Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Phát triển tư duy cho học sinh lớp 3 trong phân môn “Luyện từ và câu” thông qua hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn trương thị bé

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.63 KB, 98 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa các bậc hiền triết và các nhà giáo dục từ cổ chí kim đều thừa
nhận tư duy có vai trị quyết định đến sự phát triển của văn minh loài người. Từ
thời Khổng Tử đã coi trọng mối quan hệ giữa các khâu giáo dục. Ông nhấn
mạnh trong dạy học cần tuân thủ: “Học đi đôi với tư (tư là tư duy), với tập, với
hành” [23; tr 1] Ngạn ngữ cổ Hi Lạp cũng nhấn mạnh: “Dạy học khơng phải là
rót kiến thức vào một chiếc thùng rỗng mà là thắp sáng lên những ngọn lửa”
[24; tr 1-2]. Ngọn lửa được hiểu là tư duy. Đối với các nước phương Tây, tư duy
được coi là giá trị tạo nên tất cả: “Tư duy tạo nên sự cao cả của con người”
(Pascal); Ở nước ta, các nhà lãnh đạo, các nhà giáo dục cũng đặt tư duy vào bậc
hàng đầu. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “Điều chủ yếu không phải
là nhồi nhét một mớ kiến thức hỗn độn,…mà là một phương pháp suy nghĩ,
phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề”
[23; tr 1]
Đứng trước xu thế phát triển tất yếu trong thời kỳ hội nhập quốc tế, một
trong những thách thức lớn nhất của nền giáo dục Việt Nam là đào tạo ra những
con người phát triển tồn diện về trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, thể chất và thái độ
lao động. Những con người đó cần có cả đức lẫn tài mà năng lực tư duy là điều
kiện cần thiết để chúng ta khám phá và lĩnh hội tri thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói: “Vì sự nghiệp mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì
phải trồng người” [21; tr 430], luận điểm này có ý nghĩa thực tiễn rất cao. Để có
một đời cây khỏe mạnh, giáo dục cần có thời gian vun trồng, chăm bón. “Trồng
người” xét về khía cạnh nào đó cũng giống như trồng cây. Nếu trồng cây phải
chăm lo vun trồng từ khi còn là mầm cây nhỏ bé yếu ớt, để cây khỏe mạnh, lớn
thẳng, vươn cao, không bệnh tật, cịi cọc, thì “trồng người” phải dạy dỗ, giáo
dục, uốn nắn từ khi còn ấu thơ, ngay khi trẻ bắt đầu bước chân vào con đường tri
thức. Chính vì vậy, việc rèn luyện khả năng tư duy cho HS cần phải được thực
hiện ngay từ cấp học đầu tiên. Tuy nhiên, để có được những con người phát triển
tồn diện, không đơn thuần chỉ là sự chăm lo về mặt vật chất mà là cả một quá



trình giáo dục, quá trình nhận thức và học tập, phấn đấu lâu dài, gian khó suốt cả
cuộc đời. Rõ ràng, sự nghiệp trồng người khác xa về chất so với công việc trồng
cây. Trong thời đại của nền kinh tế tri thức thì tư duy càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết, Tất cả mọi hành động của con người đều theo mệnh lệnh của
bộ não – tư duy. Tư duy chỉ đạo hành động và chính hành động quyết định sự
thành bại và số phận con người. Vậy làm thế nào để phát triển tư duy cho người
học một cách hiệu quả đó chính là vấn đề lớn đặt ra khơng chỉ cho ngành giáo
dục mà cịn là mối quan tâm của toàn xã hội.
Thế kỷ XXI với nhiều thách thức nhưng cũng mở ra nhiều vận hội đối với
đất nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nhấn mạnh
“Giáo dục phải thật sự trở thành quốc sách hàng đầu… Cải tiến chất lượng dạy
và học để hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người cho CNHHDH đất nước” [ 22; tr 133 ]. Trong hệ thống giáo dục quốc dân thì giáo dục
tiểu học là điều kiện cơ bản để năng cao dân trí, là bậc học đầu tiên mà các em
được tiếp cận với những tri thức của nhân loại. Là cơ sở để hình thành cho các
em những kiến thức ban đầu và khả năng tư duy. Do đó địi hỏi giáo dục phải
hình thành và phát triển tư duy cho trẻ ngay khi trẻ bước vào bậc Tiểu học.
Cùng với những môn học khác, mơn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học
có vai trị rất quan trọng, nó là cơng cụ kì diệu có sức hấp dẫn con người ngay từ
thuở ấu thơ, nó giúp hồn thành kỹ năng hoạt động ngơn ngữ cho HS. Thông
qua việc học Tiếng Việt rèn cho HS khả năng tư duy, phương pháp suy
nghĩ,giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm trong sáng. Đặc biệt, phân mơn
“Luyện từ và câu” có vị trí rất quan trọng là công cụ giao tiếp tư duy và học tập.
Xuất phát từ mục đích u cầu của mơn Tiếng Việt trong trường Tiểu học nói
chung, phân mơn “Luyện từ và câu” nói riêng, việc rèn luyện năng lực tư duy
cho HS là điều hết sức cần thiết. Đặc biệt đối với HS lớp 3, đây là giai đoạn các
em sẵn sàng cho việc tiếp thu những tri thức mới của nhân loại khi đã học được
cách đọc chữ, viết chữ ở lớp 1 và những kiến thức vỡ lòng ở lớp 2. Chính vì vậy,
việc phát triển tư duy cho các em là một trong những vấn đề hết sức cần thiết.
Đây chính là nền tảng cho các em tiến thêm trên con đường của tri thức nhân

loại.


Tuy nhiên để phát triển tư duy trong phân môn “Luyện từ và câu” cho HS
không phải là điều dễ dàng, cần phải có những phương pháp đúng đắn, những
đổi mới trong việc giảng dạy. Trong mấy năm gần đây, khi nhà nước chủ trương
sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan vào một số kì thi quốc gia quan
trọng và sử dụng một phần ở các bậc học thì ngày càng có nhiều người, đặc biệt là
các nhà giáo quan tâm đến phương pháp này. TNKQ là một phương pháp có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp HS phát triển tư duy linh hoạt, nhanh nhẹn. Đặc
biệt TNKQNLC góp phần giúp HS tự suy nghĩ lựa chọn được những đáp án đúng
với thời gian ngắn, phát triển khả năng tư duy logic cho HS.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “ Phát triển
tư duy cho học sinh lớp 3 trong phân môn “Luyện từ và câu” thông qua hệ
thống bài tập trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- HS lớp 3 trường Tiểu học Yên Hóa và trường Tiểu học Xuân Hóa.
- Hoạt động tư duy của HS lớp 3 trong phân môn “Luyện từ và câu” thông
qua câu hỏi TNKQNLC.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian thực hiện đề tài có hạn, vì vậy chúng tơi chỉ tiến hành điều tra
nghiên cứu và thực nghiệm tại trường Tiểu học Yên Hóa và trường Tiểu học
Xuân Hóa.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu, khóa luận phải thực hiện các nhiêm vụ sau
đây:
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu về thực trạng của việc phát triển tư duy cho HS lớp 3 trong phân
môn “Luyện từ và câu” thông qua hệ thống bài tập TNKQNLC.

- Xây dựng hệ thống bài tập TNKQNLC cho HS lớp 3 trong phân môn
“Luyện từ và câu”.


- Tiến hành TNSP để thu thập kết quả, đánh giá hiệu quả của việc sử dụng
hệ thống bài tập TNKQNLC trong việc phát triển tư duy cho HS lớp 3 trong
phân môn “Luyện từ và câu”.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
* Nhóm phương pháp lý thuyết:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp xử lý số liệu.
* Nhóm phương pháp thực hành:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
5. Đóng góp của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài góp phần:
- Làm sáng tỏ vai trò, ý nghĩa của hệ thống bài tập TNKQNLC trong việc
phát triển tư duy cho HS lớp 3 trong phân môn “Luyện từ và câu”.
- Đề tài góp phần tìm hiểu về thực trạng việc phát triển tư duy cho HS lớp 3
trong phân môn “Luyện từ và câu” thông qua hệ thống bài tập TNKQNLC.
- Đề tài đã xây dựng một số bài tập TNKQNLC nhằm góp phần phát triển
tư duy cho HS lớp 3 trong phân môn “Luyện từ và câu”.
- Là tài liệu tham khảo cho HS và giáo viên trong quá trình dạy và học phân
môn “ Luyện từ và câu” lớp 3.
6. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm 3 phần cơ bản:
Phần I: Mở đầu

Phần II: Nội dung
Phần III: Kết luận
Trong phần nội dung bao gồm các chương sau:


Chương 1: Cơ sở lý luận của việc phát triển tư duy cho học sinh lớp 3 trong
phân môn “Luyện từ và câu” thông qua hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan
nhiều lựa chọn
Chương 2: Thực trạng của việc phát triển tư duy cho học sinh lớp 3 trong
phân môn “Luyện từ và câu” thông qua hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan
nhiều lựa chọn
Chương 3: Một số biện pháp phát triển tư duy cho học sinh lớp 3 thông qua
hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn trong phân môn “Luyện
từ và câu” và thực nghiệm sư phạm.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO
HỌC SINH LỚP 3 TRONG PHÂN MÔN “ LUYỆN TỪ VÀ CÂU”
THÔNG QUA HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM
KHÁCH QUAN NHIỀU LỰA CHỌN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề phát triển tư duy cho
HS Tiểu học thông qua phân môn “Luyện từ và câu” với nhiều cơng trình, bài
viết về TNKQNLC. Trong phạm vi khóa luận này chúng tôi đã tiếp cận những
tài liệu và các tác giả có liên quan:
• TS. Nguyễn Thị Xn Yến với bài viết “Phát triển tư duy cho học sinh
qua dạy học môn Tiếng Việt” đã đề cập đến những phương pháp tổ chức đồng
tâm và phát triển. Phương pháp dạy học hướng vào người học nhằm tơn trọng
lợi ích, quyền lợi, sáng tạo cá nhân của HS.Nhờ đó, tư duy của người học sẽ được

hình thành và phát triển trong mơi trường, điều kiện tốt nhất.

• Trần Luận với cơng trình “Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh phổ
thông qua hệ thống bài tập” tác giả đã đưa ra hệ thống bài tập phong phú và đa
dạng nhằm phát triển khả năng tư duy cho HS. Từ những bài tập đó, địi hỏi HS
phải biết suy nghĩ, huy động các kiến thức đã có để giải quyết vấn đề chính là
HS đang tư duy.
• Lê A, Thành Thị Yến Mỹ, Lê Phương Nga, Nguyễn Trí trong “Phương
pháp dạy học Tiếng Việt” (NXB Giáo dục, 2000) đã đưa ra phương pháp dạy
học Tiếng Việt cụ thể cho từng phân mơn theo chương trình giáo dục cũ, khi đó
phân mơn “Luyện từ và câu” chưa xuất hiện mà nó tồn tại dưới hai phân mơn:
Từ ngữ và ngữ pháp.
• Alêcxâyep với cơng trình: “Phát triển tư duy cho học sinh” đã chỉ ra tầm
quan trọng của việc phát triển tư duy cho HS đồng thời đưa ra những phương
pháp, biện pháp nhằm phát triển khả năng tư duy cho HS.


•Đinh Thị Oanh, Vũ Thị Kim Dung, Phạm Thị Thanh với cơng trình “
Tiếng Việt và phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học” ( NXB Giáo dục,
2006) đã đưa ra phương pháp dạy học Tiếng Việt và cụ thể cho từng phân mơn
Tiếng Việt. Trong đó có phương pháp dạy học “Luyện từ và câu” và điểm qua
về dạy học theo hướng đổi mới, tích cực, tạo hứng thú học tập cho HS.
• Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục (Bộ GD-ĐT) có bài viết
“Các kiểu thi trắc nghiệm” đã đề cập đến khái niệm và hình thức các dạng câu
hỏi trắc nghiệm. Tài liệu cũng nói đến những điểm mạnh mà TNKQNLC mang
lại và giải thích cho chúng ta biết vì sao nên dùng dạng câu hỏi này trong q
trình dạy học.
Những cơng trình nghiên cứu trên là tài liệu gợi ý quý báu cho tơi trong
q trình tiến hành thực hiện đề tài. Phát triển tư duy cho HS Tiểu học là một
vấn đề đang được nhiều nhà giáo dục quan tâm, đề cập trên nhiều phương diện,

tuy nhiên nó vẫn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát chung. Với khóa luận này, tôi
tiếp tục nghiên cứu cụ thể hơn về việc sử dụng hệ thông bài tập TNKQNLC
trong phân môn “Luyện từ và câu” lớp 3 nhằm rèn luyện và phát triển khả năng
tư duy của HS.
1.2. Một số vấn liên quan đến tư duy và phát triển tư duy cho học sinh lớp 3
1.2.1. Khái niệm về tư duy
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tư duy, theo Từ điển Bách khoa toàn
thư Việt Nam, tập 4 “Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức
một cách đặc biệt -Bộ não người - Tư duy phản ánh tích cực hiện thực khách
quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lý luận .v.v...” [19; tr 12] . Theo
một định nghĩa khác, "tư duy" là danh từ triết học dùng để chỉ những hoạt động
của tinh thần, nó đem lại những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới
thông qua hoạt động vật chất tức là hoạt động của trí não, làm cho người ta có
cách nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng xử tích cực với nó.
M.N.Sacđacơp khẳng định: “ Tư duy là sự nhận thức khái quát gián tiếp
các sự vật và hiện tượng của hiện thực trong những dấu hiệu, những thuộc tính
chung và bản chất của chúng. Tư duy cũng là sự nhận thức sáng tạo những sự
vật, hiện tượng mới, riêng rẽ của hiện thực trên cơ sở những kiến thức khái quát
hóa đã thu nhận được” [13; tr 56].


Còn theo tác giả Nguyễn Xuân Trường ( ĐHSP Hà Nội) thì “Tư duy là
hành động trí tuệ nhằm thu thập và xử lý thông tin về thế giới quanh ta và thế
giới trong ta. Chúng ta tư duy để hiểu, làm chủ tự nhiên và xã hội của chính
mình”. [ 25; tr 1]
1.2.2. Đặc điểm của tư duy
Cơ chế hoạt động cơ sở của tư duy dựa trên hoạt động sinh lý của bộ não
với tư cách là hoạt động thần kinh cao cấp. Mặc dù không thể tách rời não
nhưng tư duy khơng hồn tồn gắn liền với một bộ não nhất định. Trong quá
trình sống, con người giao tiếp với nhau, do đó tư duy của từng người vừa tự

biến đổi qua quá trình hoạt động của bản thân vừa chịu sự tác động biến đổi từ
tư duy của đồng loại thơng qua hoạt động có tính vật chất. Tư duy không chỉ gắn
với bộ não của từng cá thể người mà còn gắn với sự tiến hóa của xã hội, trở
thành một sản phẩm có tính xã hội trong khi vẫn duy trì được tính cá thể của
một con người nhất định.
Tư duy bắt nguồn từ hoạt động tâm lý. Hoạt động này gắn liền với phản xạ
sinh lý là hoạt động đặc trưng của hệ thần kinh cao cấp. Hoạt động đó diễn ra ở
các động vật cấp cao, đặc biệt biểu hiện rõ ở người. Theo quan điểm của triết
học duy vật biện chứng, lao động là một trong các yếu tố quyết định để chuyển
hóa vượn có dạng người thành con người. Từ chỗ là một lồi động vật thích ứng
với tự nhiên bằng bản năng tự nhiên, con người đã phát triển sự thích ứng đó
bằng bản năng thứ hai là tư duy với năng lực trừu tượng hóa ngày càng sâu sắc
đến mức nhận thức được bản chất của hiện tượng, quy luật của tự nhiên và nhận
thức được chính bản thân mình.
Tư duy bao gồm các đặc điểm sau:
- Tư duy là sản phẩm của bộ não con người và là một q trình phản ánh
tích cực thế giới khách quan.
- Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là một ý nghĩ và được thể hiện
qua lời nói.
- Bản chất của tư duy là ở sự phân biệt, sự tồn tại độc lập của đối tượng
được phản ánh với hình ảnh nhận thức được qua khả năng hoạt động của con
người nhằm phản ánh đối tượng.


- Tư duy là quá trình phát triển năng động và sáng tạo.
- Khách thể trong tư duy được phản ánh với nhiều mức độ khác nhau từ
thuộc tính này đến thuộc tính khác, nó phụ thuộc vào chủ thể là con người.
1.2.3. Phẩm chất của tư duy
Những cơng trình nghiên cứu về tâm lí học và giáo dục đã khẳng định rằng:
Sự phát triển tư duy nói chung được đặc trưng bởi sự tích luỹ các thao tác tư duy

thành thạo vững chắc của con người. Những phẩm chất của tư duy là:
Tính định hướng: thể hiện ở ý thức nhanh chóng và chính xác đối tượng
cần lĩnh hội, mục đích phải đạt và con đường tối ưu để đạt mục đích đó.
Bề rộng: thể hiện có khả năng vận dụng nghiên cứu các đối tượng khác.
Độ sâu: thể hiện ở khả năng nắm vững ngày càng sâu sắc bản chất của sự
vật, hiện tượng.
Tính linh hoạt: thể hiện ở sự nhạy bén trong việc vận dụng những tri thức
và cách thức hành động vào các tình huống khác nhau một cách sáng tạo.
Tính mềm dẻo: thể hiện ở hoạt động tư duy được tiến hành theo các hướng
xuôi và ngược chiều (Ví dụ: từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ
thể...)
Tính độc lập: thể hiện ở chỗ tự mình phát hiện được vấn đề, đề xuất cách
giải quyết và tự giải quyết vấn đề.
Tính khái quát: thể hiện ở chỗ khi giải quyết mỗi loại nhiệm vụ sẽ đưa ra
mơ hình khái qt. Từ mơ hình khái qt này có thể vận dụng để giải quyết các
vấn đề cùng loại.
Để đạt được những phẩm chất tư duy trên, trong quá trình dạy học chúng ta
chú ý rèn luyện cho HS các thao tác tư duy.
1.2.4. Phát triển năng lực tư duy
Việc phát triển tư duy cho HS trước hết là giúp HS nắm được các kiến thức
cần lĩnh hội đồng thời cần biết vận dụng các kiến thức đó vào việc giải bài tập
và thực hành. Qua đó HS sẽ nắm chắc hơn kiến thức và biến những kiến thức đó
trở nên sinh động. HS chỉ thực sự lĩnh hội được tri thức khi tư duy của các em
phát triển.


Tư duy càng phát triển thì khả năng tiếp thu tri thức sẽ diễn ra nhanh, sâu
sắc và có chất lượng hơn, khả năng vận dụng kiến thức càng linh hoạt và hiệu
quả hơn. Như vậy việc phát triển tư duy cho HS có vai trị tiên quyết trong việc
tiếp thu tri thức của HS. Sự phát triển tư duy của HS được diễn ra xuyên suốt

quá trình tiếp thu và vận dụng tri thức. Khi tư duy phát triển sẽ tạo ra một kỹ
năng và thói quen làm việc có suy nghĩ, có phương pháp chuẩn bị lâu dài cho
HS hoạt động sáng tạo sau này. Do đó hoạt động trong phân môn “Luyện từ và
câu” cần phải tập luyện cho HS khả năng tư duy thông qua hệ thống bài tập
TNKQNLC. Từ những hoạt động dạy và học trên lớp, GV cần vận dụng hệ
thống bài tập trắc nghiệm nhằm phát triển khả năng tư duy của HS trong phân
môn “Luyện từ và câu”. HS tham gia vào hoạt động này một cách tích cực sẽ
nắm được các kiến thức và phương pháp nhận thức đồng thời các thao tác tư duy
sẽ được rèn luyện.
1.2.5. Dấu hiệu đánh giá tư duy phát triển
Để có thể đánh giá sự phát triển của tư duy ta cần căn cứ vào các biểu hiện
sau:
* HS có khả năng vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào các tình huống khác
nhau: Trong quá trình học tập, HS đều phải giải quyết những vấn đề đòi hỏi cần
sự liên tưởng đến những kiến thức đã được học trước đó. Nếu HS biết cách sử
dụng các kiến thức cũ vào các tình huống mới thì chứng tỏ đã có biểu hiện của
tư duy phát triển.
* Tái hiện nhanh chóng các kiến thức, các mối quan hệ cần thiết để giải
quyết một bài tập cụ thể nào đó. Thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ bản
chất giữa các sự vật hiện tượng đã có trước đó.


Có khả năng phát hiện ra những cái chung và cái riêng của các hiện

tượng, vấn đề khác nhau. Từ đó tìm ra cách giải quyết phù hợp cho từng vấn đề.


Có năng lực vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn. Đây là kết quả

phát triển tổng hợp của sự phát triển tư duy. Để có thể giải quyết được các bài

tập đòi hỏi HS phải biết phân tích, suy đốn, vận dụng các thao tác tư duy để có
cách giải quyết thích hợp.


1.3. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát triển tư duy cho học sinh
Theo Luật Giáo dục 2005, những mục tiêu cơ bản của bậc học phổ thơng
nói chung, bậc học Tiểu học nói riêng là hình thành và phát triển được nền tảng
tư duy của con người trong thời đại mới, bao gồm: Những kiến thức và kĩ nẵng
cơ bản như: đọc, viết, tính tốn và những kiến thức cơ bản của các môn học
trong nhà trường phổ thông; những kĩ năng tư duy và hoạt động sáng tạo như:
biết cách suy luận, phát hiện và giải quyết vấn đề, biết cách học và tự học, có tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo…; phẩm chất và nhân cách con người mới như:
có bản lĩnh, có ý thức và tinh thần trách nhiệm, trung thực, biết tự quản lý và
làm chủ bản thân, có đời sống nội tâm phong phú, có nhân cách cao cả… Trong
đó, mục tiêu phát triển năng lực giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo ở người học
được vô cùng coi trọng. Điều này thể hiện trong nhà trường chính là thơng qua
dạy kiến thức để hình thành và phát triển năng lực tư duy, phát triển trí tuệ, tư
duy sáng tạo và các phẩm chất nhân cách khác của HS. Như vậy, thơng qua dạy
và học để tạo nền móng trí tuệ, cách thức giải quyết vấn đề, hoạt động sáng tạo
ở người học được xem như một trong những mục tiêu cơ bản, trọng tâm của
giáo dục ở nhà trường phổ thơng nói chung, nhà trường Tiểu học nói riêng trong
thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước hiện nay.
Phát triển tư duy cho HS tức là giúp HS nắm kiến thức một cách sâu sắc,
bền vững, khơng học vẹt, khơng máy móc, rập khn. Biết vận dụng kiến thức
vào thực tiễn một cách linh hoạt có hiệu quả. Tư duy càng phát triển thì khả
năng nắm bắt tri thức càng nhanh và sâu sắc. Chính vì vậy việc phát triển tư duy
cho HS là một việc làm hết sức có ý nghĩa.
L.N Tơnxtơi đã nói “Kiến thức chỉ thực sự là kiến thức khi nó là thành quả
của những cố gắng tư duy chứ không phải trí nhớ” [25; tr 1] điều đó có nghĩa là
HS chỉ lĩnh hội được kiến thức khi họ thực sự tư duy. Trong thực tế, không phải

sự vật hiện tượng nào cũng rõ ràng để chúng ta có thể tri giác hay cảm giác
được. Có những sự vật hiện tượng mà chỉ có tư duy chúng ta mới có thể nắm
được. Do đó, việc phát triển năng lực tư duy có ý nghĩa to lớn trong q trình
học tập và tiếp thu tri thức của HS. Bằng cách tư duy người học có thể nắm bắt


tri thức một cách dễ dàng hơn, vận dụng kiến thức vào thực tiễn một cách linh
hoạt và mềm dẻo hơn. Tư duy giúp HS tự rèn luyện được những đức tính tốt,
cần thiết như tính độc lập, tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc giải quyết
những tình huống có vấn đề.
Ví dụ: Khi trẻ bắt gặp một bài tốn khó, tức là trẻ đã gặp được một tình
huống có vấn đề bắt buộc trẻ phải tư duy. Bài tốn là một cái mới, do đó khi trẻ
tư duy chính là lúc trẻ đã phát huy được khả năng độc lập suy nghĩ, chủ động
sáng tạo để giải bài toán dựa trên những kiến thức mà trẻ đã có.
Bên cạnh đó từ việc phát triển tư duy sẽ góp phần rất lớn vào việc phát
triển ngơn ngữ cho HS. Khả năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt giúp trẻ dễ dàng
hồ nhập với trường lớp, bạn bè.
Ví dụ: Khi trẻ tư duy để thực hiện xong bài toán, để nêu ra kết quả mà trẻ
tư duy được cho người khác nghe và hiểu. Đòi hỏi trẻ sử dụng ngơn ngữ phải
chính xác, ngắn gọn để người khác hiểu được điều trẻ muốn nói. Do đó, thơng
qua tư duy sẽ giúp trẻ biết sử dụng ngôn ngữ để thể hiện suy nghĩ của mình,
giúp trẻ phát triển trong hoạt động giao tiếp.
Phát triển tư duy cho HS Tiểu học thông qua hệ thống dạy học phân môn
“Luyện từ và câu” chính là việc đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa lời nói và tư
duy. Tạo điều kiện cho HS thực hành thường xuyên để quen dần với kiến thức
ngơn ngữ khá trừu tượng, để từ đó phát triển tư duy cho HS Tiểu học một cách
tự nhiên nhất khi trẻ đã tự hình thành cho mình thói quen sử dụng đúng cấu trúc
câu khi làm bài tập cũng như diễn đạt suy nghĩ bản thân một cách đa dạng.
Thông qua việc rèn luyện và phát triển tư duy cho HS trong phân mơn
“Luyện từ và câu” góp phần vào việc hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết

giúp HS có điều kiện và phương tiện cần thiết trong học tập. Việc hình thành kỹ
năng này là chìa khóa cho sự phát triển nhận thức đúng đắn. Nắm được ngơn
ngữ lời nói cũng là điều thiết yếu của việc hình thành tích cực xã hội hóa của
nhân cách.
Phát triển tư duy cho HS Tiểu học qua dạy học phân mơn “Luyện từ và
câu” chính là giúp trẻ có thói quen tư duy một cách logic. Giúp trẻ hình thành
được tư duy hình tượng. Các đơn vị và các dạng thức ngôn ngữ cần được khái
quát một cách cụ thể. Thơng qua việc hướng dẫn, phân tích các đơn vị ngôn ngữ


riêng lẻ, HS có thể tư duy logic để hình thành nên được các khái niệm trong đầu.
Từ đó thêm một lần nữa sử dụng tư duy logic để áp dụng kiến thức vào cuộc
sống giao tiếp bằng ngôn ngữ hằng ngày. Điều đó để khẳng định rằng việc phát
triển tư duy cho HS là một vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng.
1.4. Đặc điểm tâm sinh lý học sinh lớp 3 trong mối quan hệ với phát triển tư
duy
Trẻ em có nhu cầu lớn trong hoạt động và tiếp xúc, song việc hoạt động
ngoài giờ lên lớp, sự tiếp xúc hằng ngày của trẻ với môi trường xung quanh,
giao tiếp mọi người chỉ là ngẫu nhiên, bộc phát, hồn tồn khơng chủ động. Tổ
chức cho trẻ được hoạt động cả về trí tuệ lẫn thể chất, tạo môi trường cho các
em tiếp xúc, giao tiếp bạn bè, thầy cơ một cách tự nhiên, có nội dung, có phương
pháp, có kế hoạch phục vụ mục đích giáo dục đề ra. Muốn nâng cao hoạt động
giáo dục cần nắm vững đặc điểm phát triển của HS.
Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về đặc điểm tâm sinh lý của HS tiểu
học. Ở đây chúng tôi chỉ nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý có thể ảnh hưởng đến
q trình tư duy của HS.
(1) Sự phát triển của quá trình nhận thức (nhận thức lý tính):
• Tư duy:
Tư duy của HS lớp 3 mang đậm tính cảm xúc và chiếm ưu thế hơn là tư
duy trực quan hành động. Các phẩm chất của tư duy chuyển dần từ tính cụ thể

sang tư duy trừu tượng khái quát. Hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức của
HS lớp 3 cịn sơ đẳng. Ở lứa tuổi này, năng lực trừu tượng hóa và khái quát hóa
đang phát triển mạnh nhưng chưa đầy đủ, còn phải dựa vào những sự vật cụ thể,
những tài liệu trực quan. Các em chưa thể tự mình suy luận một cách lơgíc và
thường dựa vào những mối liên hệ ngẫu nhiên của sự vật và hiện tượng. Ở lứa
tuổi này tư duy của các em còn mang tính cảm xúc. Trẻ xúc cảm rất sinh động
với tất cả những điều suy nghĩ.
• Tưởng tượng:
Ở lứa tuổi này khả năng tưởng tượng đã khá phát triển. Tuy nhiên, tưởng
tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:


Khả năng tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thành, từ những hình ảnh cũ
trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. trong giai đoạn này, tưởng tượng sáng tạo
đang trong giai đoạn phát triển, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn,
vẽ tranh… Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối
mạnh mẽ bởi các cảm xúc, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng… Qúa
trình tưởng tượng của trẻ ít có tổ chức, hình ảnh tưởng tượng chưa được gọt dũa,
hay thay đổi, chưa bền vững.
• Ngơn ngữ và sự phát triển nhận thức.
Ngôn ngữ của các em phát triển mạnh cả về ngữ âm, ngữ pháp và từ ngữ.
Nhờ có ngơn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế
giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác
nhau. Thông qua khả năng ngơn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát
triển trí tuệ của trẻ.
• Chú ý và sự phát triển nhận thức của trẻ.
Ở lứa tuổi này chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế. Chú ý chủ định của
trẻ cịn yếu, khả năng kiểm sốt, điều khiển chú ý còn hạn chế. Trẻ chỉ tập trung
chú ý tốt khoảng 20-25 phút, khối lượng chú ý không lớn (chỉ từ 2 đến 3 đối
tượng), khả năng phân phối chú ý còn bị hạn chế nhiều, nhưng sự di chuyển chú

ý lại phát triển nhanh vì hưng phấn của chúng linh hoạt và nhạy cảm.
• Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của trẻ.
Trí nhớ của trẻ đang phát triển mạnh. Loại trí nhớ trực quan hình tượng
chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - logic. Giai đoạn này ghi nhớ máy móc phát
triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều HS
chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi
nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Nói tóm lại, khi trẻ bắt đầu bước vào trường Tiểu học là một bước ngoặt
lớn. Mơi trường thay đổi địi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30
– 35 phút. Chuyển từ hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám
phá. Bước đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bộc phát để chuyển thành tính kỷ
luật, nề nếp, chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững


của các thao tác tinh khéo của đôi bàn tay để tập viết… Tất cả đều là thử thách
của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm
giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa
học.
(2) Sự phát triển tình cảm của trẻ.
Tình cảm của trẻ mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật,
hiện tượng sinh động, rực rỡ… Lúc này khả năng kiềm chế tình cảm của trẻ còn
non nớt. Các em dễ bị “ lây” những cảm xúc của người khác, tình cảm của trẻ dễ
thay đổi, biểu hiện dễ thấy nhất là trẻ dễ khóc cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vơ
tư. Tình cảm gia đình giữ vai trị quan trọng đối với trẻ. Tình bạn và tính tập thể
được hình thành và phát triển cùng với tình thầy trị.
1.5. Một số vấn đề về bài tập trắc nghiệm khách quan
1.5.1. Khái niệm
Trắc nghiệm là một hoạt động để đo lường năng lực của một đối tượng nào
đó nhằm những mục đích xác định.
Trắc nghiệm khách quan là loại hình câu hỏi, bài tập mà các phương án trả

lời đã có sẵn, hoặc nếu HS phải tự viết câu trả lời thì câu trả lời phải là câu ngắn
và chỉ duy nhất có một cách viết đúng. Trắc nghiệm này được gọi là "khách
quan" vì tiêu chí đánh giá là đơn nhất, hồn tồn khơng phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của người chấm.
1.5.2. Ưu nhược điểm của bài tập trắc nghiệm khách quan
* Ưu điểm
+ Bài kiểm tra bằng TNKQ bao gồm rất nhiều câu hỏi nên có thể bao quát
một phạm vi rất rộng của nội dung chương trình.
+ Có tiêu chí đánh giá đơn nhất, khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
người chấm.
+ Sự phân bố điểm của các bài kiểm tra bằng TNKQ được trải trên một phổ
rộng hơn nhiều.
+ Có thể sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại trong việc chấm điểm
và phân tích kết quả kiểm tra.


* Nhược điểm
+ Không cho phép đánh giá năng lực diễn đạt của HS cũng như khơng cho
thấy q trình suy nghĩ của HS để trả lời một câu hỏi hoặc giải đáp một bài tập.
+ Việc biên soạn đề kiểm tra rất khó và mất nhiều thời gian.
Trắc nghiệm khách quan được áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau như:
- Trắc nghiệm về khả năng riêng biệt của HS nhằm mục đích phân nhóm
học sinh theo sở trường riêng của cá nhân.
- Trắc nghiệm chuẩn hóa: Theo mục đích chuẩn hóa những câu chủ yếu của
đào tạo.
- Trắc nghiệm kiến thức: Nhằm kiểm tra kiến thức của HS.
1.5.3. Các hình thức trách nhiệm khách quan
* Trắc nghiệm đúng sai
Đây là dạng câu hỏi trắc nghiệm đơn giản nhất. Phần dẫn của dạng trắc
nghiệm này trình bày một nội dung nào đó mà HS phải đánh giá là Đúng hay

Sai. Phần trả lời có hai phương án: đúng (Đ) và sai (S). Độ may rủi trong loại
câu hỏi này là 50%.
Ví dụ: Hàng xoan là từ chỉ sự vật đúng hay sai?
a, Đúng
b, Sai
+ Ưu điểm
- Đây là loại câu hỏi trắc nghiệm kiến thức về những sự kiện, vì vậy khi
viết loại câu hỏi này thường đơn giản, ít tốn cơng, mang tính khách quan khi
chấm.
- Có thể đưa ra nhiều nội dung trong một thời gian ngắn.
- Dễ biên soạn.
+ Nhược điểm
- Xác suất chọn được phương án đúng cao. Độ tin cậy thấp.
- Nếu dùng nhiều câu lấy từ SGK sẽ khuyến khích HS học vẹt, có nghĩa là
tạo điều kiện cho HS học thuộc lịng hơn là hiểu.


- Việc dùng nhiều câu "sai" có thể gây ra tác dụng tiêu cực trong việc ghi
nhớ kiến thức.
- Tiêu chí "Đúng, Sai" có thể phụ thuộc vào chủ quan của HS và người
chấm.
+ Phạm vi sử dụng
- Thích hợp cho việc kiểm tra vấn đáp nhanh.
-Thường sử dụng khi khơng tìm được đủ phương án cho câu nhiều lựa
chọn.
* Trắc nghiệm ghép đơi
Loại câu này được trình bày thành hai dãy, dãy bên trái là phần dẫn, trình
bày những nội dung muốn kiểm tra (khái niệm, định nghĩa, định luật...), dãy bên
phải là phần trả lời trình bày các nôi dung (câu, mệnh đề, công thức...) phù hợp
với nội dung phần dẫn. Đòi hỏi HS phải ghép đúng từng cặp nhóm từ ở hai cột

sao cho phù hợp về nội dung. Để tránh sự đốn mị của HS, người ta thường để
số câu lựa chọn ở bên phải lớn hơn số câu dẫn ở bên trái.
Ví dụ: ( Tuần 26- Chủ điểm: Lễ hội- BT1-Tr70- Tập 2): Chọn nghĩa thích
hợp ở cột B cho các từ ở cột A
A
Lễ
Hội
Lễ hội

B
Hoạt động tập thể có cả phần lễ và phần hội
Cuộc vui tổ chức cho đông người dự theo phong tục hoặc nhân
dịp đặc biệt
Các nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự kiện có ý
nghĩa

+ Ưu điểm
- Có thể kiểm tra nhiều nội dung trong một thời gian ngắn.
- Giúp HS tốn ít thời gian khi làm bài
+ Nhược điểm
- Dễ trả lời thông qua việc loại trừ.
- Khó đánh giá được mức độ tư duy ở trình độ cao.
- HS mất nhiều thời gian làm bài vì mỗi câu hỏi phải đọc lại tồn bộ những
câu lựa chọn, trong đó có cả những câu rõ ràng là khơng thích hợp.


+ Phạm vi sử dụng
- Thích hợp với kiểm tra việc nhận biết kiến thức cơ bản sau khi học xong
một chương, một chủ đề.
* Trắc nghiệm điền khuyết

Có thể có hai dạng, chúng có thể là những câu hỏi với giải đáp ngắn, hay
cũng có thể gồm những câu phát biểu với một hai hay nhiều chỗ trống mà HS
phải điền vào một từ hay một nhóm từ ngắn phù hợp với nội dung của câu phát biểu.
Ví dụ: (Tuần 8- Chủ điểm: Thầy cô-BT2- Tr67- Tập 1): Chọn từ trong
ngoặc đơn thích hợp với mỗi chỗ trống:
(giơ, đuổi, chạy, nhe, luồn)
Con mèo, con mèo
… theo con chuột
… vuốt, … nanh
Con chuột … quanh
Luồn hang … hốc.
Đồng dao
+ Ưu điểm
- Khảo sát được khả năng nhớ.
- Dễ biên soạn.
- HS trả lời ngắn gọn, đơn nhất, đơn trị.
+ Nhược điểm
- Tiêu chí đánh giá có thể khơng hồn tồn khách quan.
+ Phạm vi sử dụng
- Thích hợp cho các mơn ngoại ngữ, xã hội và nhân văn.
- Thích hợp lớp dưới.
* Trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
Là loại câu hỏi đưa ra một nhận định và một số phương án trả lời, thường
có hình thức là một câu phát biểu chưa đầy đủ hay một câu hỏi có câu dẫn được
nối tiếp bằng một câu trả lời mà HS phải lựa chọn: câu trả lời đúng nhất, câu trả
lời sai hoặc có nhiều hơn một câu trả lời thích hợp. HS phải chọn để đánh dấu


vào một phương án đúng. Mức độ may rủi được chia đều cho từng đáp án lựa
chọn.

Ví dụ: Những từ ngữ nào sau đây chỉ sự vật?
a, Yêu, thương, ghét, giận...
b, Đi, chạy, nhảy, múa...
c, Bút bi, thước, vở, sách...
+Ưu điểm
- Đối với loại TNKQ có thể dùng kiểm tra đánh giá kiến thức trên một
vùng rộng một cách nhanh chóng, khách quan chính xác. Nó cho phép xử lí kết
quả theo nhiều chiều với từng HS cũng như tổng thể cả lớp hoặc một trường
học, giúp cho GV kịp thời điều chỉnh hoàn thiện phương pháp dạy để nâng cao
hiệu quả dạy học.
- Độ tin cậy cao. Yếu tố đốn mị, may rủi giảm dần khi số đáp án lựa chọn
tăng lên và phân biệt kĩ càng khi trả lời.
- Tính chất giá trị tốt hơn.
- Có thể phân tích được tính chất "mồi" câu hỏi.
- Tính khách quan khi chấm.
- Có thể sử dụng cho mọi loại kiểm tra đánh giá.
- Rất thích hợp cho việc đánh giá phân loại.
+ Nhược điểm
- Khó soạn câu hỏi vì phải mất nhiều thời gian để tìm kiếm đáp án đúng
nhất.
- Chiếm nhiều trang giấy kiểm tra.
- Dễ nhắc nhau khi làm bài.
- HS nào có óc sáng tạo có thể tìm ra câu trả lời hay hơn phương án đã cho,
nên họ có thể khơng thỏa mãn.
+ Phạm vi sử dụng
- Có thể sử dụng cho mọi loại kiểm tra đánh giá.
- Rất thích hợp cho việc đánh giá - phân loại.


Trong các kiểu câu trắc nghiệm đã nêu, kiểu câu đúng - sai và kiểu câu

nhiều lựa chọn có cách trả lời đơn giản nhưng lại có khả năng rèn luyện kỹ năng
tư duy cho HS nhất. Câu đúng - sai cũng chỉ là trường hợp riêng của câu nhiều
lựa chọn với hai câu trả lời. Vì vậy trong các kiểu câu trắc nghiệm, kiểu câu
nhiều lựa chọn được sử dụng phổ biến hơn cả. Nếu câu nhiều lựa chọn được
soạn tốt thì một người khơng có kiến thức cũng như không biết tư duy sẽ không
thể nhận biết được trong tất cả các phương án để chọn đâu là phương án đúng,
đâu là phương án nhiễu. Như đã đề cập ở phần lí do chọn đề tài và những ưu
khuyết điểm của phương pháp TNKQNLC với các phương pháp khác, đây là
phương pháp phù hợp nhất trong việc phát triển tư duy cho HS và cũng là loại
câu hỏi mà chúng tôi sử dụng ở chương sau.
1.5.4. Cấu trúc và quy tắc sử dụng hệ thống bài tập TNKQNLC
* Cấu trúc của dạng bài tập TNKQNLC
Một câu hỏi nhiều lựa chọn gồm hai phần: phần "gốc" hay còn gọi là câu
dẫn và phần "lựa chọn" còn gọi là câu chọn.
+ Phần gốc ( Câu dẫn): Trình bày một vấn đề, một câu hỏi hoặc một câu
chưa hoàn chỉnh... Điều này như một gợi ý kích thích câu trả lời cho học sinh.
+ Phần lựa chọn ( Câu chọn ): Gồm một số câu mệnh đề (thường từ ba đến
năm câu là phù hợp) để trả lời hoặc hoàn chỉnh phần dẫn. Trong số các phương
án trả lời chỉ có một phương án đáp ứng đúng yêu cầu của phần dẫn.
* Quy tắc sử dụng hệ thống bài tập TNKQNLC
+ Câu hỏi TNKQNLC chỉ được đem ra sử dụng khi nó thích hợp nhất với
phương pháp đánh giá mà ta đặt ra. Cần tránh dùng câu TNKQNLC khi ta cần
đặt các loại câu hỏi: Câu hỏi mở, câu hỏi dành cho việc đánh giá khả năng tóm
tắt và hệ thống kiến thức, câu hỏi dành cho việc đánh giá khả năng tập trung hay
khả năng sáng tạo.
+ Câu TNKQNLC cần phải hướng GV đến diễn biến tư duy đã sử dụng của HS.
+ Câu TNKQNLC cần phải gắn liền với mục đích kiểm tra và nội dung
kiến thức cần truyền đạt đến HS.
+ Câu TNKQNLC không được gây trở ngại cho việc học mà phải phục vụ
cho việc tiếp thu tri thức của HS.



1.6. Mối quan hệ giữa bài tập trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn và
việc phát triển tư duy cho học sinh
Xây dựng hệ thống bài tập TNKQNLC nhằm phát triển tư duy của HS. Do
đó, người GV cần phải tạo điều kiện để thông qua hoạt động này năng lực tư
duy của HS sẽ được phát triển, HS sẽ có những phẩm chất tư duy mới, thể hiện
ở chỗ:
- Năng lực phát hiện vấn đề mới.
- Tìm ra hướng mới.
- Tạo ra kết quả học tập mới.
Thông qua hệ thống bài tập TNKQNLC học sinh rèn luyện được khả năng
tư duy khi cần phải suy nghĩ để lựa chọn ra câu trả lời chính xác nhất. Đồng thời
để có thể giải quyết được bài tập TNKQNLC học sinh cần phải tiến hành suy
nghĩ, phán đoán, huy động các kiến thức đã học để giải quyết vắn đề, khi đó HS
đã tư duy. Điều đó cho ta thấy việc phát triển tư duy và hệ thống bài tập
TNKQNLC có quan hệ bổ trợ cho nhau.
Để thể hiện được mối quan hệ này, người GV cần ý thức được mục đích
của việc sử dụng hệ thống bài tập TNKQNLC, từ đó biết lựa chọn, tìm tịi những
bài tập trắc nghiệm phong phú, đa dạng, có sự đầu tư cho hệ thống câu hỏi này
nhằm phục vụ cho việc phát triển tư duy cho HS.
Bên cạnh đó, thơng qua việc giải các bài tập TNKQNLC sẽ giúp cho tư duy
được rèn luyện và phát triển thường xuyên, đúng hướng, thấy được những giá trị
lao động, đưa khả năng hiểu biết thế giới của HS lên một tầm cao mới, góp phần
cho quá trình hình thành nhân cách tồn diện cho HS.
***
Từ những vấn đề nghiên cứu, chúng tơi đã tóm lược lại những vấn đề chính
yếu mà nghiên cứu lựa chon. Điều này có giá trị định hướng cho chương tiếp theo.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO
HỌC SINH LỚP 3 TRONG PHÂN MÔN “LUYỆN TỪ VÀ CÂU” THƠNG

QUA HỆ THỐNG BÀI TẬP TNKQNLC
2.1. Vị trí của phân môn “ Luyện từ và câu”


Phân mơn “Luyện từ và câu” chiếm một vị trí quan trọng trong mơn Tiếng
Việt nói chung và tiếng Việt lớp 3 nói riêng. Đây là một phân mơn mới trong
môn Tiếng Việt ở Tiểu học, phân môn này được hình thành trên cơ sở của hai
phân mơn cũ trước đây: Từ ngữ và ngữ pháp. Việc nhập hai phân mơn lại với
nhau dựa vào quan điểm tích hợp trong việc biên soạn SGK Tiếng Việt ở Tiểu
học mới. Theo quan điểm trên, việc dạy kiến thức Tiếng Việt không tách rời
cung cấp những kiến thức của môn học khác; đồng thời các phân môn khác nhau
trong Tiếng Việt cũng gắn bó, liên kết chặt chẽ với nhau. “Luyện từ và câu” là
một phân môn khoa học cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt,
rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu và khả năng diễn đạt cho HS.
Việc dạy và học “Luyện từ và câu” ở Tiểu học có một tầm quan trọng rất
lớn trong việc hình thành cho HS năng lực sử dụng từ và sử dụng câu. Việc dạy
từ không thể tách rời khỏi việc dạy câu. Từ và câu có vai trị đặc biệt quan trọng
trong hệ thống ngôn ngữ. Từ chỉ cho chúng ta biết khái niệm, còn câu mới cho
chúng ta biết một thông báo. Từ là đơn vị trung tâm của ngơn ngữ. Câu là đơn vị
nhỏ nhất có thể thực hiện chức năng giao tiếp. Muốn hiểu rõ những đặc điểm
khác nhau về từ, cần đặt từ vào trong câu. Ngược lại câu được cấu tạo nên bởi
một số lương từ nhất định. Do đó, việc dạy từ và câu trong phân môn “Luyện từ
và câu” phải đi kèm với nhau.
Bên cạnh đó, việc dạy “Luyện từ và câu” nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm
phong phú vốn từ của HS, cung cấp cho các em những hiểu biết sơ giản, rèn cho
HS kỹ năng dùng từ đặt câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình một cách
linh hoạt. Thông qua phân môn “Luyện từ và câu” hướng dẫn cho HS trong việc
nghe, viết, đọc, nói và phát triển ngơn ngữ, trí tuệ cho trẻ.
Trong giao tiếp, chúng ta nói một người nào đó nắm được ngơn ngữ có
nghĩa là chúng ta đã khẳng định người đó có số lượng từ nhất định và biết sử

dụng vốn từ đó đúng với các quy tắc ngữ pháp, với nghi thức lời nói trong hoạt
động giao tiếp của mình. Một HS khi sở hữu một số lượng từ phong phú, điều
đó có nghĩa là các em đã hiểu về thế giới xung quanh mình nhiều hơn, các em đã
lưu giữ được kinh nghiệm, bài học về cuộc sống tốt hơn thông qua các khái


niệm mà các em có được. Bên cạnh đó nhờ có vốn từ dồi dào giúp cho các em tư
duy một cách chính xác, chặt chẽ và logic hơn. Khơng có vốn từ, các em sẽ
khơng có đủ điều kiện thể hiện một cách sinh động, đầy đủ ý nghĩ của mình.
Nhờ có vốn từ ngày càng được mở rộng và phong phú mà việc giao tiếp của các
em sẽ trở nên tốt hơn trong cuộc sống học tập, sinh hoạt và vui chơi của mình.
Chính vì lẽ đó, việc dạy và học “Luyện từ và câu” có một tầm quan trọng
rất lớn trong việc hình thành cho các em năng lực sử dụng từ và cách đặt câu.
Đặc biệt, khi học tốt phân môn này sẽ tạo điều kiên, tiền đề cho các em học tốt
Tiếng Việt và những môn học khác.
Thông qua phân môn “Luyện từ và câu” sẽ tạo tiền đề và là cơ sở cho việc
phát triển tư duy của HS. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm tịi để phát triển tư duy
cho HS thơng qua phân môn “Luyện từ và câu” là việc làm không thể thiếu được
với mỗi người GV, góp phần nâng cao chất lượng học tập cho HS.
2.2. Nhiệm vụ của phân môn “ Luyện từ và câu”
Phân môn “Luyện từ và câu” thực hiện các nhiệm vụ sau:
* Mở rộng hệ thống hóa vốn từ, trang bị cho HS một số hiểu biết sơ giản về
từ và câu.
Nhiệm vụ này bao gồm những công việc sau:
+Dạy nghĩa từ: Việc dạy nghĩa từ giúp HS nắm và hiểu được nghĩa của từ,
cung cấp cho HS những từ mới và nghĩa của những từ đã biết, giúp các em nắm
được tính nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ. Việc dạy từ ngữ phải hình
thành những khả năng phát hiện ra những từ mới chưa biết trong văn bản cần
tiếp nhận, nắm một số thao tác giải nghĩa từ, phát hiện ra những nghĩa mới của
từ đã biết, làm rõ những sắc thái nghĩa khác nhau của từ trong những ngữ cảnh

khác nhau.
+ Hệ thống hóa vốn từ: việc làm này giúp HS biết cách sắp xếp các từ một
cách có hệ thống trong trí nhớ của mình để tích lũy từ được nhanh chóng và tạo
ra tính thường trực của từ. Cơng việc này hình thành ở HS kỹ năng đối chiếu từ
trong hệ thống hàng dọc của chúng, đặt từ trong hệ thống liên tưởng cùng chủ
đề, đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, cùng cấu tạo…, tức là kỹ năng
liên tưởng để huy động vốn từ. Dạy cho HS sử dụng từ, phát triển kỹ năng sử


dụng từ trong lời nói và lời viết của HS, đưa từ vào trong vốn từ tích cực được
HS dùng thường xun. Tích cực hóa vốn từ tức là dạy HS biết dùng từ ngữ
trong hoạt động nói năng của mình.
+ Dạy cho HS biết cách đặt câu, sử dụng các kiểu câu đúng mẫu, phù hợp
với hoàn cảnh và mục đích giao tiếp.
* Rèn luyện cho HS kỹ năng dùng từ, đặt câu và sử dụng dấu câu.
Phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp cho HS một số kiến thức và câu cơ
bản, sơ giản, cần thiết và vừa sức với các em. “Luyện từ và câu” trang bị cho HS
những hiểu biết về cấu trúc của từ, câu, quy luật hành chức của chúng. Cụ thể đó
là các kiến thức về cấu tạo từ, nghĩa của từ, các lớp từ, từ loại. Đồng thời cung
cấp các kiến thức về câu như cấu tạo câu, các kiểu câu, dấu câu, các quy tắc
dùng từ đặt câu và tạo văn bản để sử dụng trong giao tiếp.
* Bồi dưỡng cho HS thói quen dùng từ đúng khi nói và viết thành câu, có ý
thức sử dụng tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp.
Phân mơn “Luyện từ và câu” cung cấp cho HS một hệ thống vốn từ đa
dạng và phong phú. Thông qua việc dạy “Luyện từ và câu” tạo cho HS thói quen
dùng từ đúng khi nói và viết thành câu, rèn cho HS kỹ năng dùng từ đặt câu
đúng để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình một cách tốt nhất.
Việc dạy cho HS cách dùng từ đúng, hiểu nghĩa từ, từ đó HS thêm u
ngơn ngữ mẹ đẻ, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp.


2.3. Vài nét về chương trình và sách giáo khoa lớp 3 phân môn “Luyện từ
và câu”

* Nội dung chương trình được khái quát qua sơ đồ sau:
MRVT
Theo chủ
điểm

Từ so sánh
Nhân hóa


Chấm hỏi,
Từ chỉ sự vật
Từ chỉ

Chấm than

Từ loại

LT & C

HĐ/TT

Dấu
câu

Chấm, phẩy
Hai chấm


Từchỉ

Vì sao?

TC/ĐĐ

Như thế nào?
Câu

Đặt câu

Ở đâu?
Khi nào?
Bằng gì?
Để làm gì?

Ai là gì?

Ai làm gì?

Ai thế nào?

Chương trình “Luyện từ và câu” lớp 3 gồm 31 tiết (không kể những tuần
ôn tập giữa kỳ và ôn tập cuối học kỳ). Học kỳ I có 16 tiết. học kỳ II có 15 tiết.
Mỗi tuần có một tiết gồm các nội dung sau.
Tuần
1

Chủ điểm
Măng non


2

Măng non

3

Mái ấm

4

Mái ấm

5

Tới trường

6

Tới trường

7

Cộng đồng

8

Cộng đồng

9


Ôn tập giữa kỳ

10

Quê hương

11

Quê hương

Nội dung
Ôn về từ chỉ sự vật. So sánh
Mở rộng vốn từ: Thiếu nhi.
Ôn tập câu Ai là gì?
So sánh. Dấu chấm
Mở rộng vốn từ: Gia đình.
Ơn tập câu: Ai là gì?
So sánh
Mở rộng vốn từ: Trường học.
Dấu phẩy.
Ôn tập về các từ chỉ hoạt động, trạng thái
So sánh
Mở rộng vốn từ: Cộng đồng
Ôn tập câu: Ai làm gì?
So sánh. Dấu chấm
Mở rộng vốn từ: Quê hương.
Ơn tập câu Ai làm gì?



×