Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc dạy và học Tin học đạt được hiệu quả cao khi giáo viên và học sinh nắm
được chuẩn chương trình, kỹ năng, hiểu được ý đồ của tác giả đối với mỗi bài, biết
khai thác hết khả năng ứng dụng của CNTT vào dạy học, thiết kế nội dung website
và sử dụng chúng trong việc thiết kế giờ học, tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh. Đồng thời học sinh biết cách sử dụng chúng trong việc tự học, tự nghiên cứu,
giải quyết các vấn đề học tập một cách tích cực, góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học môn Tin học ở trường trung học phổ thông.
Việc vận dụng PPDH với chương trình Tin học 12 là một vấn đề khó, đòi hỏi
phải có thời gian (vì cơ bản PPDH chịu ảnh hưởng của kinh nghiệm và phải được
kiểm chứng bằng thực nghiệm).
Xác định vai trò quan trọng của việc vận dụng phương pháp phù hợp sẽ tác
động tích cực đến quá trình dạy học và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Có
sự đầu tư đúng mức trong việc trang bị kiến thức về cách thức tổ chức các hình thức
dạy học song song với việc trang bị kiến thức chuyên môn.
Thực trạng cho thấy rằng việc dạy học với các phương pháp truyền thống và
những nội dung hiện nay còn một số mặt hạn chế khó khắc phục. Quá trình dạy học
cung cấp cho HS những kiến thức có sẵn, hoạt động nhận thức mang tính thụ động,
không tích cực, sáng tạo. Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết TW 2, khóa VIII,
BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho HS”.
Bộ trưởng BCVT Đỗ Trung Tá nhận định để phát triển ứng dụng nhanh và
hiệu quả công nghệ tin học trong các lĩnh vực nói chung và trong nhà trường nói
riêng cần có 4 yếu tố quan trọng, đó là: Nhận thức (trước hết là nhận thức các ngành
phải được nâng cao), nhân lực (phải chuẩn bị nguồn nhân lực tương ứng trình độ),
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
1
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
nội dung (xây dựng những chương trình nội dung phù hợp), và network (hệ thống
mạng).
Từ những lý do trên, là một sinh viên ngành Sư phạm Tin học với mong muốn
có những tiếp cận ban đầu về những khó khăn mà HS gặp phải trong quá trình học
tập và đề xuất biện pháp tổ chức dạy học hiệu quả chương trình Tin học 12 nhằm
giúp HS thuận lợi trong việc tự học, tự kiểm tra, đánh giá để nắm vững kiến thức,
kỹ năng và để có thể vận dụng vào quá trình giảng dạy sau này, tôi chọn đề tài:
“Nghiên cứu một số khó khăn của học sinh và đề xuất biện pháp tổ chức dạy
học hiệu quả chương trình Tin học lớp 12” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu, nghiên cứu một số khó khăn mà HS gặp phải trong việc học tập
môn Tin học lớp 12.
- Phân tích nguồn gốc của những khó khăn mà HS gặp phải trong việc học tập
môn Tin học lớp 12.
- Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp tổ chức dạy học hiệu quả chương
trình Tin học lớp 12.
- Xây dựng một Website hỗ trợ dạy học hiệu quả chương trình Tin học lớp 12.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
- Lý luận dạy học, phương pháp dạy học Tin học.
- SGK Tin học 12, sách bài tập Tin học 12, sách GV Tin học 12.
- Phân phối chương trình dạy học Tin học 12.
- Tâm lý và tính tích cực của HS THPT nói chung của HS 12 nói riêng.
- Hoạt động dạy và học Tin học 12 ở nhà trường phổ thông.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu cấu trúc chương trình Tin học 12.
- Nghiên cứu một số khó khăn của HS trong quá trình học tập môn Tin học ở
lớp 12.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
2
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
- Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp tổ chức dạy học hiệu quả chương
trình Tin học 12.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi đề ra một số nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn việc dạy học Tin học THPT.
- Nghiên cứu nội dung chương trình SGK Tin học 12.
- Xác định một số khó khăn trong hệ thống kiến thức Tin học 12.
- Phân tích nguồn gốc của những khó khăn đó (HS, GV, SGK, chương trình
học, )
- Nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp tổ chức dạy học hiệu quả chương trình
Tin học 12.
- Xây dựng Website để trao đổi, hỗ trợ học sinh tự học, tăng cường khả năng
tự học, tự nghiên cứu của học sinh.
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khoa học và tính khả thi của đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Nghiên cứu SGK, internet, báo, tạp chí, tài liệu, giáo trình, các văn bản, chỉ
thị, nghị quyết, cơ bản liên quan đến nội dung đề tài. Trên cơ sở đó phân tích,
tổng hợp, khái quát rút ra những vấn đề cần thiết cho đề tài.
- Nghiên cứu chương trình SGK Tin học 12 và các tài liệu khác liên quan.
• Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Tìm hiểu tâm sinh lý và tính tích cực của HS lớp 12.
- Tìm hiểu thực tiễn dạy học của môn Tin học 12 thông qua: Tham gia dự giờ,
lấy ý kiến của các HS, các GV phụ trách giảng dạy môn Tin học ở trường phổ
thông, nhận sự góp ý của bạn bè và giảng viên hướng dẫn. Từ đó xác định được
những thuận lợi và khó khăn trong việc đề xuất các biện pháp tổ chức dạy học hiệu
quả chương trình Tin học 12.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
3
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
• Phương pháp thực nghiệm:
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về dạy học, tâm sinh lý của HS, một số khó
khăn của HS trong quá trình học tập môn Tin học 12, nghiên cứu đề xuất biện
pháp tổ chức dạy học hiệu quả chương trình Tin học 12, từ kinh nghiệm thực
tiễn chúng ta sẽ soạn giáo án thực nghiệm. Thực hiện việc thực nghiệm tại
trường phổ thông nhằm kiểm chứng kết quả nghiên cứu của đề tài.
• Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng phương pháp này để trình bày kết quả thực nghiệm sư phạm và kiểm
tra giả thuyết thống kê về sự khác biệt trong kết quả học tập hai nhóm đối chứng và
thực nghiệm.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
4
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở lý luận về khó khăn
1.1.1. Các dạng khó khăn
Có thể hiểu rằng khó khăn là một phần của cuộc sống. Nếu chúng ta nản chí
thì từ khó khăn sẽ trở thành thất bại. Nếu ta biết nhìn nhận những khó khăn để khắc
phục, tận dụng khó khăn để tiến lên chúng ta sẽ thành công.
Trong suốt hơn một thập niên qua, những vấn đề giáo dục của Việt Nam thường
là những đề tài gây tranh luận trên báo chí. Hầu hết đều ghi nhận truyền thống hiếu
học của học trò Việt Nam và sự hy sinh của bố mẹ cho việc giáo dục con cái. Sinh
viên Việt Nam tốt nghiệp ở các trường giỏi trong nước khi ra nước ngoài tiếp tục học
ở các trường cấp trên thường đạt thành công không mấy khó khăn. Thế nhưng, khi
nhìn vào chương trình giáo dục của Việt Nam hiện nay và theo dõi báo động của các
nhà giáo dục trong nước, khó có thể phủ nhận một thực tế là giáo dục tại Việt Nam
đang có vấn đề, ở mức độ khủng hoảng. Khủng hoảng hiện diện trong rất nhiều lãnh
vực khác nhau của giáo dục. Tình trạng bất cập, yếu kém trong chất lượng giáo dục
và việc xem nhẹ hình thành nhân cách cũng đã được ghi nhận trong một báo cáo
thẩm tra của Quốc hội. Vấn đề còn lại là làm sao giải quyết những khủng hoảng đó
dựa trên điều kiện thực tế của Việt Nam.
Một số khó khăn cơ bản như sau:
- Khó khăn về nhận thức
Nhận thức là một quá trình phức tạp, nó được bắt đầu từ việc xem xét hiện
tượng một cách trực tiếp, tích cục, sáng tạo và dựa trên cơ sở thực tiễn. Theo đó,
nhận thức không phải là một quá trình thuần tuý trừu tượng hay thuần tuý cụ thể.
Nó là sự phản ánh vào ý thức những hoạt động thực tiễn của con người, dưới dạng ý
niệm và biểu tượng. Vượt ra ngoài giới hạn của hoạt động thực tiễn sẽ không có quá
trình nhận thức.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
5
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
Tuy nhiên, để hình thành các khái niệm, phạm trù, quá trình nhận thức phải trải
qua những khó khăn, phức tạp nhất định. Sự phức tạp, khó khăn đó là ở chỗ:
1) Tư duy con người không thể bao quát hết toàn bộ bản chất của đối tượng,
không theo sát một cách đầy đủ toàn bộ quá trình phát triển của nó, mà chỉ phản ánh
đối tượng một cách cục bộ, đứt đoạn, chỉ tiếp cận được một số đặc điểm nào đó của
nó. Vì vậy nếu không hiểu được tính chất này của nhận thức thì rất dễ rơi vào quan
điểm siêu hình hoặc bất khả tri luận;
2) Nếu không hiểu đúng bản chất biện chứng của quá trình nhận thức thì chúng
ta rất dễ sa vào quan điểm duy tâm, tuyệt đối hoá vai trò của khái niệm, phạm trù -
coi chúng như là sản phẩm sáng tạo thuần tuý của tư duy, quy định sự vận động,
phát triển của thế giới. Điều này đã được Ph.Ăngghen lưu ý trong Chống Đuyrin và
Lênin nhắc lại trong Bút ký triết học.
- Khó khăn về nhân lực
Song hành cùng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của công tác quản
trị nguồn nhân lực (HR) ngày càng được coi trọng. Những chức danh như “giám
đốc nhân sự”, “trưởng phòng nhân sự” được nhắc tới ngày càng nhiều. Được giao
phó quản trị con người - nguồn lực quan trọng mang tính quyết định tới sự thành
công lâu dài của tổ chức hay doanh nghiệp, nhiệm vụ của bộ phận HR rất khó khăn
và cũng rất nặng nề.
Trong một tổ chức, mỗi nhân viên thường có xuất xứ, chuyên môn và trình độ
khác nhau. Chức năng của người làm HR là tối ưu hóa sự khác biệt này, tập trung
sức mạnh của từng cá thể để đem lại thành công cho tập thể. Tuy nhiên, vấn đề là sự
khác biệt này lại ít được quan tâm và trên thực tế, các nhân viên thường được “lắp”
một cách cẩu thả vào các vị trí trống. Khi bàn tới mục tiêu cho bộ phận, lãnh đạo bộ
phận thường tập trung vào kế hoạch, tầm nhìn của bộ phận mà coi nhẹ cách thức
triển khai, những năng lực, hành vi cần yêu cầu phải có đối với các nhân viên dưới
quyền để có thể đạt được những mục tiêu đề ra.
Trong quá trình hoạch định và triển khai các chính sách về nhân sự, lãnh đạo
hoặc bộ phận HR rất dễ có những quyết định thiên vị hoặc ngoại lệ. Một quyết định
bổ nhiệm hoặc luân chuyển công tác đôi khi được đưa ra chỉ để làm vừa lòng một
số cá nhân trong khi lại gây ra bất mãn với số đông còn lại. Những ngoại lệ này sẽ
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
6
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
làm mất lòng tin ở nhân viên, có tác động rất xấu tới quá trình triển khai các chính
sách quản trị nhân lực về lâu dài.
Nhất quán giữa lời nói và hành động là phương pháp các lãnh đạo hoặc nhà
quản trị HR thường dùng để tránh mắc sai lầm. Thường xuyên tiếp xúc với nhân
viên, tạo cơ hội để họ thẳng thắn bộc bạch những bất cập trong công tác quản lý
nhân sự là phương pháp tốt nhất để thành công. Đương nhiên để đảm bảo một môi
trường cởi mở và minh bạch, việc xử lý thông tin phản hồi một cách khéo léo và
luôn tuân thủ những nguyên tắc quản lý đã đề ra sao cho hài hòa là yếu tố cần thiết.
Đôi khi, lĩnh vực quản lý nhân sự còn bị coi là vấn đề “nhạy cảm”, thuộc nội
dung không thể chia sẻ với bên ngoài. Đối với các chuyên gia làm công tác nhân sự,
để điều chỉnh hoạt động quản trị nguồn nhân lực, không bao giờ quá muộn để làm
lại từ đầu…
- Khó khăn về tài chính
Thị trường tài chính là sản phầm tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự xuất
hiện và tồn tại của thị trường tài chính xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc
giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn to lớn trong nền kinh
tế phát triển cao. Trong nền kinh tế thị trường, quá trình điều hòa các nguồn vốn
nhàn rỗi từ nơi “thừa vốn” đến “nơi thiếu” vốn được diễn ra chủ yếu tại các thị
trường tài chính. Cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường tài chính là sự giải
quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các công cụ
tài chính, đặc biệt là các loại chứng khoán, làm nảy sinh nhu cầu mua bán, chuyển
nhượng chứng khoán giữa các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Chính sự phát
triển của nền hàng hóa và tiền tệ mà đỉnh cao của nó là kinh tế thị trường đã làm
nảy sinh một loại thị trường mới là thị trường tài chính.
1.1.2. Những khó khăn trong dạy và học ở nhà trường PT
* Khó khăn trong nhận thức
- Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong công cuộc đổi mới sâu
sắc và toàn diện, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Với
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
7
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
công cuộc đổi mới, chúng ta có nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào về phát triển
kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục.
- Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế mới cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp
giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn tác động đến
đại đa số thanh niên và học sinh như: có lối sống thực dụng, thiếu ước mơ và hoài
bão, lập thân, lập nghiệp; những tiêu cực trong thi cử, bằng cấp, chạy theo thành
tích. Thêm vào đó, sự du nhập văn hoá phẩm đồi truỵ thông qua các phương tiện
như phim ảnh, games, mạng Internet… làm ảnh hưởng đến những quan điểm về
tình bạn, tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên và học sinh, nhất là các em chưa
được trang bị và thiếu kiến thức về vấn đề này.
- Đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo Nghị quyết TW 2 khóa VIII nhấn
mạnh: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy
thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập
thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Trong những năm tới cần
tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức công dân, lòng yêu nước, chủ nghĩa
Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh… tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động
xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện”.
- Tin học là một môn học mới chưa có nhiều kinh nghiệm và về lý luận cũng
như thực tế cho việc giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Tin học là một ngành
công nghệ khá mới mẻ đối với Việt Nam và phát triển rất nhanh trên thế giới. Tại
Việt Nam, chưa bao giờ Tin học được đưa vào nhà trường thành môn học chính
thức và phổ cập đại trà (thời điểm 2005). Chính vì các lý do trên mà Tin học, Máy
tính mặc dù đối với xã hội đã phổ cập nhưng đối với nhà trường lại rất mới mẻ.
- Học sinh lớp 12 – trong giai đoạn cuối cấp nên HS chỉ chú tâm dành thời
gian học các môn thi tốt nghiệp, thi cao đẳng, đại học. Chính vì nhận thức sai lầm
của các em nên quỹ thời gian đầu tư cho môn Tin học còn hạn chế, nhiều HS học
theo kiểu đối phó, lười suy nghĩ,…
* Khó khăn về nhân lực
- Như chúng ta đã biết trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, Đảng đã chủ trương thực hiện CNH- HĐH để đưa đất nước ta, dân tộc ta thoát
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
8
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
khỏi nghèo nàn, lạc hậu và cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020,
xứng đáng sánh vai với các cường quốc năm châu.
Sự thành công to lớn ấy, bước đánh dấu quan trọng của một dân tộc, của một
đất nước đi lên từ nghèo nàn lạc hậu để sánh vai ngang tầm với các cường quốc ấy,
phụ thuộc phần lớn vào công tác giáo dục nước nhà, vào việc đào tạo nguồn nhân
lực và vào sự nghiệp trồng người của đội ngũ những người làm giáo dục, vào vai trò
quan trọng của thầy, cô giáo.
- Trong bối cảnh hiện tại đặt ra cho ngành giáo dục, đội ngũ thầy, cô giáo, cán
bộ quản lí và nhà trường trách nhiệm nặng nề. Trong việc thực hiện sứ mệnh nặng
nề nhưng cao cả đó, mỗi trường học phải là một tập thể đoàn kết, phấn đấu nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức, chất lượng dạy học đích thực, đào tạo thế hệ trẻ
trở thành công dân yêu nước, có văn hóa, có trình độ kiến thức, có kỹ năng khoa
học, có ý chí hoài bão vươn lên, không cam chịu nghèo hèn, làm giàu cho đất nước,
làm giàu cho bản thân. Để làm được điều đó, mỗi trường học, đặc biệt là các trường
phổ thông phải xây dựng cho được môi trường sư phạm tích cực, thân thiện giữa
thầy với thầy, trò với trò, thân thiện giữa thầy với trò, giữa nhà trường và cộng đồng
theo nguyên lý: " Giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình và xã hội".
- Đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và nhìn chung thấp về chất lượng, chưa
đáp ứng được yêu cầu vừa phải tăng nhanh quy mô vừa phải đảm bảo và nâng cao
chất lượng, hiệu quả giáo dục.
- Ở các trường PT, số giáo viên có trình độ thạc sỹ còn quá ít. Tình trạng trình
độ chuyên môn và nghiệp vụ của bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu
nâng cao chất lượng.
* Khó khăn về nội dung kiến thức
- Chương trình giáo dục còn mang nặng tính hàn lâm, kinh viện, nặng về thi
cử, chưa chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành.
- Nội dung kiến thức chưa gắn với nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội,
nhu cầu người học.
- Chương trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
9
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
- Một số bài do nội dung kiến thức dài nên việc tổ chức nhiều hoạt động sẽ dấn
đến thiếu thời gian "cháy giáo án", đôi khi việc tổ chức chỉ là hình thức.
- Do học sinh chưa mạnh dạn trao đổi ý kiến, kỹ năng tổng hợp kiến thức, kỹ
năng báo cáo trước tập thể còn rất hạn chế dẫn tới việc tổ chức hoạt động học tập
theo nhóm kém hiệu quả gây cho giáo viên tâm lý ngại tổ chức hoạt động nhóm
hoặc chỉ tiến hành trong những tiết thi giảng.
- Giáo viên đôi khi chưa có khả năng tự thiết kế phiếu học tập phù hợp với nội
dung bài học, nội dung phần kiến thức; trong khi đó sách giáo khoa không thể hiện
rõ yêu cầu hoặc lệnh cụ thể cho hoạt động như một số bộ môn khác.
* Khó khăn trong việc dạy và học thực hành
- Đối với môn tin học rất khó dạy khi giáo viên hoàn toàn không được dùng
máy tính để minh họa hay thực hành các thao tác mẫu của bài học. Nếu thầy và trò
trên lớp được học tập hoàn toàn với phấn và bảng (học chay), việc tiếp thu kiến
thức bài học có thể suy giảm đến 90%. Mặc dù theo thiết kế của chương trình và cố
gắng của các tập thể tác giả sách giáo khoa việc trình bày các kiến thức của bài học
đã cố gắng độc lập tối đa với các thao tác cụ thể trên máy tính, việc truyền đạt của
giáo viên vẫn phụ thuộc rất nhiều vào việc minh họa hay trình diễn trên máy tính.
- Nhiều kiến thức và bài học được diễn đạt thông qua các bước thực hành và
thao tác cụ thể trên máy tính. Rất nhiều bài học (ví dụ các bài học về hệ quản trị cơ
sở dữ liệu Microsoft Access) được diễn đạt hoàn toàn thông qua các thao tác cụ thể
với phần mềm. Nếu không có máy tính thì việc truyền thụ kiến thức sẽ gặp rất nhiều
khó khăn.
- Môi trường thực hành rất đa dạng và không thống nhất. Đây cũng là một đặc
thù rất nổi bật của bộ môn Tin học. Chỉ nói riêng họ hệ điều hành kiểu Windows
cũng đã có đơn gần 20 phiên bản khác nhau hiện đang được dùng tại Việt Nam, ví
dụ: Windows 95, 98, 98SE, ME, 2000 Professional, 2000 Server, XP Professional,
XP Home, 2003 Server và sắp tới lại có thể là Longhorn, Vista. Hệ thống cấu hình
đĩa đi kèm các tại các máy tính cũng rất đa dạng. Các máy tính có thể có một, hai
hay nhiều hơn các ổ đĩa cứng trong máy tính. Hệ thống file chính của hệ điều hành
không nhất thiết được cài đặt trong đĩa cứng C. Trên các máy tính thậm chí có thể
cài đặt song song nhiều hệ điều hành khác nhau. Giáo viên cần có chủ động cao
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
10
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
nhất khi giảng dạy lý thuyết cũng như hướng dẫn thực hành cho học sinh. Thông tin
trong các tài liệu giáo khoa chỉ mang tính pháp lý về kiến thức môn học chứ không
áp đặt qui trình thao tác trên máy tính. Với mỗi bài học cụ thể, tùy vào các điều kiện
thực tế mà giáo viên có thể hoàn toàn chủ động trong việc trình bày khái niệm,
minh họa thao tác trên máy tính sao cho dễ hiểu nhất đối với học sinh.
- Trong hoàn cảnh thực tế của nhà trường Việt Nam rất khó để có được một
mô hình lý tưởng về điều kiện thực hành trên máy tính.
* Những khó khăn trong kiểm tra và đánh giá
- Theo Phó GS TS Trần Kiều, một trong những điểm yếu kém nhất của hệ
thống giáo dục nước ta là đánh giá năng lực của người học. Để đánh giá học sinh,
giáo viên gần như chỉ dùng một phương pháp: ra đề kiểm tra.
- Với đa số giáo viên, việc ra đề kiểm tra cho học sinh chỉ đơn giản là có điểm
số ghi vào sổ điểm. Nhưng theo xu thế quốc tế hiện nay, ra đề kiểm tra chỉ là một
trong những phương pháp đánh giá mà thông qua đó chất lượng hoạt động dạy học
được nâng cao.
- Trước khi là giáo viên, họ đều đã được đào tạo cơ bản ở các trường ĐH, CĐ
Sư phạm. Hiện nay, phần lớn trong số họ đang tham gia quản lý.
Vậy nhưng, lần đầu họ được biết những điều đại loại như, một đề thi phải đạt
được những tiêu chí nào mới đảm bảo căn cứ khoa học, ý nghĩa của điểm số…
- Theo Phó giáo sư Tiến sĩ Trần Kiều, một trong những điểm yếu kém nhất của
hệ thống giáo dục nước ta là đánh giá các loại năng lực của người học. Từ mấy chục
năm nay, quan niệm, hiểu biết, cách làm đánh giá của cán bộ quản lý giáo dục cũng
như các giáo viên ít thay đổi, còn thiên về kinh nghiệm.
- Để đánh giá học sinh, giáo viên gần như chỉ dùng một phương pháp: ra đề
kiểm tra. Đã vậy, cách ra đề kiểm tra còn phiến diện, đơn điệu, thiếu cơ sở khoa
học. Kết quả đánh giá còn nhiều sai số hệ thống.
- Kiểm tra không chỉ là để cho điểm.
- Kiểm tra đánh giá học sinh là hoạt động bắt buộc và quen thuộc đối với tất cả
giáo viên đứng lớp. Nhưng phần lớn các giáo viên đều quan niệm, việc ra đề kiểm
tra cho học sinh đơn giản là có điểm số ghi vào sổ điểm. Từ đó, có căn cứ để cuối
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
11
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
học kỳ, cuối năm đánh giá học sinh. Còn các cán bộ quản lý giáo dục thì cho rằng,
đó là công việc của giáo viên chứ không phải của hiệu trưởng.
- Theo Giáo sư Anthony J.Nitko (Đại học Arizona, USA) - chuyên gia của Dự
án THCS II, xu hướng quốc tế hiện nay xem mục đích chính của việc đánh giá là
nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
- Để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, giáo viên phải xem đánh giá là
quá trình và là một phần không thể thiếu trong hoạt động giảng dạy của mình.
- Mặt khác, kiểm tra, đánh giá không còn hoạt động của riêng giáo viên mà
phải là của hiệu trưởng các trường học. Hiệu trưởng sử dụng việc đánh giá thường
xuyên (không chỉ thông qua các bài kiểm tra) để hướng dẫn học sinh học tập, giáo
viên giảng dạy và giám sát, nâng cao chất lượng trường học.
- Nhiều cán bộ quản lý cho rằng, áp dụng xu hướng quốc tế trong kiểm tra
đánh giá là một khó khăn với các trường học ở ta hiện nay. Trước hết là về nhận
thức của giáo viên cũng như cán bộ quản lý về tầm quan trọng của đánh giá.
- Bên cạnh đó, năng lực của đa số giáo viên nhìn chung còn hạn chế, khó ra
được những đề kiểm tra có căn cứ khoa học. Hơn nữa, điều kiện làm việc của giáo
viên còn khó khăn. Mỗi giáo viên phải đảm đương một khối lượng công việc lớn.
- Sỹ số mỗi lớp học lại đông. Vì thế, giáo viên không có thời gian để đầu tư
cho hoạt động kiểm tra, đánh giá. Còn hiệu trưởng thì bị sức ép bởi nhiều công việc
“không tên” nên cũng không ôm xuể cả việc đánh giá.
- Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng đồng ý rằng, khó khăn thì phải khắc phục. Vấn
đề ở chỗ, giá như các giáo viên và cán bộ quản lý đều nhận thức được sự cần thiết
phải học cách kiểm tra đánh giá học sinh.
* Khó khăn về tài chính
- Đầu tư cho giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách của nhiều quốc gia trên
thế giới cũng như tại Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi nước tuỳ theo điều kiện và đặc
điểm của mình có hình thức đầu tư khác nhau. Ở một số nước ngân sách quốc gia
đầu tư trực tiếp cho giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, hỗ trợ trực tiếp cho các
trường đại học, hay hỗ trợ trực tiếp cho người đi học.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
12
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
- Do khó khăn về tài chính, chính sách, hạ tầng cơ sở… nên chất lượng dạy tin
học còn bất cập, việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
còn lúng túng.
- Ở một số trường, điều kiện học tập của học sinh là hết sức khó khăn, hầu hết
học sinh không có góc học tập riêng, sách giáo khoa phụ thuộc vào việc cấp phát
của Nhà trường, không có các phương tiện bỗ trợ như sách tham khảo, máy tính
cho học tập.
- Nhìn chung, cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều thiếu thốn, thư viện
trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập còn thiếu và lạc hậu.
1.2. Cơ sở lý luận về biện pháp
1.2.1. Những biện pháp tổ chức dạy học hiệu quả ở nhà trường PT
- Đưa tri thức và công nghệ đến với vùng sâu.
- Đưa internet vào trường học là một trong những chương trình lớn của Bộ
GD&ĐT được triển khai từ năm 2008, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
quản lý, truy cập thông tin phục vụ dạy và học.
- Cần đầu tư cơ sở vật chất.
- Giáo viên xây dựng kế hoạch giảng dạy bộ môn, kế hoạch bài học cụ thể, chi
tiết, bám chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình bộ môn.
- Tùy từng nội dung, từng đơn vị kiến thức giáo viên có thể chọn các hình thức
tổ chức dạy học cho phù hợp nhằm khai thác có hiệu quả nội dung bài học.
- Trong một giờ học, tùy vào các bài cụ thể giáo viên có thể chọn một hình
thức tổ chức mang tính chất chủ đạo nhưng ít nhất phải sử dụng từ hai hình thức trở
lên và phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức để tránh nhàm chán ( phù hợp với
tâm lý lứa tuổi của HS). Tuy nhiên giáo viên chú ý không nên quá lạm dụng một
hình thức nào đó.
( VD: Trước đây khi mới áp dụng hình thức tổ chức hoạt động nhóm, có giáo
viên nội dung nào cũng hoạt động nhóm, gây mất thời gian mà hiệu quả thu được
lại không cao).
Do đó không nên sử dụng hoạt động thảo luận quá 2 lần trong một tiết học vì
một là không đảm bảo thời gian, hai là sẽ mang tính hình thức.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
13
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
- Để nâng cao chất lượng giảng dạy, áp dụng hiệu quả các hình thức tổ chức
dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, nâng cao chất lượng
giảng dạy bộ môn thì trước hết bản thân mỗi giáo viên phải thường xuyên tự bồi
dưỡng bằng nhiều hình thức như: dự giờ thăm lớp, tham khảo tài liệu… để hiểu
được bản chất của các hình thức dạy học từ đó vận dụng phù hợp vào thực tế giảng
dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, đáp ứng được những yêu cầu về đổi mới
dạy học hiện nay.
- Tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động
giáo dục của nhà trường, tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và có ý thức
sáng tạo.
- Phát huy sự chủ động sáng tạo của thầy, cô giáo, đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục trong điều kiện hội nhập quốc tế. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham
gia hoạt động đa dạng, phong phú của các tổ chức, cá nhân trong việc giáo dục văn
hóa, truyền thống lịch sử cách mạng cho học sinh.
- Ngày nay rèn luyện kĩ năng sống cho thế hệ trẻ mà tiêu biểu là học sinh là
trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và của cả xã hội, trong đó người giáo
viên giữ vai trò quyết định. Người giáo viên ngoài những yêu cầu về kiến thức
chuyên môn, đòi hỏi phải nắm vững kiến thức kĩ năng sống để giáo dục học sinh.
Tạo điều kiện để học sinh cảm nhận được không khí thân thiện với trường, lớp, với
gia đình và với mọi người.
- Đối với học sinh THPT, đây là lứa tuổi có nhiều thay đổi về mặt tâm sinh lý,
thích tìm tòi, học hỏi cái mới, điều lạ. Có bạn chưa phân biệt được cái gí tốt, cái gì
xấu, điều gì nên làm, điều gì không nên làm, nên đôi khi còn lẫn lộn. Do đó thầy, cô
giáo không chỉ là người "lái chuyến đò tri thức cập bến bờ tương lai" mà còn có thể
"lái con đò lạc lối cập bến hoàn lương". Thầy, cô sẽ dẫn dắt chúng em vượt qua
những khó khăn, thử thách để giúp chúng em nhận thức sâu sắc về những việc phải
làm đối với cuộc sống của bản thân và của mọi người.
- Giáo dục học sinh, tự phân tích tổng hợp và giải quyết tình huống cụ thể,
luôn tạo điều kiện, động viên các em tham gia các hoạt động của đoàn với những
sân chơi bổ ích: câu lạc bộ toán học, văn học, tiếng anh Tổ chức các chuyến về
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
14
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
nguồn thực tế ở địa phương để học sinh có thêm kiến thức về vốn sống, giáo dục
tình yêu quê hương đất nước.
- Ngoài giờ lên lớp giáo viên cần tranh thủ thời gian tìm hiểu học sinh để kịp
thời chia sẻ, giúp đỡ, động viên các em vượt qua khó khăn, lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng của các em Trong quá trình tìm hiểu thầy, cô phải chân thành, chủ
động xóa bỏ khoảng cách giữa thầy với trò, luôn lựa chọn những ngôn ngứ thích
hợp bổ ích nhằm giáo dục học sinh có thêm kiến thức trong đời sống.
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh: Trong
phương pháp tổ chức, người học - đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời là chủ
thể của hoạt động “học” - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ
chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không
phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những
tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí
nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến
thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không
rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này, giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn
hướng dẫn hành động. Nội dung và phương pháp dạy học phải giúp cho từng học
sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học: Phương pháp tích cực
xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho
họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ
được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học
trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học
chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học
ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác: Trong một lớp học
mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
15
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hoá về cường độ, tiến độ
hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi
công tác độc lập.
Žp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hoá này càng
lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng
yêu cầu cá thể hoá hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò: Trong dạy học, việc đánh
giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt
động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh
hoạt động dạy của thầy.
Ví dụ, đối với chương trình Tin học 12 chủ yếu tập trung vào chương 2 (phần
lớn khối lượng thời gian dành cho chương này), chương 1, 3 và 4 giúp cho HS nắm
bắt một số khái niệm khá trừu tượng mà muốn HS hiểu rõ các khái niệm này chúng
ta cần bám vào các ví dụ cụ thể có ở chương 2. Để thực hiện được PPDH dự án đối
với chương trình Tin học 12, chúng ta cần xây dựng một hệ thống quản lý thực và
gần gũi đối với học sinh như Quản lý điểm của học sinh, Quản lý sách thư viện,
- Đổi mới PPDH phải gắn với khai thác các phương tiện DH: Việc đổi mới
PPDH cần được quan tâm khai thác và phát huy tối đa các chức năng của các PTDH
hiện có để góp phần tăng hiệu quả quá trình dạy học. Trong dạy học Tin học, việc
khai thác các PTDH là một yêu cầu bắt buộc (trong điều kiện hiện có của nhà
trường), đòi hỏi mỗi giáo viên phải biết và thực hiện được một tiết giảng với những
trang thiết bị hỗ trợ, cụ thể như: Máy tính, Máy chiếu Projector, máy chiếu
Overhead, Mạng máy tính, Hệ thống HiClass/HiShare và hệ thống các phần mềm
điều khiển, mô phỏng như NetOpSchool, PowerPoint, Flash, Adobe Presenter,
LectureMaker, Acrobat, MindMap,
Phương tiện, thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển
khai chương trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới
phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp
ứng yêu cầu này phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học
sinh thực hiện các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
16
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
- Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy
học được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học hợp tác.
- Trong quá trình biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên, các tác giả đã chú ý
lựa chọn danh mục thiết bị và chuẩn bị các thiết bị dạy học theo một số yêu cầu để
có thể phát huy vai trò của thiết bị dạy học. Những yêu cầu này rất cần được các cán
bộ chỉ đạo quản lí quán triệt và phối hợp cùng triển khai trong phạm vi mình phụ
trách. Cụ thể như sau :
+ Đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống và có chất lượng cao của thiết bị dạy
học, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động của học sinh trên cơ sở tự giác, tự khám phá
kiến thức thông qua hoạt động thực hành, làm thí nghiệm trong quá trình học tập.
+ Đảm bảo để nhà trường có được thiết bị dạy học ở mức tối thiểu, đó là
những thiết bị thực sự cần thiết không thể thiếu được.
+ Chú trọng thiết bị thực hành giúp học sinh tự tiến hành các bài thực hành,
thí nghiệm. Những thiết bị đơn giản có thể được giáo viên, học sinh tự làm góp
phần làm phong phú thêm thiết bị dạy học của nhà trường. Công việc này rất cần
được quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo trường, Sở.
+ Đối với những thiết bị dạy học đắt tiền sẽ được dùng chung. Nhà trường
cần lưu ý tới các hướng dẫn sử dụng, bảo quản và căn cứ vào điều kiện cụ thể của
trường đề ra các qui định để thiết bị được giáo viên, học sinh sử dụng tối đa.
1.3. Cơ sở lý luận về Blog
1.3.1. Blog là gì?
“Blog” là một thuật ngữ có nguồn gốc từ cặp từ “Web Log” hay “Weblog”
dùng để chỉ một tập san cá nhân trực tuyến, một quyển nhật ký dựa trên nền web
hay một bản tin trực tuyến nhằm thông báo những sự kiện xảy ra hàng ngày về một
vấn đề gì đó.
Blog được phân biệt với các loại website khác dựa trên khía cạnh kỹ thuật và
các chức năng riêng chứ không dựạ vào nội dung trên đó.
Các tính năng làm blog trở nên khác biệt so với các dạng website khác gồm:
- Nội dung được trình bày theo một trình tự thời gian.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
17
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
- Nội dung thường xuyên cập nhật, người xem có khả năng viết bài phản hồi
(comment) - Các blogger có thể tương tác thông qua các dạng backlink (chưa phổ
biến lắm ở Việt Nam).
- Nội dung được phân phối thông qua định dạng RSS (các diễn đàn cũng phân
phối thông tin thông qua RSS nhưng vẫn không phải là blog).
1.3.2. Sử dụng blog trong dạy học – Ưu điểm và hạn chế
1.3.2.1. Ưu điểm
- Blog có thể áp dụng trong giảng dạy một số môn học cần sự tương tác giữa
những người học và hoạt động nhóm trong và ngoài lớp ở tất cả các cấp học. Ở
những khu vực đã có Internet thì có thể khai thác blog phục vụ cho giảng dạy rất
dễ dàng.
- Học sinh rất cần có sự đánh giá từ nhiều đối tượng và nhiều góc độ khác nhau
để hiểu sâu hơn về cái đúng, cái sai trong bài làm của mình. Việc tranh luận với
thầy cô và bạn bè về bài viết của mình sẽ giúp học sinh rút kinh nghiệm để phát huy
khả năng tự học.
- Thời gian 45 phút trên lớp chỉ đủ để giáo viên truyền dạy những kiến thức
trọng tâm. Sử dụng blog có thể phát huy tính tích cực hoạt động hóa của học sinh.
Việc đăng kiến thức bài học lên blog và những yêu cầu cần chuẩn bị cho học sinh
trước giờ học sẽ giúp học sinh tích cực hơn, hoạt động nhiều hơn. Ở trên lớp giáo
viên sẽ khai thác được nhiều kiến thức hơn.
- Nhiều học sinh tự ti khi biết mình yếu kém thì sẽ không hỏi bài giáo viên trên
lớp, tuy nhiên những học sinh tự ti có thể trao đổi hỏi bài giáo viên một cách thoải
mái thông qua blog dưới một nickname nào đó.
- Trong quá trình giảng dạy, xuất hiện một vấn đề thảo luận, hoặc các kiến
thức bên ngoài mà thời gian bị giới hạn. Việc dùng blog sẽ mở rộng không gian và
thời gian đê học sinh và giáo viên có thể cùng nhau thảo luận, trao đổi, tranh cãi để
làm rõ vấn đề.
- Sử dụng blog có thể giúp giáo viên nhận được những phản hồi từ học sinh, từ
đó giáo viên có thể điều chỉnh phương pháp dạy học của mình cho thích hợp, nâng
cao chất lượng dạy học.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
18
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
1.3.2.2. Hạn chế
- Việc tạo ra blog dạy học đòi hỏi giáo viên phải có thời gian để có thể đưa các
bài giảng, tài liệu lên blog để học sinh tham khảo, trao đổi, thảo luận.
- Sử dụng blog hỗ trợ dạy học cũng gặp khó khăn nếu như nhiều học sinh
không biết về mạng internet.
- Học sinh chưa có thói quen tự học ngoài giờ lên lớp và tham gia hoạt động
nhóm trong lớp học, vì vậy, nhiều em còn tham gia chiếu lệ gây sự bất bình của các
học sinh tích cực trong nhóm.
1.4. Đặc điểm tâm sinh lý học sinh THPT
Học sinh Trung học phổ thông( đặc biệt là học sinh lớp 12) đã hoàn thiện về thể
chất, đồng thời có sự phát triển ổn định các chức năng thần kinh và não bộ. Điều này
tạo nên những thuận lợi cho hoạt động nhận thức của các em, làm cơ sở cho lựa chọn
và sử dụng những phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực học tập.
Thứ nhất: Bằng ý thức về động cơ học tập của học sinh cuối cấp ngày càng được
hoàn thiện độc lập, chủ động ở mức cao. Học sinh cuối cấp thường có lòng khao khát
mở rộng tri thức, mong muốn hiểu biết, say mê quá trình giải quyết các nhiệm vụ học
tập, say mê với việc phát hiện, khám phá những điều mới lạ và học tập trở thành nhu
cầu không thể thiếu ở các em. Động cơ học tập sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần thường
xuyên thúc đẩy các em nổ lực giành lấy tri thức. Đặc điểm này tạo thuận lợi cho giáo
viên trong quá trình dạy học và tổ chức các hoạt động đảm bảo tính tự lực và phát
triển tư duy cho học sinh trong việc lĩnh hội tri thức.
Thứ hai: Khả năng nhận thức của học sinh THPT sâu sắc, nhạy bén hơn. Học
sinh phát triển ổn định về não bộ, đã có trí nhớ tốt, ghi nhớ có chủ định, có logic, có ý
nghĩa. Học sinh biết lựa chọn những kiến thức cơ bản, ghi nhớ bài học có trọng tâm.
Các thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, phát triển khá
đầy đủ. Điều này hình thành cho học sinh tính độc lập, năng động, sáng tạo, trí thông
minh rất thuận lợi cho việc rèn luyện kỹ năng thực hành.
Thứ ba: Tính hoài nghi khoa học ở độ tuổi này cũng xuất hiện, học sinh thường
đặt ra các vấn đề, các câu hỏi thắc mắc để tìm hiểu bản chất bên trong của các sự vật,
hiện tượng. Học sinh cũng muốn gắn những kiến thức đã học để liên hệ với những
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
19
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
vấn đề có liên quan đến đời sống xung quanh. Các em thường thích tranh luận và bày
tỏ ý kiến độc lập của mình. Nhờ vậy mà giáo viên có thể dựa vào đặc điểm này để đặt
ra những tình huống có vấn đề trong dạy học, hướng dẫn và kích thích các em độc lập
suy nghĩ để giải quyết các vấn đề liên quan đến thực tiễn. Đây là một trong những
điều kiện thuận lợi nhằm rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh.
Tóm lại: Đặc điểm tâm sinh lý và nhận thức của học sinh lớp 12 đã có những
biến đổi mạnh mẽ so với học sinh các lớp dưới; năng lực quan sát sâu sắc, nhạy bẹn
hơn, khả năng tư duy trìu tượng cao hơn, đặc biệt là khả năng phân tích tổng hợp,
so sánh, trìu tượng hóa, khái quát hóa, học sinh rất năng động, sáng tạo… đặc điểm
này rất thuận lợi để giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích
cực nhằm rèn luyện có hiệu quả các kỹ năng cho học sinh.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
20
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ KHÓ KHĂN CỦA HỌC SINH VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP TỔ
CHỨC DẠY HỌC HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH TIN HỌC LỚP 12
2.1. Giới thiệu sách giáo khoa Tin học 12
2.1.1. Các định hướng chính
SGK đã bám sát mục tiêu đề ra, bảo đảm đúng, đủ các yêu cầu, nội dung cần
chuyển tải. Do thời lượng được điều chỉnh tăng và qua thời gian thí điểm, SGK Tin
học 12 đã có một số bổ sung sửa đổi theo hướng:
- SGK sẽ được sử dụng tương đối lâu dài;
- Thuận tiện cho việc cập nhật kiến thức công nghệ mới;
- Tiếp thu các kinh nghiệm, đánh giá, góp ý qua việc sử dụng SGK thí điểm,
chú trọng cách trình bày phù hợp hơn với đối tượng học sinh phổ thông;
- Giảm tải, tăng cường rèn luyện kĩ năng bằng cách tăng thêm bài tập và thực
hành, bổ sung giờ bài tập trên lớp;
- Liên thông với SGK Tin học 10 và Tin học 11.
2.1.2. Cấu trúc và nội dung
Các nội dung
- Các khái niệm ban đầu về hệ CSDL;
- Hệ QTCSDL Microsoft Access;
- Các khái niệm ban đầu về hệ CSDL quan hệ;
- Kiến trúc và bảo mật các hệ CSDL.
Cấu trúc
• Có tất cả 13 §, 11 bài tập và thực hành, 2 bài đọc
thêm, 4 phụ lục. Với mỗi chủ đề, các nội dung đều có tiêu đề và số thứ tự.
Cụ thể như sau:
- Chương I. Khái niệm về hệ CSDL: trình bày trong §1 và §2; 1 bài tập
và thực hành (bài 1) và 1 bài đọc thêm (bài 1).
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
21
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
- Chương II. Hệ QTCSDL Microsoft Access: được trình bày từ §3 đến
§9; 8 bài tập và thực hành (từ bài 2 đến bài 9) và bài đọc thêm (bài 2).
- Chương III. Hệ CSDL quan hệ: được trình bày trong §10 và §11; 1 bài
tập và thực hành (bài 10).
- Chương IV. Kiến trúc và bảo mật các hệ CSDL: được trình bày trong
§12 và §13; 1 bài tập và thực hành (bài 11).
- Bốn phụ lục liên quan trực tiếp đến Access và được đánh số thứ tự từ 1
đến 4.
• Tương tự như SGK Tin học 10 và Tin học 11, mục tiêu và nội dung
tóm tắt mỗi chương của SGK Tin học 12 được giới thiệu ở đầu chương.
Cuối mỗi § có phần câu hỏi và bài tập giúp học sinh ôn tập, hệ thống và
củng cố các kiến thức chủ yếu của § đó.
• Nhằm khích lệ việc tự học, tự mở rộng, nâng cao kiến thức, trong
SGK có các bài đọc thêm và các phụ lục. Khi trình bày các khái niệm,
nhóm tác giả chú trọng việc đưa ra những ví dụ có lựa chọn để giải thích,
giải thích, giúp cho việc tiếp thu của học sinh dễ dàng hơn.
• Kênh hình cũng đã được các tác giả quan tâm (có trên 50 hình và bảng
biểu). Trong phụ lục 3 có rất nhiều hình để tham khảo thêm đồng thời
giáo viên có thể sử dụng để xây dựng sẵn các bảng biểu như là đồ dùng
dạy học, nhất là đối với những trường còn thiếu máy tính, máy chiếu để
trình bày bài giảng.
2.2. Chuẩn chương trình Tin học lớp 12
2.2.1. Mục tiêu
Mục tiêu chung của Tin học 12:
Về kiến thức
Cung cấp cho học sinh các kiến thức ban đầu về:
- Hệ cơ sở dữ liệu
- Hệ quản trị cơ sở dữ liệu ( HQTCSDL ) quan hệ.
- Kiến trúc hệ CSDL và bảo mật hệ CSDL.
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
22
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
Về kĩ năng
Rèn luyện cho học sinh bước đầu có kĩ năng làm việc với một hệ QTCSDL
quan hệ cụ thể.
Về thái độ
Có ý thức bảo mật thông tin và sử dụng máy tính để khai thác thông tin, phục
vụ công việc hàng ngày.
2.2.2. Chương trình và chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ
SGK được biên soạn dựa trên chuẩn chương trình ban hành kèm theo Quyết
định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05 tháng 05 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
Chủ đề Mức độ cần đạt Ghi chú
Khái niệm cơ sở dữ liệu và hệ quản trị cơ sở dữ liệu
1. Khái niệm
cơ sở dữ liệu
Kiến thức
- Biết khái niệm CSDL.
- Biết vai trò của CSDL trong học tập và
cuộc sống.
- Biết các yêu cầu cơ bản đối với hệ
CSDL.
Lấy bài toán quản lí
của nhà trường hoặc
một cơ quan xí
nghiệp để minh họa.
2. Hệ quản trị
cơ sở dữ liệu
Kiến thức
- Biết khái niệm hệ quản trị CSDL.
- Biết chức năng của hệ quản trị CSDL:
Tạo lập CSDL; cập nhật dữ liệu, tìm kiếm
kết xuất thông tin; kiểm soát, điều khiển
việc truy cập vào CSDL.
- Biết vai trò của con người khi làm việc
với hệ CSDL.
Phân biệt CSDL với
hệ quản trị CSDL.
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ Microsoft Access
Kiến thức
- Hiểu các chức năng chính của Access:
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
23
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
1. Giới thiệu
Microsoft
Acceess
Tạo lập bảng, thiết lập mối liên kết giữa
các bảng, cập nhật và kết xuất thông tin.
- Biết bốn đối tượng chính: bảng, mẫu hỏi,
biểu mẫu và báo cáo.
- Biết hai chế độ làm việc: Chế độ thiết kế
(làm việc với cấu trúc) và chế độ làm việc
với dữ liệu.
Kĩ năng
Thực hiện được khởi động và ra khỏi
Access, tạo CSDL mới, mở CSDL đã có.
Cần xây dựng các bài
thực hành và tổ chức
thực hiện tại phòng
máy để học sinh đạt
được những kĩ năng
theo yêu cầu.
2. Cấu trúc
bảng
Kiến thức
- Hiểu các khái niệm chính trong cấu trúc
dữ liệu bảng:
+ Cột (Thuộc tính): tên, miền giá trị.
+ Hàng (Bản ghi): bộ các giá trị của
thuộc tính.
+ Khóa.
- Biết tạo và sửa cấu trúc bảng.
- Hiểu việc tạo liên kết giữa các bảng.
Kĩ năng
- Thực hiện được tạo và sửa cấu trúc bảng,
nạp dữ liệu vào bảng, cập nhật dữ liệu.
- Thực hiện được việc khai báo khóa.
- Thực hiện được việc liên kết giữa hai
bảng.
- Lấy ví dụ cụ thể để
trình bày cấu trúc
bảng.
- Lấy ví dụ minh họa
cho mục tiêu thiết kế
đơn giản.
- Cần xây dựng các
bài thực hành và tổ
chức thực hiện tại
phòng máy để học
sinh đạt được những
kĩ năng theo yêu cầu.
3. Các thao tác
cơ sở
Kiến thức
Biết các lệnh làm việc với bảng: Cập nhật
dữ liệu, sắp xếp và lọc, tìm kiếm đơn giản,
tạo biểu mẫu.
- Học sinh cần có kĩ
năng bước đầu thực
hiện những công việc
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
24
Khóa luận tốt nghiệp 2007-2011 GVHD: Th.S Nguyễn Tương Tri
Kĩ năng
Thực hiện được: Mở bảng ở chế độ trang
dữ liệu, cập nhật dữ liệu, sắp xếp và lọc,
tìm kiếm đơn giản, tạo biểu mẫu bằng
thuật sĩ, định dạng và in trực tiếp.
này.
- Sử dụng thích hợp
hai chế độ: Tự thiết
kế và dùng thuật sĩ.
4. Truy xuất dữ
liệu
Kiến thức
- Biết khái niệm và vai trò của mẫu hỏi.
- Biết các bước chính để tạo ra một mẫu
hỏi.
Kĩ năng
- Viết đúng biểu thức điều kiện đơn giản.
- Tạo được mẫu hỏi đơn giản.
Cần xây dựng các bài
thực hành và tổ chức
thực hiện tại phòng
máy để HS đạt được
những kĩ năng theo
yêu cầu.
5. Báo cáo
Kiến thức
- Biết khái niệm báo cáo và vai trò của nó.
- Biết các bước lập báo cáo.
Kĩ năng
- Tạo được báo cáo bằng thuật sĩ.
- Thực hiện được lưu trữ và in báo cáo.
Cần xây dựng các bài
thực hành và tổ chức
thực hiện tại phòng
máy để HS đạt được
những kĩ năng theo
yêu cầu.
Cơ sở dữ liệu quan hệ
1. Các loại mô
hình cơ sở dữ
liệu
Kiến thức
Biết hai loại mô hình dữ liệu: lôgic và
vật lí.
2. Hệ cơ sở dữ
liệu quan hệ
Kiến thức
- Biết khái niệm mô hình quan hệ.
- Biết các đặc trưng cơ bản của mô hình
quan hệ: cột (trường), hàng (bản ghi).
- Biết khái niệm khóa và khái niệm liên
- Lấy ví dụ trong
thực tế (thư viện,
bảng điểm, ) để
minh họa.
- Không lệ thuộc vào
hệ quản trị CSDL
SVTH: Nguyễn Thị Song Hải
25