giang đổ
về, hợp lưu với sông Hòa Giang và sông La Hà mà hình thành cửa Hác, rồi chảy
ra cửa Thuận Bài, hợp lưu với Rào Nam và Rào Son mà hình thành sông Gianh.
7
Nguồn Nan tiếng địa phương gọi vùng Cao Mại là “Tiên Nan”, bắt nguồn từ
khe núi triền Đông dãy Trường Sơn đổ về Yên Lạc thì tiếp nhận thêm khe suối từ
Quy Đạt đổ về để hình thành Rào Nan, chảy qua Kim Bảng và đèo Laken đổ vào

khu lòng chảo Lam Lang, Nam lạc Sơn, Uyên Phong và Vòi Moi mà hình thành
vực Cao Mại, sử Trung Quốc gọi là Vô Lao (vì quá sâu, thuyền bè không thể
chống sào được), một hồ chứa nước không bao giờ cạn, để tiếp thủy cho Linh
Thủy, rồi đổ ra sông Thọ Linh, đến ngã ba sông Chợ Mới ở Minh Lệ thì kết hợp
với Rào Son từ Phù Kinh đổ về, hợp lưu thành Linh Giang, chảy ra Thuận Bài,
kết lưu với Rào Nậy, hình thành sông Gianh để đổ ra biển cửa Gianh, tục gọi là
“Cựa” ở Mỹ Hòa, Quảng Khê.
Nguồn Son (rào của nước đỏ như son) là chi lưu cực nam của sông Linh
Giang, bắt nguồn từ khe suối triền Đông của dãy Trường Sơn chảy đến Chà Nòi
đổ vào Vực Tró đổ ra kết hợp với sông Ngọn Rào từ phía bắc đổ đến và hình
thành sông Troóc, còn gọi là Rào Son, chảy qua động Phong Nha, kết hợp với
Rào Bồn từ thác Ba Rền ở phía nam đổ đến, chảy qua Cù Lạc, Cổ Giang,
Khương Hà, Cự Nẫm, Phù Mỹ, Cao Lao Thượng, chia thành hai nhánh, một
nhánh chảy dọc theo Cao Lao đến Tân Định, một nhánh chảy ra Chợ Mới (Minh
Lễ) để hợp lưu với Rào Nan mà hình thành Linh Giang, chảy đến Thuận Bài thì
kết hợp với Rào Nậy ở phía bắc và Rào Son ở Tân Định phía nam, mà hình thành
vũng Cao Lao rồi chảy ra cửa Gianh ở Quảng Khê.
Tất cả 3 lưu vực của sông Gianh đều hợp lưu cộng tác bồi đắp phù sa cho
Quảng Trạch, Bố Trạch mãnh đất phì nhiêu nhưng cũng đón nhận không ít
những khó khăn từ lũ lụt ở vùng này.
Địa hình đồi núi chiếm hầu hết diện tích lưu vực, địa hình đồng bằng rất
hẹp, giáp biển là các cồn cát di động ảnh hưởng lớn đến việc thoát nước của cửa
sông. Hướng chủ yếu các dãy núi trên lưu vực là tây bắc – đông nam, riêng dãy
Hoành Sơn ở phía bắc có hướng tây – đông.
Đất ở trên lưu vực sông Gianh được tạo thành do nhiều nguồn gốc, chủ yếu
là đất phù sa bị nhiễm mặn hằng năm, ít màu mỡ và đất thềm dốc cao cấu tạo bởi
sản phẩm phong hóa của các đá Feratic, sét, sa diệp thạch. Rừng sông lưu vực
sông Gianh còn nhiều, chiếm khoảng 55 % diện tích lưu vực, là nơi cung cấp
8
nguyên liệu cho sự phát triển thủ công nghiệp nhất là các ngành chạm khắc gỗ,

đan lát, làm nón, đóng tàu…
Về mặt khí hậu
Khí hậu lưu vực sông Gianh mang những đặc điểm chung của khí hậu nhiệt
đới gió mùa của miền Trung Trung Bộ nhưng có nhiều nét riêng biệt. Cùng
chung chế độ thời tiết của tỉnh Quảng Bình, vùng lưu vực sông Gianh có hai mùa rõ
rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 7 năm sau,
tiếp đó là mùa mưa kèm theo bão, lụt từ tháng 8 đến tháng 10. Tuy một năm có chia
ra 4 mùa, nhưng không rõ rệt mà chỉ có nắng nóng và ẩm rét. Với những điều kiện
tự nhiên như vậy đã có ảnh hưởng lớn đối với sản xuất sinh hoạt của cư dân.
Cũng như những vùng lưu vực sông khác, các cấu trúc địa tầng đã tạo thành
hình thái và bối cảnh địa lý qua các biến thiên của “tang điền thương hải” (ruộng
dâu biến thành biển xanh) theo từng thời kỳ toàn cầu, đồng thời cũng đã tạo nên
không gian khu vực đồng bằng để dung nạp sinh cư và cho phép con người định
cư lập nghiệp. Quá trình hình thành các địa tầng này kéo dài liên tục hàng thiên
niên kỷ, vì thế muốn nhận thức địa lý thực tiễn của những làng xã ven sông
Gianh thì tất yếu nhìn về vùng lưu vực sông này cách đây 2000 năm về trước.
Cách đây khoảng 2000 năm, mặt nước sông Gianh và sông Thủy Vực đang
hòa nhập với nhau thành một và hình thành một Vũng Cổ Chiến trên đất liền,
chạy từ chân đèo ngang đến chân núi Đồng Ban và nước biển lên đến Phù Kinh,
qua Minh Lệ, Hòa Ninh, Trung Thuần đến Tùng Tiết trên “Cửa Thủy Vực”,
đương nhiên thời bấy giờ chưa có Quảng Trạch, Bố Trạch ngày nay. Đến khi
biển thoái thì các “cồn chìm” nổi lên và hình thành vũng nước mặn Tú Loan ở
phía Bắc và Cao Lao ở phía Nam [29; 25].
Ở giữa biển và đất liền, lúc bấy giờ đã có một “cồn cát” chạy dài từ cửa
Roòn đến cửa Gianh, để sau này lúc biển thoái thì “cồn bán trầm” nổi lên làm
bức bình phong chặn sóng biển, cho phép phù sa tồn tại để tiệm tiến bồi đắp các
dòng chảy và đầm lầy thành đất canh tác, tạo nên những lớp “trầm tích mặn”
ngăn cản dòng chảy của hai lưu vực sông hành (Thủy Vực và Linh Giang), bắt
buộc các dòng chảy phải thu hẹp để đổ ra cửa Roòn và cửa Gianh và hình thành
các địa hình sông ngòi ngày nay chư chúng ta đang thấy. Khi các sông ngòi của

9
lưu vực sông Gianh được định hình thì xuất hiện “Cửa Hác” nằm giữa Ba Đồn,
Hòa Ninh và La Hà là điểm giao lưu hội tụ của các sông nguồn Nậy, Kinh Kịa,
Hòa Giang chưa lấp lại (lấp vào năm 1954) và sông La Hà, tạo nên một dòng
xoáy khơi sâu khu vực này, nên còn gọi là cửa Tứ Hội [29; 26].
Thời ấy, Cửa Hác không phải như ngày nay mà là một “cái phá” rộng lớn
gọi là Đại Hác, chạy dài từ Hói Đồng đến Phù Trạch, băng qua Lộc Điền, đến
Trung Thuần, Phù Lưu để bắt tay với vũng Tú Loan, hình thành một dải nước
rộng như Phá Tam Giang ở Thừa Thiên Huế. Có hình dung đúng đắn như thế
mới lí giải được nguyên nhân vùng đất từ Chợ Mới qua Hoà Ninh đến Hạ Thôn,
Cồn Giữa (hay Cồn Sẽ), Vân Lôi, Lộc Điền, Phù Ninh đều không có “nước
ngọt”, vì lẽ thời ấy tất cả nơi này đều tiếp giáp trong 400 năm liền với dòng nước
mặn do biển tiến đợt H3 dâng lên, kết hợp trầm tích địa tầng pha muối khá dày,
nên phải đợi một thời gian khá lâu mới “lợ hóa” được [ 3; 26].
Như chúng ta thấy, không có sông ngòi nào trên đất nước Việt Nam có
nhiều cồn như sông Gianh: La Hà, Văn Phú là một cồn; Di Luân, Thọ Đơn, Mỹ
Hòa cũng là một cồn, Lũ Phong, Tân Phong cũng là một cồn, Vĩnh Phước, Vĩnh
Lộc và Phủ Trạch khi sông Hòa Giang chảy từ Hạ Thôn (Nguồn Nậy) về Hói Nại
(còn gọi là Hói Bần) để đổ ra Cửa Hác thì cũng là một cồn hiện hữu trên sông
Gianh… Dần dà, thời gian và thời tiết cưỡng bất “biển thoái” để lũ lụt và phù sa
từ thượng nguồn Hương Khê, Thanh Lãng chảy về bồi đắp, nước ngọt đẩy lùi
nước mặn ra biển, phù sa liên kết với các cồn chìm và các đầm lầy thành một dải
đất phì phiêu cho canh tác của làng xã ven sông Gianh mà ngày xưa, cách đây
2000 năm còn tiếp giáp với biển [29; 27]. Môi trường địa lý cách đây 2000 năm
đã không cho phép các làng xã nơi đây sớm phát triển vì đang ở trong thời kì
“nước mặn đồng chua” đợi đến thời kì “lợ hóa”, do đó vùng đất ven sông này
thiếu hẳn những điều kiện phát triển như là: không có đất cao ráo để ở, không có
đất phì nhiêu, tài nguyên để canh tác, không có nước ngọt để uống, không có
đường giao thông để sinh hoạt…
Ngày nay, phù sa vĩnh viễn đẩy lùi các đợt biển tiến, đã bồi đắp nên ở đây

một vùng đất màu mỡ, mở ra một không gian sinh cư rộng lớn, mở đường cho
10
quá trình hình thành làng xã để dần tạo nên những xóm làng đông đúc, trù phú
bên bờ sông Gianh lịch sử này.
1.1.1.2. Nguồn gốc dân cư
Nói đến cư dân vùng ven sông Gianh trước hết ta phải kể đến những con
người thuộc các thời kỳ xa xưa của lịch sử còn tồn tại lúc đó, tuy rằng với số
lượng không lớn nhưng đây lại là chủ nhân đầu tiên của vùng đất này. Bằng
chứng Khảo cổ học đã phát hiện có sự tồn tại của nền văn hóa Hòa Bình ở di chỉ
Cồn Nền cách sông Gianh 200m, di chỉ Ba Đồn… cho thấy thời kì cổ đại con
người đã có mặt và sinh sống ở vùng lưu vực sông Gianh.
Vào các thế kỷ thứ II đến thứ X sau CN, vùng đất ven sông Gianh lại tiếp
nhận thêm người Chàm từ phía Nam tràn ra và biến vùng đất này thành một bộ
phận lãnh thổ của họ. Tuy sử sách không thấy ghi chép về tình hình dân số người
Chàm cư trú ở đây, có thể dân số Chàm lúc bấy giờ không nhiều lắm, vì đây là
vùng đất biên thùy của vương quốc Chăm - pa ở phía Bắc.
Tuy nhiên, chủ nhân thực sự có vai trò quan trọng ở đây là người Việt, phần
lớn họ được di cư từ phía Bắc vào qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau để dần
dần hình thành nên cộng đồng người Việt ổn định, có tổ chức ở vùng đất mới
khai phá. Sử sách còn ghi lại từ thời Tiền Lê cho đến thời Lý - Trần - Lê -
Nguyễn đã diễn ra nhiều cuộc di dân có quy mô lớn đến vùng đất Quảng Bình
trong đó có vùng lưu vực sông Gianh. Theo một số nghiên cứu của các học giả đi
trước, từ thế kỷ X, trong lịch sử Việt Nam xuất hiện hiện tượng di cư, vượt
Hoành Sơn, biên giới phía Nam của đất nước. Hiện tượng này gắn liền với việc
sáp nhập thêm từng phần lãnh thổ mới bắt đầu từ thời Lý - Trần, còn tiếp diễn và
kết thúc vào thế kỷ XVIII.
Sang thế kỷ XVIII, làn sóng di sư vào vùng ven sông Gianh định cư xúc
tiến mạnh mẽ, nhất là từ sau khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558).
Lực lượng ở phía bắc chủ yếu là Thanh - Nghệ - Tĩnh vào khai hoang lập nghiệp
còn có một bộ phận đáng kể là các tôi thần, quan lại, tướng lĩnh do trung thành

với họ Nguyễn hoặc vì bất mãn với chính quyền Mạc, Lê - Trịnh mà tìm đến. Họ
đã trở thành những người tập hợp, nhóm họp các dân nghèo tự nguyện hoặc
cưỡng bức vào đây lao động khai phá đất đai, tạo dựng xóm làng. Ngoài ra, cũng
11
phải kể đến một bộ phận nông dân, quan lại ở miền ngoài “nổi loạn” chống lại
các triều đình phong kiến thối nát. Sau khi bị đàn áp đã tìm đường ẩn náu vào
đây lập nghiệp, có nhiều dòng họ khi mới vào đây đã thay tên, đổi chữ lót để
tránh sự truy tìm tung tích như họ Nguyễn Viết, họ Trần, họ Đoàn ở Hòa Ninh,
họ Phạm ở Thuận Bài (Quảng Trạch).
Như vậy, nguồn cư dân đến vùng đất ven sông Gianh tỉnh Quảng Bình làm
ăn lập nghiệp qua các thời kỳ khác nhau bao gồm nông dân, binh lính, tướng
lĩnh, quan lại, tội nhân, kẻ lưu vong… trong đó tuyệt đại bộ phận là nông dân. Họ
di cư đến đây với nhiều lý do và trong những hoàn cảnh khác nhau. Có thể là tự
nguyện nhưng cũng có thể là bị lưu đày, cưỡng ép. Mặt khác, bản thân cư dân ở
đây cũng là những nhóm người đang sống trong các thế kỷ đầy biến động, phần
lớn từ miền ngoài vào mang theo một tâm lý khá phức tạp. Có thể lúc đầu các gia
đình họ có cùng một quê hương bản quán tập hợp lại thành xóm làng để giúp đỡ,
nương tựa vào nhau trong những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Về sau, cùng
với sự phát triển lịch sử, làng xã không ngừng được bổ sung vào cơ cấu của mình
những thành phần dân cư khác nhau. Một điều đáng lưu ý là, cư dân ở các làng
xã ven sông Gianh có nguồn gốc xuất thân không thuần nhất. Họ làm nhiều nghề
khác nhau, từ nhiều địa phương khác nhau ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ di chuyển
vào đây (đông đảo nhất là vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh) và ở những thời điểm khác
nhau kéo dài suốt cả thời kỳ trung cận đại của lịch sử Việt Nam từ nửa cuối thế
kỷ XI cho đến nửa đầu thế kỷ XIX. Lúc đầu có thể là một dòng họ, về sau có
nhiều dòng họ kế tiếp vào đây, do đó ở một số làng rất khó để xác định dòng họ
nào là “tiền khai canh, hậu khai khẩn”, dòng họ nào là “dân chính cư và dân ngụ
cư”. Mặc dù phải trải qua những thử thách cam go, khó khăn thiếu thốn trong
buổi đầu khai phá nhưng họ đã sớm chung lưng đấu cật, vật lộn với cuộc sống,
chống chọi với thiên nhiên để cải tạo nhiều vùng đất hoang dại, núi đồi hiểm trở,

bãi bồi ven sông, ven biển… thành những xóm làng trù phú và đồng ruộng xanh
tươi vùng đôi bờ sông Gianh [11; 55].
Do sinh sống lâu đời ở một vùng đất nắng, gió, luôn đối mặt với phong ba
bão tố, hạn hán, lụt lội để tồn tại và phát triển, nên cư dân vùng ven sông Gianh
là những con người lao động cần cù, dũng cảm không cam chịu khuất phục trước
12
thiên tai và địch họa. Sự kế thừa, tiếp nhận và tổng hợp sắc thái văn hóa của các
làng quê xứ Bắc cùng với quá trình cộng đồng cố kết, thích ứng đã hình thành
nên sắc thái văn hóa riêng của cư dân làng xã vùng lưu vực sông Gianh. Quá
trình dung nạp, hỗn hợp của hai xu hướng Nam tiến và Bắc tiến diễn ra trong lịch
sử đã làm cho vùng đất này luôn có chiến tranh xảy ra và nơi đụng đầu của các
thế lực tranh chấp nhau quyết liệt.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử và văn hóa
1.1.2.1. Đặc điểm lịch sử
Trong lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, vùng lưu vực sông Gianh
luôn là một phần đất thiêng liêng của lãnh thổ Việt Nam. Vùng đất này hôm nay
đã trải qua nhiều lần thay đổi cương vực (địa giới lãnh thổ) và tên gọi.
Theo thư tịch cũ, thuở Vua Hùng lập quốc, mảnh đất ven sông Gianh thuộc
bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Dưới các triều đại phong
kiến Trung Quốc, đất nước ta lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc và bị chia
thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, vùng ven sông Gianh nằm thuộc
huyện Tây Quyển quận Nhật Nam. Năm 192, nhân dân Chàm đánh bại nhà Đông
Hán và dựng lên nước Lâm Ấp. Vùng đất ven sông Gianh khi thì thuộc Đại Việt,
khi thì thuộc Lâm Ấp. Năm 614, Lâm Ấp đánh chiếm quận Nhật Nam, khôi phục
vùng đất đã bị chiếm trước đó đến Đèo Ngang. Năm 615, khi chiếm được vùng
đất Quảng Bình, trong một thời gian gần 3 thế kỷ, Chiêm Thành lập vùng đất này
thành 3 châu: Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (Bố Chính là vùng đất thuộc các huyện
Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa sau này; Địa Lý vùng đất thuộc
Lệ Thủy, Quảng Ninh, Đồng Hới ngày nay; Ma Linh là vùng đất thuộc Bắc
Quảng Trị).

Năm 1069, ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh trở về Đại Việt. Năm 1075,
Lý Nhân Tông đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình; châu Bố Chính thành
Châu Nam Bố Chính. Sách “Đại Nam nhất thống chí” viết: “Vua Nhân Tôn hiệu
Thái Ninh thứ 4 (1075) đổi Địa Lý làm châu Lâm Bình, Bố Chính làm châu Nam
Bố Chính… chiêu mộ dân đến ở”.
Năm 1407, thời nhà Minh đô hộ nước ta, châu Bố Chính đổi thành Chính
Bình. Thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) châu Bố Chính thuộc Thuận Hóa thừa
13
tuyên. Trước năm 1627, Hy Tông Hiếu Văn Hoàng đế lấy được Nam Bố Chính,
đặt dinh Bố Chính (tục gọi là Dinh Ngói), lấy sông Gianh làm giới hạn. Từ sông
Gianh trở ra là Bố Chính ngoại châu hay Bắc Bố Chính châu của vua Lê, chúa
Trịnh; từ sông Gianh trở vào là Bố Chính nội châu hay châu Nam Bố Chính
thuộc chúa Nguyễn, đặt tại dinh Võ Xá (đạo lưu bồn, tục gọi là Dinh Mười).
Vào năm 1802, sau khi lật đổ vương triều Tây Sơn của Quang Toản, lập ra
nhà Nguyễn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, Gia Long trở
lại vùng đất Quảng Bình hiện nay là Bố Chính nội, Bố Chính ngoại nhằm phân
biệt giữa Đàng Trong, Đàng Ngoài trong việc phong tước phẩm, định mức thuế
đối với nhân dân hai bờ sông Gianh.
Năm 1825, Minh Mạng đem đất tam Dũng ở châu Quy Hợp (Hà Tĩnh) sáp
nhập vào Bố Chính. Năm 1827, Minh Mạng cải Bố Chính thành huyện Bình
Chính (nghĩa là ổn định phân tranh, Linh Giang thái bình), đến năm 1838 đổi
Bình Chính và thành lập phủ Quảng Trạch trong đó bao gồm cả huyện Bố Trạch,
xóa hết mọi tàn tích cổ danh Chiêm Thành. Năm 1875, thời vua Tự Đức thì lấy
tổng thượng du Minh Cầm và một số man sách thượng nguồn sông Gianh mà lập
thành huyện Tuyên Hóa [29; 36]. Như vậy, các địa danh vùng lưu vực sông
Gianh được định hình kể từ đây.
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, do có địa
bàn chiến lược quan trọng nên nhiều cuộc chiến tranh đã đi qua mảnh đất này.
Thế kỷ XVIII, giặc Nguyên xâm lược nước ta. Tướng giặc Nguyên là Toa
Đô đánh vào Chăm - pa rồi tiến quân ra Bắc phối hợp với đại quân do Thoát

Hoan chỉ huy, nhân dân ta vừa chặn đánh vừa bất hợp tác với địch làm cho các
cuộc hành quân của chúng gặp khó khăn trở ngại.
Thời hậu Trần, trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, hai lộ Tân Bình,
Thuận Hóa ra sức rất nhiều.
Năm 1413, vua Trần Quý Khoáng chạy vào Thuận Hóa, quân Minh đuổi
theo qua đất Tân Bình, quân Minh đã bị nhân dân ta chặn đánh quyết liệt.
Khi Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh, nhân dân Tân Bình nổi lên hưởng
ứng chống lại giặc Minh.
14
Cuối thế kỷ XVIII, trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn nhồi da xáo
thịt giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn, sông Gianh được lấy làm ranh
giới chia đôi đất nước. Hàng trăm cuộc binh lửa đã diễn ra trên mảnh đất này, để
lại mối hận ngàn thu.
Năm 1771, cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn bùng nổ, nhân dân trước hết
là nông dân hăng hái hưởng ứng. Năm 1786, Quang Trung Nguyễn Huệ tiến
quân ra Bắc tiêu diệt quân Trịnh và năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai quét
sạch 29 vạn quân Thanh, nhân dân đôi bờ sông Gianh đem sức người, sức của
theo Nguyễn Huệ ra Bắc đánh đuổi quân Thanh, góp phần vào sự nghiệp thống
nhất nước nhà.
Đất nước thanh bình chưa được bao lâu thì Nguyễn Huệ qua đời vào năm
1802, nhân cơ hội đó, Nguyễn Ánh cấu kết với giặc ngoài lật đổ triều Tây Sơn,
lên làm vua, đặt niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân (Huế), lập ra nhà
Nguyễn.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, quá trình Pháp xâm lược và
thôn tính nước ta kéo dài từ năm 1858 đến năm 1884. Việt Nam trở thành thuộc
địa của thực dân Pháp. Ngày 27 tháng 3 năm 1947, thực dân Pháp đánh chiếm
Quảng Bình. Sau khi thôn tính được Quảng Bình, thực dân Pháp đã thiết lập bộ
máy hành chính từ tỉnh xuống làng, xã khá hoàn chỉnh và tiến hành bóc lột nhân
dân. Cũng như các nơi khác, các thôn xóm vùng ven sông Gianh cũng chịu cảnh
sưu cao thuế nặng, sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Trước tình hình đó, nhân

dân khắp nơi đã nổi dậy đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột, giành lại độc lập
cho dân tộc. Tuy nhiên các phong trào đấu tranh đều bị thực dân Pháp đàn áp.
Phải đến khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), đảm đương sứ mệnh
của một Đảng lãnh đạo thì lúc đó phong trào chống Pháp ở Quảng Bình nói
chung và các làng xã ven sông Gianh nói riêng mới có người lãnh đạo, phát triển
ngày càng mạnh mẽ hơn. Các tổ chức cơ sở Đảng lần lượt ra đời ở Kẻ Rấy (Bố
Trạch), Lũ Phong (Quảng Trạch). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cuộc đấu tranh
đòi dân sinh, dân chủ, chống sưu cao, thuế nặng ở các làng xã ven sông Gianh
liêp tiếp nỗ ra.
15
Ngày 23 tháng 8 năm 1945 là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh cách
mạng của nhân dân Quảng Bình. Chỉ trong vòng chưa đầy một ngày đêm, quần
chúng nhân dân khắp tỉnh nhất tề nổi dậy lật đổ ách thống trị của đế quốc, phong
kiến giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc khởi nghĩa nổ ra nhanh gọn và thu
thắng lợi to lớn.
Nhưng thực dân Pháp vẫn nuôi âm mưu xâm lược nước ta lần 2. Cùng
chung với nhân dân cả nước, nhân dân làng xã vùng ven sông Gianh lại bắt tay
vào công cuộc vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Trong suốt thời kì kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, vùng đất ven sông Gianh phải gánh chịu nhiều tổn
thất, là nơi điểm đầu chi viện cho kháng chiến của dân tộc nên luôn bị đế quốc
Mỹ tàn phá. Tuy nhiên, với tinh thần chống giặc ngoại xâm, người dân nơi đây
đã cùng cả nước đấu tranh đánh đuổi quân xâm lược giành độc lập thống nhất đất
nước và bình yên cho quê hương xứ sở.
Có thể nói, Quảng Bình nói chung, vùng đất ven sông Gianh nói riêng là nơi
gánh chịu những hậu quả của chiến tranh. Mặt khác sự thống trị của nhiều thế lực
thay đổi nhau từ các thế lực phong kiến đến đế quốc xâm lược đã làm cho con người
ở vùng đất này có một thích ứng đặc biệt và khả năng đối phó cao. Tính chất tương
tranh hỗn chiến giữa các thế lực phong kiến, đế quốc qua các thời kì lịch sử đã biến
vùng này thành một chiến trường khốc liệt lâu dài, luôn bị xô đẩy bởi những biến
cố, sự kiện bi hùng của dân tộc. Chính hoàn cảnh lịch sử ấy tạo nên những dấu ấn,

những đặc trưng văn hóa của cư dân vùng sông nước Linh Giang.
1.1.2.2. Văn hóa
Sinh tụ và phát triển trên mảnh đất của vùng nhiệt đới ẩm, gió mùa, với
phương thức lấy nông nghiệp trồng lúa làm sinh kế… đó chính là những nhân tố
quan trọng hình thành lối ứng xử chi phối mọi hoạt động của phần lớn cư dân
Đông Nam Á. Người Việt trong lịch sử cũng đã làm nên nét đặc trưng văn hóa
trên nền tảng chung ấy. Từ việc thích ứng với điều kiện sống cụ thể, xuất phát
bởi những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của địa hình, khí hậu, cùng những
biến động lịch sử, kể cả sự hội nhập, kế thừa, giao lưu văn hóa… tất cả đã hiện
lên trên mẫu số chung đó những tử số không đồng nhất. Chính vì vậy, chân dung
của những thành tựu kinh tế, văn hóa trong phạm vi cùng miền vẫn phải có
16
những nét riêng tất yếu. Văn hóa cư dân vùng ven sông Gianh tất nhiên không
nằm ngoài xu thế đó.
Nói đến văn hóa, dù muốn hay không, trước hết cũng phải tìm về cội nguồn,
về tính bản địa của nó. Ở vùng lưu vực sông Gianh, các nhà khảo cổ học đã tìm
thấy ở vùng phía tây Quy Đạt, Bố Trạch có sự tồn tại của một nền văn hóa cách
đây trên dưới một vạn năm. Đặc biệt người ta cũng phát hiện ở hang Minh Cầm
(sát Rào Nậy – một chi lưu của sông Gianh), tại đây các nhà khảo cổ học đã tìm
thấy rìu có vai, rìu tứ giác và một mũi nhọn bằng xương. Đồ gốm có tô màu thổ
hoàng ở Minh Cầm giống ở Trại Ổi (Nghệ Tĩnh) và gốm Cồn Nền (huyện Quảng
Trạch)… Hang Minh Cầm có nhiều khu mộ táng và nhiều đồ trang sức bằng vỏ
sò như vòng có xuyên lỗ, hoa tai, hạt chuỗi Có thể nói, những thành tựu về sử
học và khảo cổ học cho phép các nhà nghiên cứu khẳng định: "Người tiền sử
Quảng Bình là những chủ nhân của một nền văn hóa gốm màu khá sớm, chứng
tỏ cộng đồng người tiền sử Quảng Bình đã có một nền kỹ thuật đồ gốm cũng như
đồ đá khá cao" [28; 56 ]. Đó chính là cội nguồn tạo nên bản sắc văn hóa và giá
trị tinh thần của cư dân vùng lưu vực sông Gianh nói riêng cũng như người
Quảng Bình nói chung.
Khi đã hướng về cội nguồn văn hóa, tìm đến các bản sắc văn hóa cổ truyền

của dân tộc, chúng ta sẽ bắt gặp những nét đẹp được lưu giữ nơi các làng nghề
truyền thống với những sản phẩm đặc trưng của người dân nơi đây đã tích lũy từ
bao đời. Mặc dầu trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử nhưng những
phong tục tập quán, nếp sống của cư dân vùng ven sông Gianh rất ít thay đổi.
Từ hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình đến những món ăn dân dã, các lễ hội
dân gian, các nghi lễ tôn giáo, nghề nghiệp mang tính tâm linh Sự tồn tại của
nền văn hóa làng phải chăng đã tự nó trở thành cái hướng tìm về cội nguồn, tìm
tới bản sắc văn hóa dân tộc nói chung, cũng như văn hóa địa phương nói riêng.
Bởi lẽ văn hóa làng xã là nơi tiềm ẩn bản sắc văn hóa dân tộc rõ nét nhất, đa dạng
nhất!
Bên cạnh tính bản địa của văn hóa, vùng làng xã mà lưu vực sông Gianh là
nơi đan xen, hội nhập do giao thoa văn hóa mà có. Bởi văn hóa Quảng Bình nói
chung, văn hóa cư dân vùng lưu vực sông Gianh nói riêng là kết quả giao thoa
17
của hai trung tâm văn hóa lớn ở hai đầu đất nước. Ở đó có sự kết hợp các xu
hướng và sắc thái văn hóa vốn có từ thời đồ đá mới được đắp đổi bằng sự hội
nhập từ hai miền, hai quốc gia cổ đại song lập (Văn Lang - Âu Lạc). Ở giai đoạn
sau này, vùng lưu vực sông Gianh là nơi pha trộn của nhiều luồng văn hóa khác
nhau: văn hóa Đàng Trong - văn hóa Đàng Ngoài, văn hóa Phú Xuân - văn hóa
Thăng Long. Có thể tìm thấy rất nhiều loại hình văn hóa làng ở các tỉnh Bắc Bộ,
Nghệ Tĩnh, Thừa Thiên Huế. Hơn nữa, sự du nhập của văn hóa Trung Hoa và Ấn
Độ cũng tạo nên tính đa dạng của văn hóa vùng sông nước Linh Giang. Thực ra,
trong quá trình "Chăm- pa hóa" và "Đại Việt hóa" cư dân ở đây đã tiếp nhận
những tinh hoa văn hóa của hai nền văn hóa nói trên. Xét về mặt văn hóa, trừu
tượng hóa các mặt chính trị, quân sự, kinh tế thì văn hóa phương Bắc tràn
xuống phương Nam theo con đường lục địa vào bắc Đông Dương, văn hóa Ấn
Độ theo con đường biển đến nam Đông Dương. Văn hóa Hán muốn vươn vào
phía Nam, văn hóa Ấn Độ cũng vươn ra phía Bắc. Các yếu tố giao lưu tiếp biến,
hội nhập đan xen giữa các nền văn hóa ấy từ nhiều tuyến qua các thời kì đã tạo
nên những giá trị văn hóa phong phú, đa dạng, độc đáo. Trong sinh hoạt và sáng

tạo văn hóa, tính cộng đồng được đề cao: hội hè, lễ nghi, phong tục. Đấy cũng
chính là hệ quả của quá trình cộng cư của các lớp cư dân đến từ các vùng văn hóa
sông Hồng, sông Lam và yếu tố văn hóa có tính chất tổng hòa mang đặc trưng
riêng của vùng đất ven sông Gianh. Bởi vậy, khi nghiên cứu về "cấu trúc văn
hóa làng xã của người Việt ở Quảng Bình", Tiến sĩ Nguyễn Thế Hoàn cho rằng:
Quảng Bình nói chung (trong đó có vùng ven sông Gianh) là "vĩ tuyến giao tiếp
văn hóa" [11; 120].
1.2. Quá trình hình thành làng xã vùng đôi bờ sông Gianh
Quá trình hình thành làng xã ven sông Gianh gắn với các cuộc di dân trong
lịch sử và gắn với lịch sử mở mang bờ cõi của dân tộc. Quá trình này ở vùng ven
sông Gianh diễn ra muộn hơn vùng phía nam Quảng Bình. Nếu như các làng xã ở
huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy hình thành chủ yếu từ thời Lý - Trần và phát triển
dưới thời Lê - Nguyễn thì ở vùng ven sông Gianh lại hình thành chủ yếu từ thế kỉ
XV dưới thời Lê.
18
Sau cuộc kháng chiến 10 năm chống giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi, thiết lập
triều Lê, kinh tế được phục hồi và phát triển. Để phục hồi và phát triển nông
nghiệp, nhà Lê đã thi hành một số chính sách và biện pháp tích cực, trước hết đó
là việc khẩn hoang, đắp đê, lập đồn điền. Nhà Lê đặt các chức quan Hà đê sứ,
Khuyến nông sứ chăm lo việc đắp đê và khai hoang, phát triển nông nghiệp. Sau
chiến tranh, nhà Lê ra lệnh tịch thu ruộng đất của quan lại nhà Minh và bọn tay
sai, điền trang thái ấp của một số quý tộc đã chết và ruộng đất bỏ hoang sung vào
đất công xã chia cho nông dân cày cấy theo chế độ quân điền. Kinh tế điền trang
thái ấp dưới thời Trần dần dần được bỏ. Dưới thời Lý, Trần vùng đất Bố Chính
tuy đã được khai phá nhưng vẫn còn hoang sơ, dân cư thưa thớt, cần phải được
khẩn hoang với quy mô lớn hơn. Năm Đinh Hợi (1467) dưới triều Lê Thánh
Tông, Tham nghị thừa tuyên Hóa Châu là Đặng Thiếp dâng sớ trình bày năm
việc nên làm cho Hóa Châu trong đó có việc chiêu mộ kẻ lưu vong đến khai khẩn
ruộng hoang ở châu Bố Chính. Vùng đất này cư dân thưa thớt nên nhà Lê đã đặc
biệt quan tâm. Năm 1471, sau khi đánh thắng Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông

đã xuống chiếu chiêu mộ quan lại, binh lính, nhân dân đến khai phá, lập làng ở
vùng đất Bố Chính.
Bố Chính là đất rộng, ít dân cư, chạy đến châu Hoan, các quan lại hoặc dân
chúng muốn khai phá thì thu lợi lớn. Hưởng ứng chiếu dụ của nhà vua, nhiều
quan lại, binh lính, dân tự do đến đây khai hoang lập làng. Ngoài các thành phần
trên còn có những người lưu đày ở ngoại châu (phái bắc sông Gianh) và viễn
châu (nam sông Gianh) cũng được tham gia khai phá đất đai. Khác với vùng nam
trước đây, việc lập làng theo họ tộc thì lúc này thành phần dân cư lập làng đa
dạng hơn và vì thế công cuộc khẩn hoang vùng đất Bố Chính diễn ra nhanh
chóng hơn. Theo gia phả một số dòng họ, dưới thời vua Lê Thánh Tông việc di
dân lập làng đầu tiên tập trung ở hai bên bờ sông Gianh. Từ phía thượng nguồn
có thể kể đến Lệ Sơn (Văn Hóa), Vĩnh Phước (Quảng Trường), Lũ Phong,
Quảng Lộc, Hòa Ninh Phía nam sông Gianh là các làng Bồ Khê, Cao Lao, Cự
Nẫm Những nhóm người định cư dưới thời nhà Lê thường tập trung các vùng
có đất canh tác, bãi bồi ven sông, nhưng cũng có những làng được lập nên trên
các cửa sông, vùng ven biển thuận lợi cho nghề chài lưới. Từ những vùng cư dân
19
này, địa bàn cư trú dần lan tỏa lên phía tây và phủ kín địa bàn Bố Chính [8; 13].
Những dòng họ đến khai phá lập làng vùng đôi bờ sông Gianh bao gồm họ Đoàn,
họ Phạm, họ Trần, họ Nguyễn, họ Mai Cho đến nay, vẫn chưa xác định họ nào
đến trước, họ nào đến sau, làng nào ra đời sớm nhất. Do làng được hình thành
bởi nhiều dòng họ khác nhau cùng chung sức, cố kết để khai khẩn đất hoang,
biến đồng hoang nên vùng ven sông Gianh, không có làng nào được đặt tên theo
dòng họ như Phan Xá, Hoàng Xá ở vùng nam Quảng Bình mà do họ tự đặt
hoặc là do Nhà nước phong kiến đặt theo sự phân định ranh giới lãnh thổ. Làng
xã ven sông Gianh hình thành chủ yếu phân theo địa vực cư trú và nghề nghiệp.
Việc lập làng theo địa vực cư trú là hình thức tổ chức của những người sống gần
nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau hình thành thôn, xóm. Họ cố kết với nhau để
cùng giúp đỡ nhau trong sản xuất, trong đời sống, trong chống với thiên tai, địch
họa.

Làng xã vùng ven sông Gianh hình thành từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Có làng hình thành do những nhóm người di cư lẻ tẻ cố kết lại với nhau. Có làng
hình thành do một số quan lại được nhà nước phong kiến cấp đất đai và chiêu mộ
binh lính, nông dân, những người dân nghèo lưu vong đến khai phá đất đai. Có
làng hình thành do chính sách di dân, mở mang lãnh thổ của nhà nước phong
kiến… Tuy nhiên không có làng hình thành từ các đồn điền của nhà nước phong
kiến. Dù hình thành từ những nguyên nhân khác nhau nhưng những cư dân đến
đây đều là những người cần cù, chịu khó, có ý thức xây dựng và tạo lập cuộc
sống. Bên cạnh lấy nông nghiệp làm kinh tế chủ đạo, những cư dân vùng đôi bờ
sông Gianh còn làm các nghề khác mà họ mang theo khi định cư đến đây như
đan lát, nghề mộc, làm gốm… Cũng có một bộ phận dân cư khi đến định cư sinh
sống ở vùng đất này cũng đã lấy nghề thủ công làm hoạt động kinh tế chủ đạo.
Quá trình trao đổi sản phẩm đã dần hình thành hệ thống chợ làng nằm dọc bờ
sông Gianh như chợ Lộc Điền, chợ Trường, chợ Họa, chợ Thanh Trạch, chợ Hạ,
chợ Khương Hà… Thời các chúa Nguyễn, một số làng xã ở vùng đôi bờ sông
Gianh khá phát triển, một số thương thuyền đã cập bến mua hàng ở miền hạ lưu
sông Gianh. Trong suốt chiều dài lịch sử, một số làng có sự phát triển khá phồn
thịnh, thể hiện ở trong không gian cấu trúc làng. Chẳng hạn làng Cao Lao Hạ,
20
làng Hòa Ninh có cấu trúc không gian ngõ xóm theo kiểu ô bàn cờ, giống với
một đô thị. Các lối đi nhỏ và thẳng tắp. Sau này, do chiến tranh liên miên, dân cư
phiêu tán lên các vùng núi làm cho sự phát triển chững lại. Cho đến cuối thế kỷ
XVIII, vùng ven sông Gianh là nơi tập trung khá nhiều các làng xã, dân cư sống
chan hòa, đoàn kết cùng nhau xây dựng tạo lập cuộc sống, quá trình hình thành
làng xã vùng ven sông Gianh cơ bản kết thúc.
1.3. Sự phát triển thủ công nghiệp ven sông Gianh
1.3.1. Sự phát triển thủ công nghiệp ven sông Gianh
Vùng ven sông Gianh vốn là nơi có nhiều nghề thủ công nghiệp lâu đời,
nhất là dưới thời phong kiến, người dân ở đây bằng thủ công đã tạo ra những sản
phẩm có giá trị đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong vùng và đưa tới

những nơi khác. Những nghề truyền thống này nằm rải rác các nơi (có nơi chỉ
hành nghề khi nông nhàn), cũng có làng nghề chuyên làm nghề thủ công, tỷ lệ
cao so với dân trong xã như: Quảng Hòa, Quảng Thuận thuộc Quảng Trạch.
Vùng ven sông Gianh từ xưa nổi tiếng với các làng nghề sau:
Nghề dệt vải: từ xưa đã có nghề dệt vải bông tại Lũ Phong (Ba Đồn), những
người thợ dệt của Thuận Bài sản xuất ra một thứ lụa gọi là tơ. Nhưng nghề dệt
quan trọng nhất là ở Bố Trạch, vải thao Khương Hà, Thanh Lãng, Gia Hưng, Cao
Lao Thượng, Cao Lao Hạ trông dâu nuôi tằm, dệt thao đũi.
Nghề dệt chiếu ở Thanh Sơn (Quảng Trạch), nghề mộc và đồ tre ở Quảng
Cư, Thọ Đơn đan thúng mũng. Trung Thuần làm quạt, làng Pháp Kệ làm gối mây
và Diên Trường đan rổ bát đĩa và rế để nồi niêu.
Vùng ven sông Gianh còn là nơi có bề dày của nghề nấu sắt và rèn đúc.
Theo sách “Ô Châu cận lục”, “Vùng Lệ Thủy, Tư Vinh, Bố Chính sẵn nhiều
quặng, các xã Phù Tông, Cao Lao đã có lò nấu sắt” [1; 37]. Sắt từ xưa ở vùng
Quảng Bình nói chung trở thành sản phẩm quý để cống nộp cho triều đình, giống
như một sản vật nộp thuế. Lê Quý Đôn chép: “Qua xã Cao Lao, vượt núi Lê Đệ
mười mấy dặm, độ một canh rưỡi thì đến trang Điển Phúc, gọi là xứ Mục
Dưỡng. Trang này trước nộp thuế sắt. Hỏi lấy sắt ở đâu thì nói là lấy sắt ở núi
Lệ Đệ, một trang 50 lò, mỗi năm mỗi lò phải nộp 2 thỏi, cộng là 100 thỏi, nộp tại
Dinh Ngói” [10; 132]. Do nấu sắt phát triển nên nghề rèn rất phổ biến. Thường
21
có 3 hoặc 4 làng có một thợ rèn và làng rèn khá nổi tiếng ở vùng ven sông Gianh
là Hòa Ninh (thuộc xã Quảng Hòa, huyện Quảng Trạch). Mặc dù nghề rèn ở đây
chưa đạt đến mức chuyên môn hóa như hai làng Hoàng Giang và Phan Xá ở
huyện Lệ Thủy song sự xuất hiện hàng loạt các lò rèn dọc sông Hòa Giang cho
thấy nghề rèn ở đây khá phát triển. Họ hầu như chỉ sản xuất các công cụ cầm tay.
Các sản phẩm làm ra thường bán cho những người buôn bán sỉ, những người này
lại bán tại chợ Ba Đồn hoặc khắp các vùng trong tỉnh, một số sản phẩm được bán
sang Lào.
Nghề sản xuất hàng thực phẩm: ở đâu người ta cũng làm miến, bánh, bún các

loại bằng bột gạo. Thứ miến ngon nhất là miến chợ Điền. Quảng Trạch có làng
Trung Thuần có nhiều cơ sở sản xuất đường đen và mật mía. Tại Bố Trạch có nghề
làm rượu dâu. Tương và rượu dâu là cống vật tiến phẩm cho vua hằng năm.
Nghề làm nón: có nhiều nơi như Ba Đồn, Quảng Thuận, Quảng Tân, Cao
Lao Hạ, Cao Lao Thượng trong đó nổi tiếng nhất là nón Thổ Ngọa. Ngày nay
làng nón này vẫn phát huy được uy tín trên thị trường.
Nghề gốm có nhiều nhưng nhiều nhất là ở các làng: Ngọa Cương, Hòa
Ninh… thuộc huyện Quảng Trạch.
Nghề đóng thuyền: do đặc điểm bờ biển Quảng Bình dài, diện tích mặt nước
rộng do đó nghề đánh cá biển đã phát triển lâu đời kéo theo nghề đóng thuyền
phát triển, có nhiều nơi đóng thuyền nhưng nhiều nhất là ở Thanh Khê. Ở Thanh
Khê, nghề đóng thuyền đã có từ lâu đời, ngày nay con cháu họ vẫn phát huy
được truyền thống của cha ông từ bao đời nay. Trước cách mạng tháng Tám, cụ
Nguyễn Ký đã đóng được thuyền trọng tải 120 tấn. Với kỹ thuật thô sơ, chạy
buôn mà nghề vận tải biển vào nam ra bắc ngày càng thịnh vượng. Những năm
1944 – 1945 những chiếc ghe chở gạo từ Sài Gòn về cũng góp phần hạn chế nhất
định sự đói kém của địa phương.
Các nghề thủ công truyền thống ở vùng ven sông Gianh nói chung đều sử
dụng nguyên liệu địa phương là mây tre, lồ ô, cói, mây… Nghề mang tính phổ
thông, không có những bí quyết lớn về sản xuất, nhưng đòi hỏi tay nghề cao. Giá
trị sản phẩm thấp, đời sống khó khăn và không ổn định. Nhìn chung các làng
22

×